Hoàn thiện mối quan hệ giữa các bên liên quan nhằm phát triển hoạt động du lịch tại Việt Nam

Tóm tắt Hoàn thiện mối quan hệ giữa các bên liên quan nhằm phát triển hoạt động du lịch tại Việt Nam: ...doanh của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Thứ năm, mối quan hệ giữa nhà cung ứng sản phẩm du lịch với các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch. Về cơ bản, đây là mối quan hệ giữa cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô với các đơn vị kinh doanh (trừ các cơ sở cung cấp các dịch vụ công trong ...-TT-DL) và ở cấp địa phương là các Sở VH-TT-DL. Thời gian qua, đã có những biểu hiện của thực tế cho thấy quản lý nhà nước về du lịch đã không bắt kịp sự phát triển của thị trường du lịch tại Việt Nam. Đó là hiện tượng nhiều doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ không được đăng ký kinh d...h với khách du lịch, với chính quyền tại điểm đến Bảo đảm lợi ích cao nhất cho khách hàng. Tập đoàn lữ hành TUI của CHLB Đức thu thập và cung cấp thông tin cho du khách về chất lượng môi trường của hơn 100 điểm đến mà du khách của họ thường đến gồm: Thông tin về chất lượng của bãi tắm,...

pdf10 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 406 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Hoàn thiện mối quan hệ giữa các bên liên quan nhằm phát triển hoạt động du lịch tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 vậy về cơ bản mối quan 
hệ giữa du khách và dân cư bản địa không phát 
sinh những vấn đề lớn, ngoại trừ một số hiện 
tượng tiêu cực mà người dân gây ra cho du 
khách sẽ được nhắc đến trong khi phân tích mối 
quan hệ thứ sáu ở phần dưới. 
Đối với mối quan hệ thứ ba: 
Khi lượng khách đến một điểm đến ngày càng 
gia tăng thì ngoài những mặt tích cực mà họ đem 
lại cho điểm đến, không ít người trong số họ gây 
ra những vấn đề tiêu cực đòi hỏi các cơ quan quản 
lý nhà nước về du lịch phải giải quyết. Hiện nay, 
hiện tượng một số khách du lịch (cả khách quốc tế 
và khách nội địa) có những hành vi ứng xử thiếu 
văn minh nơi công cộng, thiếu ý thức bảo vệ tài 
nguyên và môi trường du lịch thường xuyên diễn 
ra tại các điểm đến du lịch. Đáng đề cập nhất là 
hiện tượng một số đàn ông đến từ các nước châu 
Phi, họ đến trên danh nghĩa là với mục đích du 
lịch song thực tế lại đang hành nghề “giai gọi”, 
hoặc tham gia cướp giật, vận chuyển chất gây 
nghiện; một số phụ nữ đến từ các nước khác 
nhau đang hành nghề mại dâm tại Thành phố Hồ 
Chí Minh. 
Đối với mối quan hệ thứ tư: 
 Cho đến nay, cũng đã hình thành và phát 
triển một số hình thức liên kết giữa các doanh 
nghiệp kinh doanh du lịch với cộng đồng dân 
cư sở tại như: Các công ty du lịch khai thác và 
quản lý đội văn nghệ Cát Cát (xã San Sả Hồ, 
tỉnh Lào Cai); các công ty du lịch đưa khách 
đến sử dụng dịch vụ homestay tại một số hộ 
gia đình ở Làng cổ Đường Lâm; các công ty 
du lịch đưa khách đến nhà dân tham gia gói, 
luộc bánh chưng và đón Giao thừa tại Hà Nội, 
thành phố Hồ Chí Minh; 
Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp kinh 
doanh du lịch tại Việt Nam cũng chưa thực sự có 
ý thức cao trong việc ưu tiên tạo công ăn việc 
làm cho cộng đồng dân cư sở tại, trong việc tiêu 
thụ các sản phẩm của người dân địa phương 
phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. 
Đối với mối quan hệ thứ năm: 
Lượng khách du lịch của Việt Nam trong 
những năm gần đây gia tăng với tốc độ khá 
cao. Tính trung bình cho giai đoạn 2008-2012, 
lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam 
tăng khoảng 14,22% %, lượng khách du lịch 
nội địa của Việt Nam tăng khoảng 12,33 % [6]. 
