Góp phần nghiên cứu phương pháp luận triết học của Hồ Chí Minh

Tóm tắt Góp phần nghiên cứu phương pháp luận triết học của Hồ Chí Minh: ...n, chủ thể không thể và không bao giờ bắt đầu với một đầu óc trống rỗng, một “tấm bảng trắng”, mà luôn có sẵn và sử dụng những khái niệm, phạm trù dường như mang tính tiên thiên. Trong quá trình nhận thức của Hồ Chí Minh, công cụ nhận thức quan trọng nhất của Người là chủ nghĩa Mác-Lên...ng của chủ thể cũng phải “thiên biến vạn hoá”, tức là cũng phải không ngừng biến đổi, cũng phải uyển chuyển, linh hoạt, thì mới phản ánh được đối tượng không ngừng biến hoá. Hồ Chí Minh viết: “Ai mà tư tưởng cố chấp, chắc chắn là người chủ quan. Chỉ nghe, chỉ hiểu một chút, hoặc chỉ có c...vụ đã quyết định rồi, vị Tổng tư lệnh không cần nhúng vào những vấn đề lặt vặt. Phải để cho các cấp chỉ huy có quyền “tuỳ cơ ứng biến”, mới có thể phát triển tài năng của họ. Việc gì cấp trên cũng nhúng vào, cán bộ cũng như một cái máy, việc gì cũng chờ mệnh lệnh, sinh ra ỷ lại, mất hế...

pdf10 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 109 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Góp phần nghiên cứu phương pháp luận triết học của Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ừ khát 
vọng ngàn đời của nhân dân về một xã hội 
đại đồng [4, tr.35], từ các giá trị văn hóa được 
định hình, khẳng định trong lịch sử lâu dài 
dân tộc Việt Nam, chẳng hạn như lối sống 
“có tình, có nghĩa”[9], từ những đòi hỏi bức 
xúc trong xã hội hiện tại, chẳng hạn như đòi 
hỏi về độc lập tự do, về dân chủ, v.v.. Xã hội 
Việt Nam trong tương lai, theo cách tư duy 
của Hồ Chí Minh, không có gì khác hơn mà 
chính là sự hiện thực hóa những giá trị tốt đẹp 
đã và đang tồn tại và phát triển trong hiện 
thực xã hội Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại. 
Hồ Chí Minh khái quát về quan điểm toàn 
diện như sau: “Cán bộ trong khi học tập 
nghiên cứu, như nghiên cứu về xã hội, con 
người và sự vật thì phải xem xét toàn diện, 
xem quá khứ, nhất là xem hiện tại để hiểu 
biết và suy đoán tương lai. Có thế mới nhận 
định tình hình, mới nhận xét sự việc xảy ra 
được đúng đắn”[10]. Quan điểm toàn diện đã 
giúp Hồ Chí Minh không chỉ thấy xã hội đã 
biến đổi, đang biến đổi, mà còn có thể dự báo 
được nó sẽ biến đổi cũng như trạng thái mà 
nó có thể đạt tới qua biến đổi. Chính quan 
điểm về dự báo biến đổi là biểu hiện tính triệt 
Lại Quốc Khánh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 89-98 
93 
để trong quan điểm “thiên biến vạn hóa” của 
Hồ Chí Minh. Điều này thể hiện rõ trong một 
đoạn văn Hồ Chí Minh viết về sự vận hành 
của của tự nhiên và xã hội: “muốn biết Xuân 
này sẽ có ảnh hưởng thế nào, thì chúng ta 
phải kiểm thảo lại những cuộc chuyển biến 
trong thế giới từ Xuân trước”; cụ thể hơn là 
phải “đoán trước để xét sau”[5, tr. 446, 449]. 
Nói chung, bất cứ lý thuyết xã hội nào cũng 
đều phải thực hiện chức năng dự báo. Điều 
quan trọng là phương pháp nêu ra dự báo và 
tính chính xác của dự báo. Dự báo nói trên 
cũng như nhiều dự báo khác của Hồ Chí 
Minh đã được thực tế chứng minh là chính xác. 
Như vậy, quan điểm “thiên biến vạn hóa” 
của Hồ Chí Minh là quan điểm biện chứng, là 
lý luận biện chứng, đồng thời cũng là phương 
pháp biện chứng. C. Mác cũng đã từng trình 
bày vắn tắt phương pháp biện chứng duy vật 
trong luận điểm: “... chúng ta không cố đoán 
trước về tương lai một cách giáo điều, mà chỉ 
mong tìm ra cái thế giới mới qua sự phê phán 
thế giới cũ”[11]. 
