Kiến nghị việc xây dựng đơn giá tiền lương trên giá trị gia tăng

Tóm tắt Kiến nghị việc xây dựng đơn giá tiền lương trên giá trị gia tăng: ...lương trên 1000 đồng doanh thu Theo quy định, doanh nghiệp có thể xây dựng đơn giá tiền lương theo một trong các chỉ tiêu trên. Tuy nhiên, hiện nay đa số các doanh nghiệp đều tiến hành xây dựng đơn giá tiền lương trên 1000 đồng doanh thu. Sở dĩ thực tế như vậy là do việc xây dựng đơn g...á tiền lương của các doanh nghiệp khác nhau trong cùng một ngành hoặc giữa các ngành khác nhau trong nền kinh tế. Chẳng hạn trong ngành than, không thể đem so sánh đơn giá tiền lương trên 1000 đồng doanh thu đối một doanh nghiệp khai thác và một doanh nghiệp chế biến. - Thứ ba, khi xây... mối quan hệ giữa tốc độ tăng năng suất lao động bình quân tính theo giá trị gia tăng và tốc độ tăng tiền lương bình quân triệt để hơn. Hơn nữa, việc tính toán chỉ tiêu GTGT hiện nay chưa bắt buộc đối với các doanh nghiệp, song việc xác định GTGT góp phần làm rõ giá trị doanh nghiệp đó...

pdf5 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 274 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Kiến nghị việc xây dựng đơn giá tiền lương trên giá trị gia tăng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 74 
T¹p chÝ KTKT Má - §Þa chÊt, sè 42/4-2013, tr.74-78 
KIẾN NGHỊ VIỆC XÂY DỰNG ĐƠN GIÁ TIỀN LƯƠNG 
TRÊN GIÁ TRỊ GIA TĂNG 
LÊ ĐÌNH CHIỀU, ĐẶNG HUY THÁI, ĐỒNG THỊ BÍCH 
Trường Đại học Mỏ - Địa chất 
Tóm tắt: Đơn giá tiền lương được các doanh nghiệp xây dựng hàng năm để làm căn cứ xác 
định tổng quỹ lương theo đơn giá trả cho người lao động. Theo quy định hiện hành, doanh 
nghiệp có thể xây dựng đơn giá tiền lương theo tổng doanh thu, tổng doanh thu trừ tổng chi 
phí chưa có lương, lợi nhuận hoặc tổng sản phẩm (kể cả sản phẩm quy đổi) tiêu thụ. Với 
những ưu điểm nhất định mà đa phần các doanh nghiệp hiện nay đều xây dựng đơn giá tiền 
lương trên 1000 đồng doanh thu. Tuy nhiên việc xây dựng đơn giá tiền lương theo chỉ tiêu 
nào trong số các chỉ tiêu trên cũng có những hạn chế, bất cập. Thông qua bài báo, tác giả 
đã phân tích để chỉ ra những bất cập của phương pháp xây dựng đơn giá tiền lương hiện tại 
và đề xuất phương pháp xây dựng đơn giá tiền lương mới – xây dựng đơn giá tiền lương 
trên giá trị gia tăng. 
Đặt vấn đề 
Công tác kế hoạch hóa nói chung và công 
tác xây dựng đơn giá tiền lương nói riêng được 
các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp 
công nghiệp có quy mô lớn như các doanh 
nghiệp công nghiệp mỏ thực hiện thường niên. 