Không chỉ gia tăng về lượng khách, nhu cầu của 
khách cũng ngày một tăng lên. Để đáp ứng sự gia 
tăng đó của cầu, cung du lịch cũng ngày một gia 
tăng. Theo thống kê sơ bộ của Tổng Cục Du lịch 
[5], tại Việt Nam hiện nay có khoảng 1.000 
doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế. Số 
doanh nghiệp có đăng ký chức năng kinh doanh 
lữ hành (do sở Kế hoạch và Đầu tư của các tỉnh 
cấp phép) có đến vài chục ngàn, trong đó có 
thông báo thời gian hoạt động lữ hành nội địa và 
báo cáo đến các sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch 
là vài ngàn. Tính đến cuối năm 2012, cả nước có 
khoảng 13.500 cơ sở kinh doanh lưu trú, với 
285.000 buồng [6]. 
Có một thực tế là do quá trình chuyển đổi 
từ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp 
sang cơ chế kinh tế thị trường, nên hiện nay 
mặc dù đã được cổ phần hóa, song về thực chất 
thì nhiều doanh nghiệp du lịch tại Việt Nam 
vẫn thuộc các đơn vị chủ quản là các bộ/ban 
ngành khác, hoặc là ủy ban nhân dân cấp 
tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương. 
Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về 
chuyên ngành đối với hệ thống các doanh 
nghiệp kinh doanh du lịch tại Việt Nam có quy 
mô ngày càng lớn và có những nét đặc trưng 
của giai đoạn quá độ của nền kinh tế, ở cấp 
T.T.M. Hòa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 3 (2013) 19-28 
24
trung ương trực tiếp là Tổng cục Du lịch Việt 
Nam (trực thuộc Bộ VH-TT-DL) và ở cấp địa 
phương là các Sở VH-TT-DL. 
Thời gian qua, đã có những biểu hiện của 
thực tế cho thấy quản lý nhà nước về du lịch đã 
không bắt kịp sự phát triển của thị trường du lịch 
tại Việt Nam. Đó là hiện tượng nhiều doanh 
nghiệp kinh doanh các dịch vụ không được đăng 
ký kinh doanh (doanh nghiệp lữ hành nội địa 
kinh doanh cả lữ hành quốc tế, cơ sở kinh doanh 
lưu trú kinh doanh mại dâm,.); núp bóng kinh 
doanh; bán khách; kinh doanh không đảm bảo 
yêu cầu về vệ sinh dịch tễ, an toàn lương thực, 
thực phẩm; không đảm bảo an toàn tính mạng 
cho du khách (tàu chở khách du lịch trên sông, 
trên biển không có áo phao; tại các bãi biển 
không có đủ lực lượng và phương tiện cứu hộ 
chuyên nghiệp.) 
Đối với mối quan hệ thứ sáu: 
Thời gian qua, chính quyền địa phương tại 
nhiều điểm đến du lịch tại Việt Nam đã có 
những cố gắng trong việc quan tâm đến sự 
phát triển du lịch gắn với lợi ích của cộng 
đồng. Ví dụ, tại Lào Cai đã tiến hành xây dựng 
các đội văn nghệ thôn, bản hoạt động dưới sự 
quản lý của Ban quản lý du lịch cộng đồng để 
phục vụ cho hoạt động du lịch (tại Xã Bản Hồ, 
xã Tả Van,). Các đội văn nghệ được duy trì 
và biểu diễn thường xuyên tại các điểm du lịch 
cộng đồng, tạo thu nhập bình quân mỗi tháng 
từ 1 đến 1,2 triệu đồng cho một thành viên. 
Tuy nhiên, tại nhiều điểm đến du lịch còn 
tình trạng một số người dân gây phiền nhiễu 
đối với khách du lịch (tệ nạn đeo bám khách, 
ăn xin, cò mồi, cướp giật,); xâm hại đến tài 
nguyên du lịch;Các hiện tượng này đã và 
đang diễn ra tại các điểm du lịch như: Khu vực 
Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội; Chùa Hương, Hạ 
Long, Tam Cốc-Bích Động, Tràng An-Bái 
Đính,Mặc dù thời gian qua các cơ quan quản 
lý nhà nước về du lịch tại các địa bàn tương 
ứng đã có nhiều giải pháp để giải quyết các 
hiện tượng đó, song trên thực tế hiệu quả đạt 
được của các giải pháp còn chưa cao. 