Nếu đi sâu nghiên cứu lý luận của Hồ Chí 
Minh về nội dung của “thiên biến vạn hoá”, 
chúng ta sẽ thấy, Hồ Chí Minh không dừng 
lại ở việc khẳng định hiện thực khách quan 
luôn ở trong trạng thái không ngừng biến 
đổi, mà còn đi sâu vào nội dung của sự biến 
đổi, từ đó nêu lên những quan điểm như: xu 
thế chung của mọi vận động, biến đổi là phát 
triển; trong sự phát triển thể hiện ra quy luật 
khách quan; mâu thuẫn và cách thức giải quyết 
mâu thuẫn có vai trò quyết định đối với sự 
phát triển; cần chú trọng tính chủ thể trong sự 
vận động và biến đổi của xã hội và con người. 
Đây chính là bước phát triển, hiện đại hoá 
quan điểm nhận thức biện chứng của tư duy 
triết học truyền thống. Chẳng hạn, khi Hồ 
Chí Minh khẳng định “luật xã hội không theo 
vòng tròn của luật tự nhiên”[5, tr.446], ta thấy 
rõ rằng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sự vận 
động của xã hội diễn ra theo xu thế phát 
triển, đi lên, chứ không phải theo kiểu tuần 
hoàn, “phản phục” như trong quan niệm của 
triết học truyền thống phương Đông. 
Phương diện thứ hai của quan điểm 
“thiên biến vạn hoá” là yêu cầu nhận thức và 
hành động của chủ thể cũng phải “thiên biến 
vạn hoá”, tức là cũng phải không ngừng biến 
đổi, cũng phải uyển chuyển, linh hoạt, thì 
mới phản ánh được đối tượng không ngừng 
biến hoá. Hồ Chí Minh viết: “Ai mà tư tưởng 
cố chấp, chắc chắn là người chủ quan. Chỉ 
nghe, chỉ hiểu một chút, hoặc chỉ có chút kinh 
nghiệm, rồi cứ lắp nguyên văn vào tất cả mọi 
việc một cách máy móc. Kết quả là đầu óc 
cứng đờ, không biết biến hoá, trái ngược với 
thái độ của giai cấp công nhân, trái hẳn với 
khoa học cách mạng”[6, tr.261]. Đây chính là 
đòi hỏi phải tránh lối tư duy siêu hình, cứng 
nhắc, “khư khư giữ lấy ý kiến của mình”[6, 
tr.261], để tư duy một cách biện chứng. Con 
người có nhận thức được sự biến hoá thì mới 
tham gia có hiệu quả vào việc biến đổi đối 
tượng, và chính trong quá trình làm biến đổi 
đối tượng, nhận thức của con người mới trở 
nên biến hoá, mới phản ánh được sự biến 
hoá: “Muốn hiểu biết một việc gì, một vật gì, 
thì phải tham gia vào cuộc đấu tranh và biến 
đổi của việc ấy, vật ấy. Có như thế mới thấy 
được hiện tượng của nó, và tiến tới hiểu biết 
bản chất của nó. Đó là con đường thực tế, ai 
muốn hiểu biết cũng phải trải qua”[12]. Như 
vậy, nhận thức biến hoá và hành động biến hoá 
chính là một nội hàm quan trọng của quan 
điểm “thiên biến vạn hoá”, là một quan điểm 
biện chứng trong phương pháp luận triết học 
của Hồ Chí Minh. 
Lại Quốc Khánh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 89-98 
94
2. Quan điểm “Tuỳ cơ ứng biến” 
Quan điểm “tuỳ cơ ứng biến”, hay còn 
gọi là quan điểm “quyền biến”, đi liền với 
quan điểm “thiên biến vạn hoá” và bổ sung, 
làm rõ cho quan điểm “thiên biến vạn hoá”. 
Hồ Chí Minh sớm đề cập đến quan điểm 
này. Ngay trong tác phẩm Đường Cách mệnh, 
Hồ Chí Minh đã coi “tuỳ cơ ứng biến” là một 
quan điểm nhận thức và hành động rất quan 
trọng. Người viết: “Lại khi mới gây dựng ra 
hoặc ở nơi thợ thuyền ít, phải tuỳ cơ ứng 
biến, không nhất định cứ theo cách thường. 