Đơn giá tiền lương được xây dựng sau khi được 
cơ quan quản lý duyệt sẽ được sử dụng làm căn 
cứ xác định tổng quỹ lương theo đơn giá để trả 
lương cho người lao động. Là căn cứ quan trọng 
để xác định tổng quỹ lương theo đơn giá trả cho 
người lao động nên việc xây dựng đơn giá tiền 
lương luôn được các doanh nghiệp cũng như 
người lao động coi trọng. Theo quy định của Bộ 
Lao động – Thương binh và Xã hội, đơn giá 
tiền lương có thể được xây dựng trên một trong 
các chỉ tiêu của kế hoạch sản xuất: Tổng doanh 
thu; tổng doanh thu trừ tổng chi phí (chưa có 
lương); lợi nhuận; tổng sản phẩm (kể cả sản 
phẩm quy đổi) tiêu thụ. Do có những ưu việt 
nhất định nên hầu hết các doanh nghiệp đều xây 
dựng đơn giá tiền lương trên 1000 đồng doanh 
thu. Tuy nhiên việc xây dựng đơn giá tiền lương 
theo tiêu chí này cũng còn rất nhiều bất cập. 
1. Phương pháp xây dựng đơn giá tiền lương 
hiện tại – những ưu điểm và bất cập 
1.1. Đơn giá tiền lương được xây dựng trên 
chỉ tiêu hiện vật – tổng sản phẩm (kể cả sản 
phẩm quy đổi) tiêu thụ 
Theo phương pháp này, đơn giá tiền lương 
trên một đơn vị sản phẩm được xác định theo 
công thức: 
Vđg = Vg x Tsp; VNĐ/đơn vị sản phẩm , (1) 
trong đó: 
 Vđg - đơn giá tiền lương tính trên một đơn 
vị sản phẩm (kể cả sản phẩm quy đổi) tiêu thụ 
(VNĐ/đơn vị sản phẩm); 
 Vg - tiền lương người - giờ để tính đơn giá 
tiền lương, được tính bằng tiền lương tháng 
bình quân kế hoạch chia cho 26 ngày và chia 
cho 8 giờ. Tiền lương bình quân tháng được 
tính trên cơ sở hệ số lương theo cấp bậc công 
việc, phụ cấp lương bình quân, mức lương tối 
thiểu của công ty lựa chọn, phần chênh lệch tiền 
lương cán bộ chuyên trách đoàn thể và tiền 
lương tính thêm khi làm việc vào ban đêm; 
 Tsp - mức lao động tổng hợp cho đơn vị 
sản phẩm (người - giờ/đơn vị sản phẩm). 
Đơn giá tiền lương xây dựng theo phương 
pháp này có nhiều ưu điểm: 
- Thứ nhất, chỉ tiêu này có tác động trực 
tiếp, đơn giản, người lao động dễ hiểu bởi theo 
chỉ tiêu này, đơn giá tiền lương không phụ 
thuộc vào giá cả thị trường của sản phẩm nên 
nó phản ánh trực tiếp và chính xác tương quan 
giữa những gì người lao động được hưởng với 
những gì mà họ đã đóng góp cho doanh nghiệp. 
 75 
- Thứ hai, đơn giá này có thể được sử dụng 
để trả lương sản phẩm trực tiếp cho các công 
đoạn, công việc khác nhau của người lao động. 
Tuy nhiên, việc xây dựng đơn giá tiền 
lương theo đơn vị sản phẩm cũng có những hạn 
chế nhất định: 
- Việc tính toán rất phức tạp, đặc biệt trong 
doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm rất 
khó tách bạch chi phí gián tiếp, chi phí quản lý 
cho từng loại sản phẩm. 
- Đơn giá tiền này tách rời yếu tố thị 
trường, bởi suy cho cùng thì tiền lương phải 
được trả (có nguồn) từ giá trị thu được thông 
qua bán hàng và cung cấp dịch vụ. 