Nguyên nhân của những hiện tượng đó một 
phần là do ý thức của một bộ phận dân cư còn 
kém, nhận thức của họ về những đóng góp của 
du lịch cho điểm đến còn chưa đúng. Song, 
cũng có những nguyên nhân xuất phát từ việc 
các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch không 
quan tâm đầy đủ đến việc chia sẻ lợi ích từ 
hoạt động du lịch cho người dân sở tại. Nhiều 
khi, người dân không thấy nhận được những 
lợi ích trực tiếp từ du lịch như có được công 
ăn, việc làm, bán được hàng hóa cho du khách, 
được tham gia hỏi ý kiến trong việc quy hoạch 
phát triển du lịch tại địa phương,Họ lại chỉ 
nhận thấy những tác động tiêu cực mà hoạt 
động du lịch gây ra trực tiếp cho đời sống của 
họ như giá cả các hàng hóa thiết yếu hàng 
ngày tăng cao hơn, môi trường tự nhiên ô 
nhiễm hơn, một số giá trị văn hóa bị xuống 
cấp, giao thông đi lại khó khăn hơn, Trường 
hợp hàng loạt hộ dân tại Làng cổ Đường Lâm 
đề nghị xin bỏ danh hiệu công nhận Di sản văn 
hóa do những qui định về đảm bảo không gian 
văn hóa nên họ không được xây nhà cao tầng 
trên khuôn viên đất của họ là một vấn đề đặt ra 
mà các cơ quan quản lý nhà nước cần có 
những giải pháp thấu đáo. 
3. Một số bài học kinh nghiệm quốc tế trong 
việc tạo ra các mối quan hệ tốt giữa các bên 
liên quan trong hoạt động du lịch [3] 
3.1. Tạo ra mối quan hệ tốt giữa các cơ quan 
quản lý nhà nước về du lịch với cộng đồng dân 
cư sở tại 
Ưu tiên, khuyến khích cộng đồng sở tại và 
người dân bản địa tham gia trong việc lên kế 
T.T.M. Hòa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 3 (2013) 19-28 25
hoạch phát triển du lịch di sản nhằm tránh 
xung đột về quyền lợi. Tại Khu Di sản thế giới 
vùng Hồ Wilandra hay tại khu Di sản thế giới 
Vịnh Cá mập ở Australia, các kế hoạch phát 
triển du lịch hay quản lý để bảo toàn các các 
vùng thuộc khu di sản được đưa ra lấy ý kiến 
công chúng ít nhất là hai tháng (theo luật của 
bang Tây Autralia). Tại đây, Ủy ban tư vấn địa 
phương đóng vai trò chính trong việc hoạch 
định các chiến lược thích hợp và khả thi cho 
việc phát triển các sản phẩm du lịch tại di sản. 
Nâng cao nhận thức của người dân về giá 
trị của tài nguyên du lịch và trách nhiệm bảo 
vệ môi trường du lịch. Tại Patan (Nepan), cộng 
đồng dân cư sở tại và du khách được khuyến 
khích quan tâm tới tài nguyên và môi trường 
du lịch bằng các hoạt động cụ thể như phát 
hành tài liệu quảng bá văn hóa và di sản địa 
phương, sử dụng sách hướng dẫn du lịch cho 
khách du lịch và người dân địa phương; tổ 
chức các chuyến tham quan cộng đồng và các 
dự án phục chế nhà cửa ở địa phương, 
Tạo và duy trì việc làm, tăng thu nhập cho 
người dân địa phương từ hoạt động du lịch. 
Tại Khu Di sản thế giới Vườn Quốc gia 
Keoladeo (Ấn Độ) người dân địa phương được 
ưu tiên đặc biệt trong việc tuyển dụng thành 
hướng dẫn viên với mục đích rõ ràng là hỗ trợ 
cho người nghèo ở địa phương. Tại Vườn 
Quốc gia Komodo (Indonesia), một nguyên tắc 
chủ đạo được quy định là các cộng đồng địa 
phương được ưu tiên trong việc thụ hưởng lợi 
ích do Vườn Quốc gia mang lại. Cộng đồng địa 
phương được ưu tiên tham gia vào các hoạt động 
du lịch (chuyên chở khách, hướng dẫn tham quan 
cho khách, cung cấp nơi ăn nghỉ tại nhà theo 
hình thức homestay, làm việc trong các cơ sở 
kinh doanh du lịch, làm đồ thủ công mỹ nghệ và 
đồ lưu niệm để bán cho du khách tại Vườn Quốc 
gia,); hoặc tham gia vào quản lý các nguồn lực 
tại khu vực Vườn Quốc gia. 