Đại khái tổ chức công hội phải thống nhất, bí 
mật, nghiêm nhặt, thì hội mới vững 
vàng”[13]. Trong báo cáo của phân hội Việt 
Nam thuộc Hội quốc tế chống xâm lược 
(3/1944), Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mọi hành 
động, các địa phương phải tuân thủ những 
quan điểm và thời hạn do Trung ương quy 
định, còn cách thức thực hiện, họ có thể tuỳ 
cơ ứng biến”[5, tr.455]... 
Như vậy, trước hiện thực “thiên biến vạn 
hóa”, để hoạt động thực tiễn đạt được hiệu 
quả, chủ thể hành động cần phải “tuỳ cơ ứng 
biến”, tức là chọn lựa cách hành động phù 
hợp với tình hình, tình hình thay đổi thì 
phương thức hành động cũng phải thay đổi. 
Nhận thức biến đổi và hành động biến đổi 
phù hợp với sự biến đổi của đối tượng, của 
hoàn cảnh, đó là hai mặt thống nhất của quan 
điểm “tuỳ cơ ứng biến”. Hồ Chí Minh chỉ rõ: 
Phải biết rằng tình hình khách quan thay đổi 
hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta 
hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời, 
nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư 
tưởng hành vi của ta để bỏ đi những cái quá 
thời, sai hỏng, nhất định ra sẽ không theo kịp 
tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi, bị các bạn tỉnh táo 
nhanh nhẹn hơn vượt đi trước. Muốn được 
thích hợp với tình thế, muốn cùng tiến hay 
vượt các bạn khác ta cần phải nhận thức và tự 
giáo dục không ngừng, cần phải có sự thành 
thực tự vạch ra những khuyết điểm sai lầm 
để bồi bổ và sửa đổi đi [14, tr.26]. 
Sự bổ sung của quan điểm “tuỳ cơ ứng 
biến” đối với quan điểm “thiên biến vạn hoá” 
là ở chỗ: Nếu chỉ dừng lại ở việc yêu cầu 
nhận thức và hành động của chủ thể cũng 
phải không ngừng biến đổi trước đối tượng 
biến đổi không ngừng thì còn quá chung 
chung, trừu tượng. Chủ thể không biết phải 
làm cho nhận thức và hành động của mình 
biến đổi theo hướng nào, và sẽ dễ rơi vào cực 
đoan là hành động tuỳ tiện, vô nguyên tắc, 
thậm chí là dao động, mất phương hướng. 
Quan điểm “tuỳ cơ ứng biến” chỉ cho chủ thể 
thấy phải xuất phát từ việc nghiên cứu và nhận 
thức đúng về bản chất, quy luật biến hoá của đổi 
tượng, lấy đó làm cơ sở để biến hoá cho phù hợp. 
Chữ “cơ” ở đây có ý nghĩa cực kỳ sâu sắc. 
Hàm nghĩa triết học của nó là chỉ “nguyên 
nhân bên trong của sự phát triển của sự 
vật”[7, tr.1510]. Dịch truyện nói: “Tri cơ kỳ 
thần hồ?... Cơ giả, động chi vi, cát chi tiên 
kiến giả dã”[Kinh Dịch, Hệ từ hạ truyện, 13]; 
lại nói: “Phù Dịch, Thánh nhân sở dĩ cực 
thâm nhi nghiên cơ dã”[Kinh Dịch, Hệ từ 
thượng truyện, 6]. Để kiến tạo nên đại 
nghiệp, để xứng đáng là bậc Thánh nhân, 
điều quan trọng là phải “tri cơ”. Tri cơ không 
chỉ là nhận thức được đối tượng, mà phải là 
nhận thức sâu về đối tượng, phải biết mọi biến 
động, mọi chuyện tốt xấu (hiện thực) từ khi 
nó chưa xảy ra (khả năng). Muốn “tri cơ” 
phải “nghiên cơ”, mà phải là nghiên cứu “cực 
sâu” về “cơ”. Có “nghiên cơ” mới có thể “tri 
cơ”, có “tri cơ” mới có thể “tuỳ cơ”. Như vậy, 
phải nghiên cứu và nhận thức rất sâu sắc về 
đối tượng thì mới có thể biến hoá phù hợp 
cùng với đối tượng được. “Tuỳ cơ ứng biến” 
theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhận thức 
Lại Quốc Khánh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 89-98 
95 
“biến” và chế ngự “biến” chứ không phải là bị 
“biến” chế ngự; là yêu cầu chủ động biến đổi 
trước hoàn cảnh biến đổi, chứ không phải là 
bị hoàn cảnh biến đổi làm cho thụ động. Trong 
những tình thế khó khăn, tính chủ động càng 
cần được đề cao, tức là càng cần phải đề cao 
quan điểm tuỳ cơ ứng biến. Hồ Chí Minh nói: 
“Hiện thời mình càng đi gần tới đích càng 
gặp nhiều nỗi khó khăn. Nhưng mặc dầu khó 
khăn, ta cũng phải cố gắng. Phải tin nhất định 
là thành công, phải thành công. Nhưng cần 
nhận rõ tình thế để rồi tuỳ cơ ứng biến mà 
tiến chứ không hàm hồ làm bừa một cách vô 
chính trị”[14, tr.213]. 