1.2. Đơn giá tiền lương được xây dựng trên 
chỉ tiêu giá trị 
Theo quy định hiện hành tại thông tư 
15/2005/TT-BLĐTBXH, đơn giá tiền lương 
theo kế hoạch được xác định theo công thức: 
đb mincty cbcv pc đt ttlđ
g
[L .TL .(H H ) V ].12tháng V
V
CTKH
  

 (đồng/ 1000 đồng) 
, (2) 
trong đó: 
 Vg - đơn giá tiền lương, được dùng để xác 
định tổng quỹ lương theo đơn giá (đồng/1000 
đồng chỉ tiêu giá trị); 
 Lđb - lao động định biên của doanh 
nghiệp; 
 TLmincty - tiền lương tối thiểu doanh 
nghiệp lựa chọn. Tiền lương tối thiểu được xác 
định theo công thức: 
mincty minchung đcTL TL .(1 K )  
,VNĐ (3) 
TLminchung - tiền lương tối thiểu chung; 
Kđc - hệ số tiền lương tối thiểu chung. 
 Hcbcv - hệ số cấp bậc công việc bình quân; 
 Hpc - hệ số phụ cấp bình quân; 
 Vđt - tiền lương chênh lệch của cán bộ 
đoàn thể; 
 Vttlđ - tiền lương tính thêm khi làm việc 
vào ban đêm; 
 CTKH - một trong số các chỉ tiêu kế 
hoạch, bao gồm: 
+ Tổng doanh thu kế hoạch (Tkh); 
+ Tổng doanh thu kế hoạch trừ tổng chi phí 
kế hoạch chưa bao gồm chi phí tiền lương (Tkh 
– Ckh); 
+ Tổng lợi nhuận kế hoạch (Pkh). 
(Các chỉ tiêu giá này được tính theo đơn vị 
1000 đồng) 
Các thông số đó được xác định chi tiết theo 
thông tư 06/2005/TT-BLĐTBXH và thông tư 
15/2007/TT-BLĐTBXH. 
Đơn giá tiền lương được xây dựng theo một 
trong số các chỉ tiêu trên đều có những ưu, 
nhược điểm nhất định. 
a) Phương pháp xây dựng đơn giá tiền lương 
trên 1000 đồng doanh thu 
Theo quy định, doanh nghiệp có thể xây 
dựng đơn giá tiền lương theo một trong các chỉ 
tiêu trên. Tuy nhiên, hiện nay đa số các doanh 
nghiệp đều tiến hành xây dựng đơn giá tiền 
lương trên 1000 đồng doanh thu. Sở dĩ thực tế 
như vậy là do việc xây dựng đơn giá tiền lương 
trên 1000 đồng doanh thu có những ưu việt nhất 
định so với việc xây dựng đơn giá tiền lương 
theo các chỉ tiêu khác: 
- Thứ nhất, xuất phát từ tính đơn giản 
trong tính toán của chỉ tiêu tổng doanh thu. 
Trong số các chỉ tiêu kinh tế, tài chính hàng 
năm của doanh nghiệp như doanh thu, chi phí, 
giá thành, lợi nhuận thì chỉ tiêu doanh thu là 
tính toán đơn giản và dễ thống kê nhất. Chỉ cần 
chứng từ như hóa đơn bán hàng hoặc các bảng 
kê sản lượng tiêu thụ là có thể thống kê được 
chỉ tiêu này. 
- Thứ hai, xuất phát từ tính phổ biến, thông 
dụng của chỉ tiêu tổng doanh thu so với các chỉ 
tiêu kinh tế chủ yếu khác của doanh nghiệp. 
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay việc tiêu 
thụ sản phẩm cũng như xác định giá bán phải 
xuất phát từ thị trường. Chính vì vậy sản lượng 
tiêu thụ và giá bán là những chỉ tiêu đầu tiên mà 
các doanh nghiệp phải điều tra, dự báo cho năm 
kế hoạch. Hay nói cách khác chỉ tiêu tổng 
doanh thu là chỉ tiêu bắt buộc số 1 mà doanh 
nghiệp quan tâm trong năm kế hoạch. Các chỉ 
tiêu còn lại cũng quan trọng song mức độ cấp 
thiết thấp hơn. 