3.2. Tạo ra mối quan hệ tốt giữa cơ quan quản 
lý nhà nước về du lịch với các nhà kinh doanh 
du lịch 
Thường xuyên đánh giá những tác động của 
hoạt động du lịch đối với môi trường và có những 
biện pháp để giảm thiểu những tác động đó. Tại 
khu Thác Iguacu của Brazil, ở quần đảo Galapagos 
của Ecuador, ở Vườn Quốc gia Morne Trois Piton 
của Dominica, tác động của các chuyến bay trực 
thăng, sự xâm nhập của du khách ảnh hưởng đến 
đến động vật hoang dã thường xuyên được đánh 
giá để có những điều chỉnh kịp thời cho hoạt động 
du lịch tại những nơi này. Tại các khu di chỉ 
Alhamra, Generalife và Albayzin ở Granada của 
Tây Ban Nha khi có sự quá tải của du khách thì 
hoạt động du lịch sẽ được điều chỉnh để giảm thiểu 
lượng du khách đến những nơi này trong một thời 
gian. 
Bảo đảm tất cả các hoạt động du lịch phải 
phù hợp với bối cảnh tự nhiên và nhân văn tại 
khu vực. Ban quản lý tại khu Đền-Mộ Tạ 
Mahal ở Ấn Độ đã gạt bỏ việc chiếu sáng khu 
Đền-Mộ với lý do đền chiếu sáng có thể giúp 
du khách dễ quan sát hơn vào buổi tối, nhưng 
lại làm mất đi cơ hội ngắm khu đền dưới ánh 
trăng. 
3.3. Tạo ra mối quan hệ tốt giữa nhà kinh 
doanh du lịch với khách du lịch, với chính 
quyền tại điểm đến 
Bảo đảm lợi ích cao nhất cho khách hàng. 
Tập đoàn lữ hành TUI của CHLB Đức thu thập 
và cung cấp thông tin cho du khách về chất 
lượng môi trường của hơn 100 điểm đến mà du 
khách của họ thường đến gồm: Thông tin về 
chất lượng của bãi tắm, thông tin về những quy 
định về tiết kiệm năng lượng, kiểm soát giao 
thông,TUI cũng xây dựng lên các tiêu chuẩn 
về môi trường, chính sách quản lý môi trường 
và thường xuyên hợp tác với các cơ sở lưu trú, 
T.T.M. Hòa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 3 (2013) 19-28 
26
với chính quyền của điểm đến để nâng cao 
nhận thức cho khách du lịch về bảo vệ môi 
trường, cũng như tạo môi trường du lịch tốt 
nhất cho du khách của họ [4, p 91]. 
Phối kết hợp tích cực với chính quyền tại 
điểm đến. Ngành du lịch tại tỉnh Yogyakarta, 
Indonesia giữ một vai trò hết sức quan trọng 
trong việc tạo công ăn việc làm và thu nhập 
cho người dân bản địa.Trận động đất tháng 5 
năm 2006 đã phá hủy rất nhiều nhà cửa, làng 
mạc, cơ sở hạ tầng, làm ảnh hưởng nặng nề 
đến ngành du lịch của Tỉnh. Sau thảm họa 
động đất, các nhà kinh doanh du lịch tại đây đã 
phối hợp rất chặt chẽ với Bộ Văn hóa và Du 
lịch, với chính quyền địa phương trong việc 
truyền thông ra thế giới về công tác phục hồi 
điểm đến, về điểm đến với nhiều giá trị văn 
hóa quan trọng của nền văn hóa Java. [4, p 84]. 
4. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện mối 
quan hệ giữa các bên liên quan nhằm phát 
triển hoạt động du lịch tại Việt Nam 
 Để du lịch Việt Nam ngày càng phát triển 
tương xứng với tiềm năng sẵn có, dưới góc độ 
hoàn thiện mối quan hệ giữa các bên liên quan, 
cần có những giải pháp ở tầm vĩ mô và vi mô. 
4.1. Các giải pháp vĩ mô 
Thành lập ban quản lý điểm đến có sự tham 
gia của các bên liên quan, của các chuyên gia về 
du lịch. Hoạt động của tổ chức này phải hướng 
tới việc thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của tất 
cả các bên liên quan và đạt được hàng loạt các 
mục tiêu chiến lược. Tổ chức này cần giữ vai trò 
quan trọng trong việc quản lý các nguồn lực về 
kinh tế, xã hội và môi trường của điểm đến. Nói 
một cách khác, tổ chức này có trách nhiệm kết 
nối và thực hiện những chiến lược phát triển bền 
vững của điểm đến. Những chiến lược phát triển 
bền vững được xây dựng và thực hiện không chỉ 
về du lịch mà còn về chất lượng cuộc sống của 
dân cư bản địa [4]. 