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh “tuỳ cơ 
ứng biến” là cơ sở của tinh thần sáng tạo, mà 
sáng tạo là một biểu hiện của biện chứng, là 
điều kiện để thành công trong hoàn cảnh 
luôn luôn biến đổi, và vì thế, giá trị của quan 
điểm “tùy cơ ứng biến” là rất lớn. Trong công 
cuộc xây dựng chế độ xã hội mới, Hồ Chí 
Minh chỉ rõ: Nếu coi sáng kiến là một trong 
những điều kiện có ý nghĩa quyết định đối 
với sự thành công của công cuộc xây dựng 
chế độ xã hội mới, thì để phát huy tinh thần 
sáng tạo, cần phải thực hiện quan điểm tuỳ cơ 
ứng biến: “Khi giao công tác cho cán bộ cần 
phải chỉ đạo rõ ràng, sắp đặt đầy đủ. Vạch rõ 
những khuyết điểm chính, và những khó 
khăn có thể xảy ra. Những vấn đề đã quyết 
định rồi, thả cho họ làm, khuyên gắng họ cứ 
cả gan mà làm. Cũng như trong quân đội, khi 
chiến lược chiến thuật và nhiệm vụ đã quyết 
định rồi, vị Tổng tư lệnh không cần nhúng 
vào những vấn đề lặt vặt. Phải để cho các cấp 
chỉ huy có quyền “tuỳ cơ ứng biến”, mới có 
thể phát triển tài năng của họ. Việc gì cấp trên 
cũng nhúng vào, cán bộ cũng như một cái 
máy, việc gì cũng chờ mệnh lệnh, sinh ra ỷ 
lại, mất hết sáng kiến”[15]. Chính trên cơ sở 
tinh thần sáng tạo, xuất phát từ quan điểm 
“tùy cơ ứng biến”, Hồ Chí Minh đã nêu lên 
quan điểm phương pháp luận rất quan trọng 
về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: 
“Ta không thể giống Liên Xô có phong tục 
tập quán khác, có lịch sử địa lí khác.... chúng 
ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ 
nghĩa xã hội”[16]. 
Về thực chất, đề cao quan điểm “tùy cơ 
ứng biến” cũng chính là đề cao tinh thần tự 
do, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của con 
người, góp phần tạo điều kiện phát huy tính 
chủ thể năng động của con người. Đây là một 
quan điểm triết học rất quan trọng và đã 
được Hồ Chí Minh vận dụng rất nhuần 
nhuyễn trong thực tiễn đấu tranh cách mạng. 
Việc Hồ Chí Minh khẳng định “khả năng nổ 
ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản 
ở chính quốc” của cách mạng thuộc địa; sự 
uyển chuyển, linh hoạt trong đối sách của 
Đảng và Chính phủ ta đối với các lực lượng 
phản động trong thời kỳ 1945 - 1946, khẳng 
định cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân 
dân ta “nay tuy châu chấu đấu voi, nhưng 
mai voi sẽ bị lòi ruột ra”, v.v., là những biểu 
hiện sinh động của quan điểm “tùy cơ ứng 
biến”. 
3. Quan điểm “Dĩ bất biết ứng vạn biến” 
Ngày 31 tháng 5 năm 1946, trước khi lên 
máy bay sang Pháp với tư cách là thượng 
khách của Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí 
Minh đã dặn cụ Huỳnh Thúc Kháng: “Tôi vì 
nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, 
ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng 
anh em giải quyết cho. Mong Cụ “dĩ bất biến 
ứng vạn biến” [17]. 
