Liên kết giữa các cơ quan thông tin thư viện của các trường đại học và các viện nghiên cứu

Tóm tắt Liên kết giữa các cơ quan thông tin thư viện của các trường đại học và các viện nghiên cứu: ...cho một quá trình nghiên cứu tiếp, để tạo ra thông tin mới, .... Do sự tham gia vào các hoạt động khác nhau (nghiên cứu – đào tạo), theo các chủ thể khác nhau (viện nghiên cứu- trường đại học) nên nếu không có sự phối hợp giữa các cơ quan thông tin thư viện nêu trên, việc kiểm soát được nguồ...trong và ngoài nước đều thừa nhận: các nguồn tư liệu Hán Nôm (văn khắc Hán Nôm bao gồm: các bản rập văn bia, chuông khánh và biển gỗ, ...), Kỷ yếu các Hội nghị, Hội thảo khoa học, cùng các bài nghiên cứu, các công trình khoa học và luận án, luận văn khoa học,... là các nguồn thông tin bổ trợ l...ịnh và toàn diện hơn, việc điều khiển sự liên kết đó được thực hiện trên một nền tảng vững chắc hơn. Một số giải pháp duy trì và thúc đẩy quá trình liên kết Để chuẩn bị cho quá trình hợp tác. liên kết, hoạt động TTTV ở mỗi trường đại học hoặc tổ chức R&D cần phải hướng đến việc tạo khả năng ...

pdf5 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 350 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Liên kết giữa các cơ quan thông tin thư viện của các trường đại học và các viện nghiên cứu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hội nghị quốc tế về thư viện – TP. HCM 28-30/8/2006 
Thư viện Việt Nam hội nhập và phát triển 85 
LIÊN KẾT GIỮA CÁC CƠ QUAN THÔNG TIN 
THƯ VIỆN CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ 
CÁC VIỆN NGHIÊN CỨU 
ThS. CHU TUYẾT LAN 
Giám đốc Thư viện 
Viện Nghiên cứu Hán Nôm- VASS 
1. Mở đầu 
Liên kết giữa các thư viện là một xu thế rất phổ biến hiện nay. Ở nước ta, 
gần đây, vấn đề này đã từng được nêu ra và trở thành chủ đề thu hút sự quan tâm 
của toàn ngành. 
Sự liên kết này diễn ra trong lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo, giữa các cơ 
quan thông tin thư viện trực thuộc các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu/tổ 
chức R&D là rất rõ rệt. Có thể thấy, trên thực tế, xét từ mô hình hoạt động và mô 
hình tổ chức, đã xuất hiện sự đan xen, sự tích hợp giữa công tác nghiên cứu và đào 
tạo trên mọi phạm vi. Điều đó cũng thể hiện rõ sự phụ thuộc chặt chẽ giữa định 
hướng phát triển của các cơ quan thông tin thư viện này vào nhu cầu và định 
hướng phát triển của các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu. 
Xét về ý nghĩa, sự liên kết giữa các cơ quan thông tin thư viện được xem 
như là một trong số các phương tiện, công cụ để duy trì và thúc đẩy sự liên kết 
giữa các tổ chức nghiên cứu và đào tạo, giữa hoạt động nghiên cứu và đào tạo. 
2. Vấn đề liên kết giữa các thư viện nghiên cứu và các trường đại học 
 Sự liên kết giữa các cơ quan thông tin thư viện là nhằm giúp các cơ quan 
này: 
- Nâng cao được năng lực đáp ứng nhu cầu thông tin thông qua việc tận 
dụng hợp lý nhất năng lực hiện có của từng thành viên và việc mở rộng diện 
nguồn tin mà người dùng tin có thể khai thác; 
- Gia tăng được số lượng người dùng tin chức năng của mỗi cơ quan; 
- Nâng cao tính tiện lợi trong việc khai thác, sử dụng các nguồn/hệ thống 
thông tin thư viện đối với người dùng tin; 
- Nâng cao hiệu quả chi phí trong quá trình triển khai hoạt động của mỗi cơ 
quan thông tin thư viện... 
Chính từ các mục đích đó mà quá trình liên kết, phối hợp giữa các cơ quan 
thông tin thư viện đã diễn ra với các nội dung và mức độ khác nhau. Sự khác nhau 
đó tuỳ thuộc vào nhiều nguyên nhân: nhận thức và quan điểm của đội ngũ cán bộ 
thông tin thư viện chuyên nghiệp, trình độ và khả năng về công nghệ, các vấn đề 
Hội nghị quốc tế về thư viện – TP. HCM 28-30/8/2006 
Thư viện Việt Nam hội nhập và phát triển 86 
liên quan đến chính sách được các cơ quan này thực thi, quan điểm và hành vi 
trong việc khai thác, sử dụng thông tin của người dùng tin, vv... 