- Thứ ba, đơn giá tiền lương trên 1000 
đồng doanh thu thể hiện được mối tương quan 
giữa giá trị mà người lao động đóng góp cho 
doanh nghiệp và giá trị mà doanh nghiệp trả cho 
người lao động. Với ý nghĩa nếu đóng góp 1000 
đồng doanh thu thì người lao động sẽ được trả 
bao nhiêu đồng tiền lương, nó có thể sẽ là động 
 76 
lực tác động vào tâm lý người lao động để họ 
tích cực lao động, tăng doanh thu cho doanh 
nghiệp. 
Có tính ưu việt như vậy, song việc xây 
dựng đơn giá tiền lương trên 1000 đồng doanh 
thu cũng còn rất nhiều bất cập: 
- Thứ nhất, chỉ tiêu tổng doanh thu không 
phản ánh được những giá trị thực tế được tạo ra 
bởi những người lao động trong doanh nghiệp. 
Như đã biết, giá trị của hàng hóa được cấu 
thành từ hao phí lao động sống và lao động quá 
khứ. Giá trị sản phẩm của doanh nghiệp là căn 
cứ quan trọng để xác định giá bán, từ đó xác 
định doanh thu bán sản phẩm, cung cấp dịch vụ. 
Trong tổng số tiền thu về từ doanh thu chỉ có 
một phần giá trị được tạo ra ở doanh nghiệp, 
phần còn lại được tạo ra bởi các nhà cung cấp 
được kết tinh trong các yếu tố đầu vào vật chất. 
Điều này càng đúng đối với các doanh nghiệp 
hoạt động thương mại, chế biến sản phẩm 
khoáng sản như tuyển, luyện. Ngoài ra, giá bán 
sản phẩm của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào 
thị trường, vào cung – cầu, cạnh tranh. 
Bên cạnh đó, một nguyên tắc của việc trả 
lương là tiền lương được trả dựa vào năng suất, 
chất lượng và hiệu quả lao động. Tuy nhiên, chỉ 
tiêu tổng doanh thu không tách biệt được giữa 
đóng góp hao phí lao động của người lao động 
với kết quả kinh doanh xét từ yếu tố thị trường, 
do đó năng suất lao động được tính theo doanh 
thu không phản ánh đúng những gì mà người 
lao động đóng góp cho doanh nghiệp. Vì vậy 
chỉ tiêu đơn giá tiền lương trên 1000 đồng 
doanh thu chưa thực sự tối ưu. 
- Thứ hai, đơn giá tiền lương được xây 
dựng trên 1000 đồng doanh thu không thể đem 
ra so sánh giữa các doanh nghiệp khác nhau 
trong cùng một ngành hay giữa các ngành với 
nhau khi cần. Như đã đề cập ở trên tổng doanh 
thu của doanh nghiệp không phản ánh đúng 
những gì doanh nghiệp tạo ra. Bên cạnh đó, 
phần giá trị tạo ra trong doanh thu của các 
doanh nghiệp khác nhau là khác nhau. Do đó, 
không có căn cứ nếu đem so sánh đơn giá tiền 
lương của các doanh nghiệp khác nhau trong 
cùng một ngành hoặc giữa các ngành khác nhau 
trong nền kinh tế. Chẳng hạn trong ngành than, 
không thể đem so sánh đơn giá tiền lương trên 
1000 đồng doanh thu đối một doanh nghiệp 
khai thác và một doanh nghiệp chế biến. 