Khi xây dựng các đề án về chiến lược, quy 
hoạch tổng thể phát triển du lịch hay xây dựng 
dự thảo của các văn bản quy phạm pháp luật, 
của các chính sách kinh tế vĩ mô về du lịch, 
các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cần có 
sự tham vấn ý kiến của các bên liên quan còn 
lại (khách du lịch, nhà cung ứng sản phẩm du 
lịch và cộng đồng dân cư sở tại). 
Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch 
cần có những định hướng về mô hình phát 
triển du lịch, về loại hình, sản phẩm du lịch để 
các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, những 
người dân sở tại tham gia vào hoạt động du 
lịch có phương hướng phát triển du lịch đúng 
đắn, để hoạt động du lịch tại điểm đến phát 
triển có tính đồng bộ và bền vững. Những đề 
xuất này có tính rất cấp thiết đối với các địa 
bàn vùng sâu, vùng xa, nơi có những tiềm 
năng phát triển du lịch nổi trội song lại không 
có lợi thế so sánh để phát triển các ngành kinh 
tế khác, nền kinh tế tại những khu vực này 
đang rất kém phát triển, người dân có trình độ 
dân trí thấp, có thu nhập rất thấp như các địa 
bàn thuộc khu vực “3 Tây”; những địa bàn có 
các di sản văn hóa có giá trị nổi trội (mới được 
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới 
như Hát Xoan Phú Thọ, mới được phát hiện 
như Mộc bản Triều Nguyễn tại chùa Vĩnh 
Nghiêm, Bắc Giang,) 
Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch 
thuộc các bộ/ban ngành khác nhau, ở các cấp 
quản lý khác nhau cần có sự phối kết hợp chặt 
chẽ trong việc quản lý đối với hoạt động kinh 
doanh của các doanh nghiệp kinh doanh du 
lịch, đối với các hành vi của khách du lịch, đối 
với hành vi và nhận thức của cộng đồng dân cư 
sở tại liên quan đến hoạt động du lịch. Cụ thể, 
trong thời gian tới, cần nâng cao hiệu quả hoạt 
động của Ủy ban Quốc gia về du lịch. Tại các 
T.T.M. Hòa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 3 (2013) 19-28 27
địa phương phát triển du lịch cần nhân rộng 
mô hình Nâng cao hiệu quả hoạt động của 
các ban quản lý du lịch (Ban Quản lý Vịnh Hạ 
Long, Ban Quản lý Khu Danh thắng Tam Cốc-
Bích Động,.) hiện tại. Các điểm đến du lịch 
cần hình thành lực lượng an ninh du lịch. 
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các hiệp 
hội về du lịch (Hiệp hội du lịch, Hiệp hội lữ 
hành, Hiệp hội khách sạn); các câu lạc bộ về 
du lịch (Câu lạc bộ đón khách du lịch tàu biển, 
Câu lạc bộ đón khách đường bộ,). 
Bộ VH-TT-DL sớm chỉ đạo các cơ quan 
chức năng nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chuẩn, 
tiêu chí đánh giá chất lượng phục vụ du lịch, trong 
đó đặc biệt quan tâm đến các điều kiện đảm bảo 
an toàn, an ninh cho du khách; xây dựng bộ máy 
quản lý chất lượng phục vụ du lịch để phục vụ cho 
công tác đánh giá, xếp hạng cơ sở du lịch, phục vụ 
cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử 
phạt những cơ sở không đảm bảo chất lượng phục 
vụ du khách. Có như vậy mới có chế tài khiến các 
cơ sở kinh doanh du lịch phải quan tâm đảm bảo 
chất lượng phục vụ du lịch. 
Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, đặc 
biệt là ở cấp địa phương, một mặt, cần đẩy mạnh 
các hoạt động tuyên truyền nâng cao dân trí về ích 
lợi của việc phát triển du lịch tại địa phương. Mặt 
khác, cần quan tâm sâu sát đến việc tạo lợi ích cho 
người dân bản địa từ hoạt động du lịch, cụ thể 
theo các hướng: 
Đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ du lịch; về 
giao tiếp, ứng xử; về ngoại ngữ để họ có đủ năng 
lực hoặc được tuyển vào làm tại các cơ sở du lịch, 
hoặc tham gia dưới hình thức lao động hợp đồng 
hay lao động mùa vụ cho các cơ sở du lịch; 
Định hướng, hướng dẫn cho họ trong việc tạo 
ra các sản phẩm phù hợp với thị hiếu của khách du 
lịch để bán cho khách du lịch, cho cơ sở kinh 
doanh du lịch đạt hiệu quả cao hơn. Đó có thể là 
các đồ lưu niệm, lương thực, thực phẩm. 