“Dĩ bất biến ứng vạn biến” là một “cẩm 
nang”, là sự kết tinh lý luận và phương pháp 
biện chứng của Hồ Chí Minh, là một bước 
Lại Quốc Khánh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 89-98 
96
triển khai sâu sắc quan điểm “thiên biến vạn 
hoá” và “tuỳ cơ ứng biến”. Để hiểu được 
quan điểm này, cần đặt nó trong quan hệ với 
các quan điểm “thiên biến vạn hoá” và “tuỳ 
cơ ứng biến”. “Vạn biến” là đặc tính của thế 
giới bên ngoài. “Bất biến” trước hết cũng là 
đặc tính của thế giới bên ngoài. Đây là hai 
mặt đối lập cấu thành một chỉnh thể và nếu 
diễn đạt theo ngôn ngữ của phép biện chứng 
hiện đại, thì đó là đặc tính “vận động có quy 
luật nội tại” của hiện thực khách quan. Chủ 
thể “dĩ bất biến ứng vạn biến” tức là nắm lấy 
quy luật, nắm lấy cái “bất biến” mà ung dung 
ứng xử với mọi tình huống biến đổi. “Bất 
biến” không phải là không làm gì. Bất biến 
cũng là vạn biến, cũng là thiên biến vạn hoá, 
cũng là tuỳ cơ ứng biến, nhưng là cái vạn 
biến, cái thiên biến vạn hoá, cái tuỳ cơ ứng 
biến phù hợp với quy luật đã được nhận thức. 
Đây là một quan điểm biện chứng sâu sắc. 
Với tư cách là một quan điểm, “dĩ bất 
biến ứng vạn biến” đồng thời còn vai trò làm 
hoàn thiện lý luận biện chứng cũng như hệ 
quan điểm biện chứng của Hồ Chí Minh. Cái 
“bất biến” cùng với cái “vạn biến” cấu thành 
bản chất cố hữu của thế giới - bản chất biện 
chứng - và với tư cách là một quan điểm, nó 
cấu thành hạt nhân của phương pháp biện 
chứng Hồ Chí Minh. Xuyên qua mọi biến 
động thăng trầm của lịch sử dân tộc, trong 
muôn vàn những biến đổi phức tạp của xã 
hội Việt Nam dưới chế độ thuộc địa, Hồ Chí 
Minh đã thấy ra và nắm được cái “bất biến”, 
đó là “chủ nghĩa dân tộc”, là động lực vĩ đại 
và duy nhất của toàn bộ sự vận động của xã 
hội Việt Nam. Nắm được chủ nghĩa dân tộc là 
nắm được cái “bất biến” trong cái “vạn biến”. 
Phát huy và phát triển chủ nghĩa dân tộc để 
giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa 
xã hội chính là “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Cả 
cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn hành xử theo 
quan điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Là 
người góp phần làm nên nhiều biến chuyển 
của thời đại, song Hồ Chí Minh chỉ có một “sự 
ham muốn, ham muốn tột bậc”, đó là độc lập 
cho dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân 
dân. Cái “một” ấy là “bất biến” ở Hồ Chí 
Minh. Những lúc Người phải ẩn nấp nơi núi 
non, hay ra vào chốn tù tội; là “một chiến sĩ 
vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận” 
hay “Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng 
hòa”; là người lãnh đạo hay là người đầy tớ 
thật trung thành của nhân dân; v.v., thì cũng 
đều vì cái “một”, cái “bất biến” ấy. Sự kiên 
định lập trường, mục tiêu, lý tưởng xuyên 
qua cuộc đời đầy sự kiện sinh động của Hồ 
Chí Minh chính là sự thể hiện quan điểm “dĩ 
bất ứng vạn biến”. 
“Dĩ bất biến ứng vạn biến” thực sự là một 
hạt ngọc quý khảm trong tư tưởng Hồ Chí 
Minh nói chung, trong lý luận và phương 
pháp biện chứng của Hồ Chí Minh nói riêng. 