- Thứ ba, khi xây dựng đơn giá tiền lương 
cần phải xác định chỉ tiêu hệ số điều chỉnh tiền 
lương tối thiểu chung. Khi xác định chỉ tiêu này 
cần đảm bảo một ràng buộc là tốc độ tăng năng 
suất lao động bình quân phải lớn hơn tốc độ 
tăng tiền lương bình quân. Tuy nhiên năng suất 
lao động tính theo doanh thu không phản ánh 
chính xác sự đóng góp của người lao động cho 
doanh nghiệp. Do đó, việc đảm bảo ràng buộc 
này là chưa thực sự chính xác. 
b) Phương pháp xây dựng đơn giá tiền lương 
trên 1000 đồng tổng doanh thu trừ tổng chi 
phí (chưa có lương) và đơn giá tiền lương trên 
1000 đồng lợi nhuận 
Là các chỉ tiêu giá trị nên đơn giá tiền 
lương được xây dựng trên tổng doanh thu trừ 
tổng chi phí chưa có lương và đơn giá tiền 
lương trên lợi nhuận cũng phản ánh được tương 
quan giữa giá trị mà người lao động đóng góp 
cho doanh nghiệp và giá trị mà doanh nghiệp trả 
cho người lao động. Tuy nhiên, trái ngược lại 
với chỉ tiêu tổng doanh thu, các chỉ tiêu này lại 
không phản ánh hết những giá trị của năm hiện 
tại được tạo ra tại doanh nghiệp. Cụ thể: 
- Đối với chỉ tiêu tổng doanh thu trừ tổng 
chi phí chưa có lương không phản ánh được chi 
phí khấu hao – không phải chi phí thực tế tại 
năm đang xét mà đã phát sinh tại thời điểm đầu 
tư tài sản cố định, các khoản trích theo lương và 
các khoản thuế doanh nghiệp phải nộp. 
- Đối với chỉ tiêu lợi nhuận thì chỉ phản ánh 
được một phần giá trị được tạo ra tại doanh 
nghiệp – phần giá trị thặng dư (giá trị thặng dư 
là tiền đề của lợi nhuận). 
2. Đề xuất xây dựng đơn giá tiền lương trên 
giá trị gia tăng (GTGT) 
2.1. Những ưu việt của việc xây dựng đơn giá 
tiền lương trên giá trị gia tăng 
Như đã phân tích ở trên, việc xây dựng đơn 
giá tiền lương theo các chỉ tiêu ở trên còn nhiều 
bất cập. Để khắc phục những bất cập đó, ở đây 
tác giả đề xuất việc xây dựng đơn giá tiền lương 
trên giá trị gia tăng. 
Giá trị gia tăng là toàn bộ số tiền doanh 
nghiệp thu về từ việc bán hàng và cung cấp dịch 
vụ trong một thời kỳ (thường là một năm) sau 
 77 
khi đã trừ đi chi phí đầu vào có liên quan đến 
giá trị vật tư dùng trong sản xuất kinh doanh. 
Giá trị gia tăng được xác định theo công thức: 
GTGT = Tổng doanh thu – 
CP vật tư dùng trong SXKD 
,VNĐ (4) 
hoặc: 
Giá trị gia tăng = Giá trị KH 
TSCĐ + Tiền lương, thưởng và 
các khoản trích theo lương + Lợi 
nhuận + Thuế các loại 
,VNĐ (5) 
Chỉ tiêu đơn giá tiền lương trên giá trị gia 
tăng khắc phục được những nhược điểm nêu 
trên. Cụ thể: 
- Thứ nhất, chỉ tiêu giá trị gia tăng phản 
ánh đúng những gì được tạo ra tại doanh 
nghiệp nên đơn giá tiền lương trên giá trị gia 
tăng phản ánh đúng tương quan giữa cái nhận 
được và cái bỏ ra trong quan hệ sử dụng lao 
động của doanh nghiệp. 
- Thứ hai, giá trị gia tăng phản ánh đúng 
những giá trị tạo ra tại doanh nghiệp nên đơn 
giá tiền lương được xây dựng trên giá trị gia 
tăng có thể so sánh được giữa các doanh nghiệp 
khác nhau vì nó được đưa về cùng một hệ quy 
chiếu. Hơn nữa việc đem so sánh tiền lương 
bình quân giữa các doanh nghiệp khác nhau 
không thấy được hết sự hợp lý trong việc trả 
lương. Việc so sánh đơn giá tiền lương trên giá 
trị gia tăng giữa các doanh nghiệp sẽ giúp nhà 
quản lý thấy được sự hợp lý trong việc trả 
lương của các đơn vị thành viên của mình. 