Chính phủ cần tạo cơ chế, chính sách đặc thù 
cho việc phát triển du lịch gắn với xóa đói, giảm 
nghèo cho các địa bàn vùng sâu, vùng xa, đặc biệt 
là tại các khu vực biên giới của đất nước mà hiện 
nay Hà Giang là một ví dụ điển hình). 
4.2. Các giải pháp vi mô 
Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch của Việt 
Nam cần nâng cao tính chuyên nghiệp, quan tâm 
hơn nữa đến đạo đức kinh doanh, quan tâm hơn 
nữa đến công tác nghiên cứu đặc điểm tiêu dùng 
của khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc 
tế, để ngày càng nâng cao chất lượng phục vụ đối 
với du khách, ngày càng hoàn thiện hơn mối quan 
hệ giữa các nhà cung ứng sản phẩm du lịch với 
khách du lịch. 
Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch cần tích 
cực tham gia và phát huy tiếng nói trong các hiệp hội 
du lịch, các câu lạc bộ du lịch để tạo môi trường kinh 
doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh. 
Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch cần có 
sự phối kết hợp chặt chẽ hơn nữa với cộng đồng 
dân cư sở tại để khai thác các giá trị bản địa tạo 
sản phẩm đặc thù của điểm đến, tạo lợi ích cho 
cộng đồng, tạo sự gắn kết giữa cộng đồng và 
doanh nghiệp. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa; Giáo 
trình ”Kinh tế Du lịch”; NXB Đại học Kinh tế 
Quốc dân; 2008. 
[2] Quốc hội, Luật số 44/2005/QH11 của Quốc hội - 
Luật Du lịch, 2005. 
[3] Vũ Anh Tú; “Phát triển du lịch di sản trên thế 
giới và bài học cho Việt Nam”; Tọa đàm khoa 
học “Phát triển du lịch trong bối cảnh khủng 
hoảng kinh tế-những vấn đề đặt ra”; Trường 
ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội; ngày 06 tháng 
4 năm 2012. 
[4] Metin Kozak and Seyhmus Baloglu; “Managing 
and Marketing Tourist Destinations: Strategies to 
T.T.M. Hòa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 3 (2013) 19-28 
28
Gain a Competitive Edge - Routledge Advances 
in Tourism”; Taylor & Francis, 2010. 
[5] 
lich/594616/lon-xon-kinh-doanh-lu-hanh-quoc-
te-co-quan-quan-ly-bat-
luc;
VN/kinhte/2013/6/202000.cand. 
[6] Theo số liệu thống kê của Tổng cục Du lịch Việt 
Nam cho các năm và theo tính toán của tác giả.
Perfecting the Relationship Among Relevant Parties 
to Develop Tourism Activities in Vietnam 
Trần Thị Minh Hòa 
VNU University of Social Sciences and Humanities, 
336 Nguyễn Trãi Road, Thanh Xuân Dist., Hanoi, Vietnam 
Abstract: Vietnam is a country with great potentials for tourism development. Vietnam’s tourism 
has made considerable progress, but it has also revealed a lot of inadequacies affecting the efficiency 
of tourism activities and the sustainability of tourist destinations such as: the limited of tourism 
products, the yet-to-be good tourism services, the unhealthy business competition, the customer-
troubling evils, the unplanned development, environmental pollution in these destinations, the rapid 
degradation of tourism resources, the yet-to-be guaranteed security and safety for tourists and the 
loose management of the State. There are many causes leading to the above-said shortcomings, 
including those stemming from the disagreement in the relationship among the relevant parties in 
tourism activities. This paper discusses the nature of the relationship among the relevant parties in 
tourism activities; analyzes the real state of affairs of this relationship in Vietnam; comes up with 
some lessons of international experience in building the good relationship among the relevant parties 
in tourism activities and provides some recommendations to perfect these relations in order to develop 
the tourism activities in a sustainable way in Vietnam. 
Keywords: Tourism, the relevant parties, relationship, sustainable development. 

File đính kèm:

  • pdfhoan_thien_moi_quan_he_giua_cac_ben_lien_quan_nham_phat_trie.pdf