Tóm lại, “biến” là phạm trù triết học có vị 
trí đặc biệt quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí 
Minh và có nội hàm rất phong phú, vừa bao 
hàm phương diện khách quan (biến đổi), vừa 
bao hàm phương diện chủ quan (tích cực 
hành động, cải tạo). Sự triển khai phạm trù 
“biến” thành bộ ba “thiên biến vạn hoá” - 
“tuỳ cơ ứng biến” - “dĩ bất biến ứng vạn 
biến” đã cấu thành những nội dung quan 
trọng trong phương pháp luận triết học của 
Hồ Chí Minh. Đặc điểm của cơ bản của toàn 
bộ phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh 
chính là nhận thức “biến”, chế ngự “biến” và 
thúc đẩy “biến”, hay nói theo ngôn ngữ của 
phép biện chứng duy vật là nhận thức đối 
tượng (tự nhiên, xã hội và con người) trong 
trạng thái vận động theo quy luật nội tại, từ 
đó điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt 
động thực tiễn của chủ thể, thúc đẩy quá 
trình biến đổi của đối tượng phù hợp với quy 
Lại Quốc Khánh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 89-98 
97 
luật nội tại của nó như đã được nhận thức. 
Xuyên qua toàn bộ các quan điểm biện chứng 
nói trên là sự khẳng định và đề cao tính chủ 
thể năng động của con người. 
Được thể hiện dưới hình thức ngôn ngữ 
triết học truyền thống phương Đông, song 
trong các quan điểm quan trọng nói trên, ta 
thấy rõ sự kết hợp giữa “chất” biện chứng 
duy vật của chủ nghĩa Mác, “chất” biện 
chứng nhân văn của triết học truyền thống 
phương Đông, và đặc biệt là phong cách tư 
duy biện chứng của Hồ Chí Minh trên cơ sở 
biện chứng khách quan của dân tộc và thời đại. 
Chính phương pháp phương pháp luận 
triết học với sự đề cao tính năng động của 
chủ thể như trên đã góp phần quan trọng vào 
quá trình hình thành nên hệ thống tư tưởng 
Hồ Chí Minh, vào những thắng lợi của cách 
mạng Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh 
và đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị, cần 
học tập và vận dụng. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Trần Văn Giàu, Mấy vấn đề cơ bản của tư tưởng 
Hồ Chí Minh, In trong: Nghiên cứu tư tưởng Hồ 
Chí Minh, tập 2, Viện Hồ Chí Minh xuất bản, 
1996, 50. 
[2] Trường ĐHSPHN1, Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh 
trong thời đại ngày nay, Viện Thông tin KHXH 
xuất bản, 1993, 92. 
[3] Võ Nguyên Giáp (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí 
Minh và con đường cách mạng Việt Nam, NXB 
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, 51. 
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội, 2000. 
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội, 2000. 
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội, 2000. 
[7] Từ Hải, Thượng Hải, Thượng Hải từ thư, 2001 
(tiếng Trung). 
[8] V.I. Lênin, Toàn tập, tập 29. M., NXB Tiến bộ, 
1981, 239. 
[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội, 2000, 554. 
[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, NXB Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội, 2000, 307. 
[11] C. Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 1, NXB 
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. 
[12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội, 2000, 251. 
[13] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, NXB Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội, 2000, 307. 
[14] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội, 2000. 
[15] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội, 2000, 280. 
[16] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội, 2000, 227. 
[17] Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, tập 3, NXB Chính 
trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, 216. 
Contribution to the study of philosophical methodology of 
Ho Chi Minh 
Lai Quoc Khanh 
 College of Social Sciences and Humanities, VNU 
336 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam 
This article explores the philosophical methodology of Ho Chi Minh by examining his three 
dialectical principles: “qian bian wan hua” (reality is a process in flux), “sui ji ying bian” (to 
Lại Quốc Khánh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 89-98 
98
adapt oneself to circumstances) and “yi bu bian ying wan bian” (to act flexibly while maintaining 
firmly his own principles). By emphasizing the endless continuity of changing reality, the first 
one asks the subject to think and act in a flexible way, to cope suitably with a concrete situation. 
The second one directs the subject to act/operate through the understanding of the nature and the 
internal laws of objects. The last one takes into account the double characteristic of the objective 
reality: “immutable” and “transformable”. As a result, acting in a transforming world and on a 
transforming object, the subject who wants to operate efficiently is required to understand deeply 
these laws and to maintain firmly his own ideal and purposes. The author argues that, even 
interpreted in terms of classical oriental philosophy, Ho Chi Minh’s viewpoints originated with 
the materialist dialectic of Marxism, the humanist dialectic of oriental tradition and particularly 
the very dialectical style of Ho Chi Minh himself based on his dialectical understanding of the 
reality. This combination makes Ho Chi Minh’s philosophical methodology a valuable 
contribution to the dialectical thinking. 

File đính kèm:

  • pdfgop_phan_nghien_cuu_phuong_phap_luan_triet_hoc_cua_ho_chi_mi.pdf