- Thứ ba, giá trị gia tăng phản ánh đúng 
những đóng góp của người lao động đối với 
doanh nghiệp nên mối quan hệ giữa tốc độ tăng 
năng suất lao động bình quân tính theo giá trị 
gia tăng và tốc độ tăng tiền lương bình quân 
triệt để hơn. 
Hơn nữa, việc tính toán chỉ tiêu GTGT hiện 
nay chưa bắt buộc đối với các doanh nghiệp, song 
việc xác định GTGT góp phần làm rõ giá trị 
doanh nghiệp đóng góp cho xã hội, góp phần xác 
định GDP của ngành, của quốc gia chính xác. 
Với những ưu việt như vậy nhưng hiện tại 
các doanh nghiệp thường không lựa chọn chỉ 
tiêu giá trị gia tăng để xây dựng đơn giá tiền 
lương. Sở dĩ có điều này, theo ý kiến chủ quan 
của tác giả có thể xuất phát từ những nguyên 
nhân sau: 
- Việc tính toán chỉ tiêu giá trị gia tăng 
phức tạp hơn so với việc tính toán các chỉ tiêu 
khác như tổng doanh thu. 
- Khác với các chỉ tiêu như tổng doanh thu, 
tổng chi phí hay lợi nhuận, chỉ tiêu giá trị gia 
tăng không phải là chỉ tiêu bắt buộc phải tính 
trong hệ thống các chỉ tiêu kinh tế, tài chính của 
doanh nghiệp (theo yêu cầu của cơ quan quản lý 
Nhà nước về tài chính, thuế). 
2.2. Phương pháp xây dựng đơn giá tiền 
lương trên giá trị gia tăng 
Đơn giá tiền lương trên giá trị gia tăng 
được xác định theo công thức: 
đb mincty cbcv pc đt ttlđ
g
[L .TL .(H H ) V .12tháng V
V
GTGT
  
 ;(6) 
trong đó: 
Vg - đơn giá tiền lương trên GTGT 
(đồng/GTGT); 
GTGT - giá trị gia tăng của doanh nghiệp 
3. Áp dụng kết quả nghiên cứu 
3.1. Xây dựng đơn giá tiền lương trên giá trị 
gia tăng 
Việc xây dựng đơn giá tiền lương trên giá 
trị gia tăng được thực hiện theo các số liệu kế 
hoạch của doanh nghiệp. Để xây dựng đơn giá 
này cần phải tính toán các thông số: 
- Tổng quỹ lương kế hoạch theo đơn giá: 
KHĐG đb mincty cbcv pc
đt ttlđ
TQL L .TL .(H H )
V ].12tháng V
  
 
 ,VNĐ (7) 
trong đó: các thông số trong (7) được xác định 
như đã đề cập ở trên. 
- Kế hoạch giá trị gia tăng. Chỉ tiêu này 
được tổng hợp từ các kế hoạch: 
+ Từ kế hoạch sản xuất kinh doanh xác 
định được lợi nhuận năm kế hoạch; 
+ Từ kế hoạch khấu hao, xác định được 
tổng chi phí khấu hao năm kế hoạch; 
+ Từ kế hoạch nộp ngân sách xác định 
được các khoản thuế phải nộp ngân sách năm kế 
hoạch; 
+ Từ kế hoạch lao động – tiền lương xác 
định được tổng quỹ lương kế hoạch (bao gồm 
tổng quỹ lương kế hoạch theo đơn giá và tổng 
quỹ lương kế hoạch theo chế độ). 
+ Các khoản trích theo lương được xác định 
theo nguyên tắc bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, 
bảo hiểm thất nghiệp được tính trên lương cơ 
 78 
bản của người lao động còn kinh phí công đoàn 
được tính trên tổng quỹ lương. 
Tổng hợp các mục trên tính được tổng giá 
trị gia tăng năm kế hoạch. 
3.2. Xác định tổng quỹ lương đơn giá thực 
hiện 
Tổng quỹ lương thực hiện theo đơn giá 
được xác định theo công thức: 
ĐGTH g THTQL V .GTGT ; VNĐ , (8) 
trong đó giá trị gia tăng được lấy từ các số liệu 
thống kê. 
4. Kết luận và kiến nghị 
Trong bối cảnh hiện nay, việc tuyển dụng 
lao động ngày càng trở thành bài toán phức tạp 
đối với doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh 
nghiệp công nghiệp mỏ thì các giải pháp thu hút 
lao động cần thiết phải được các doanh nghiệp 
đề ra. Xây dựng đơn giá tiền lương phù hợp, có 
tính khuyến khích người lao động có thể coi là 
một giải pháp. Trên cơ sở phân tích và chỉ ra 
những hạn chế căn bản của phương pháp xây 
dựng đơn giá hiện tại tại các doanh nghiệp, bài 
báo đã đề xuất phương pháp xây dựng đơn giá 
tiền lương mới – đơn giá tiền lương trên GTGT. 
Đơn giá tiền lương trên GTGT có thể áp dụng 
rộng rãi trong các doanh nghiệp, đặc biệt là 
trong các nhóm công ty mà ngành nghề kinh 
doanh đa dạng, được thực hiện bởi nhiều công 
ty con khác nhau. Khi đó, đơn giá tiền lương 
của các công ty con sẽ được kiểm soát thống 
nhất bởi công ty mẹ trong nhóm công ty. Để 
triển khai việc xây dựng và quản lý đơn giá tiền 
lương trên GTGT vào thực tế, theo tác giả cần 
thực hiện một số giải pháp: 
+ Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước: 
- Cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ 
thể để thuận tiện cho việc áp dụng của các 
doanh nghiệp; 
- Đưa chỉ tiêu GTGT trở thành chỉ tiêu 
thống kê bắt buộc tại các doanh nghiệp như các 
chỉ tiêu tài chính (doanh thu, chi phí, lợi 
nhuận). 
+ Đối với các doanh nghiệp: 
- Thực sự coi trọng việc xây dựng đơn giá 
tiền lương như một nội dung quan trọng của 
hoạt động quản trị; 
- Hoàn thiện hệ thống thống kê của doanh 
nghiệp. 
SUMMARY 
Proposed the construction of unit salary on value added 
Le Dinh Chieu, Dang Huy Thai, Dong Thi Bich, University of Mining and Geology 
Unit salary is annually determined (by enterprises) in order to reach the total salary which 
employees are paid. According to the law in force, enterprises have their rights to create unit salary 
on the basis of total revenue, total revenue minus total cost (without salary), profits or gross 
products (including converted products) consumed. Owing to its advantages, almost every current 
enterprise establishes salary unit on revenue. However, all of the above criteria have their own 
drawbacks and limitations. In the article, the authors does analyze and point out the disadvantages 
of the current unit salary and suggest the brand new one that is based on value added. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Phạm Đình Tân, Đặng Huy Thái, 2001. Bài 
giảng Hoạch định chiến lược kinh doanh và kế 
hoạch hóa doanh nghiệp công nghiệp mỏ. 
Trường Đại học Mỏ - Địa chất. 
[2]. Nguyễn Tiệp, 2011. Giáo trình Kế hoạch 
nhân lực . NXB Lao động – Xã hội. 
[3]. Thông tư 15/2007/TT-BLĐTBXH ngày 31 
tháng 8 năm 2007 của Bộ Lao động – Thương 
binh và Xã hội. 

File đính kèm:

  • pdfkien_nghi_viec_xay_dung_don_gia_tien_luong_tren_gia_tri_gia.pdf