Sự liên kết giữa các cơ quan thông tin thư viện được triển khai trên cơ sở 
những đòi hỏi khác biệt nhau. Nếu như do các yếu tổ địa lý - người dùng tin 
không có điều kiện trực tiếp khai thác, sử dụng các nguồn/hệ thống thông tin – thì 
các dịch vụ mượn liên thư viện, mượn từ xa được áp dụng. Nếu như do các yếu tố 
về tính chất liên ngành và sự tản mạn tin gây nên - người dùng tin quan tâm và cần 
khai thác đồng thời nguồn tin của một số nguồn/hệ thống khác nhau – thì lại làm 
xuất hiện mục lục liên hợp cũng như một loạt dịch vụ hỗ trợ khác, ... 
 Ngoài ra, sự liên kết đó còn là cần thiết bởi nhu cầu liên kết giữa các hoạt 
động, các quá trình nghiên cứu và đào tạo. Dưới đây là một số biểu hiện cụ thể của 
yếu tố này thông qua phân tích trường hợp tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 
 - Đội ngũ cán bộ nghiên cứu, đặc biệt là các cán bộ nghiên cứu có trình độ 
cao tham gia trực tiếp và ổn định vào hoạt động đào tạo (tại Viện và tại các trường 
đại học). Trong quá trình lao động phức hợp và khó tách biệt đó, nguồn thông tin 
mà họ cần đến và họ tạo ra - với tư cách người dùng tin và người tạo ra nguồn tin 
mà các cơ quan thông tin thư viện này mong muốn kiểm soát - là không thể tách 
biệt một cách rách rời, giản đơn. Và để làm tốt được điều đó (cung cấp thông tin 
phù hợp và kiểm soát được các nguồn tin cần thiết) các cơ quan thông tin thư viện 
không thể không liên kết ổn định và chặt chẽ với nhau. 
 Trong hoạt động khoa học, thông tin là nguyên liệu cơ bản đồng thời lại là 
sản phẩm được tạo nên trong quá trình lao động. Do khoa học mang tính kế thừa, 
nên các nguồn thông tin trên có một quan hệ mật thiết, không tách rời: từ thông tin 
đầu vào, người ta tạo ra được các thông tin mới, sau đó, thông tin (cả mới và 
những thông tin đã có) lại được sử dụng làm nguyên liệu cho một quá trình nghiên 
cứu tiếp, để tạo ra thông tin mới, .... Do sự tham gia vào các hoạt động khác nhau 
(nghiên cứu – đào tạo), theo các chủ thể khác nhau (viện nghiên cứu- trường đại 
học) nên nếu không có sự phối hợp giữa các cơ quan thông tin thư viện nêu trên, 
việc kiểm soát được nguồn tin, ngay chỉ đối với nguồn tin được một nhà khoa học 
tạo nên, là rất khó khăn. Đối với một cơ quan nghiên cứu hoặc đào tạo, nguồn tin 
này lại mang nhiều ý nghĩa và giá trị đặc biệt, phản ánh tiềm năng, các thành tựu 
đạt được, xu thế phát triển của mỗi cá nhân và cộng đồng khoa học. 
 - Các nguồn thông tin được tạo nên từ hoạt động nghiên cứu và đào tạo có 
mối quan hệ khăng khít với nhau, tạo thành một hệ thống thống nhất phản ánh các 
tri thức về một lĩnh vực, đối tượng khoa học. Điều này được thể hiện thông qua 
mối quan hệ mật thiết giữa hệ thống các đề tài nghiên cứu khoa học - hệ thống các 
đề tài được phản ánh trong các luận án, luận văn khoa học - kỷ yếu các hội nghị, 
hội thảo khoa học - nguồn tư liệu có liên quan đặc trưng cho mỗi (mỗi nhóm) đối 
tượng, các tư liệu điều tra, sưu tầm, điền dã có trong hầu hết các niên luận, khoá 
luận của sinh viên đại học, - các tài liệu, tư liệu dịch, .... Để không tạo nên sự gián 
đoạn, sự cát cứ của các nguồn thông tin trên, để tạo nên sự liên thông và khả năng 
Hội nghị quốc tế về thư viện – TP. HCM 28-30/8/2006 
Thư viện Việt Nam hội nhập và phát triển 87 
sẵn sàng đáp ứng nhu cầu khai thác, sử dụng thông tin của hệ thống thông tin phức 
hợp trên, thì sự liên kết giữa các cơ quan thông tin thư viện đại học và các tổ chức 
R&D là không thể thay thế. 
 Viện Nghiên cứu Hán Nôm được Chính phủ giao chức năng đào tạo sau đại 
học, trình độ Thạc sĩ và Tiến sĩ từ năm 1994, đến nay đã có nhiều sinh viên và 
nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án ThS. và TS. Khoa học Ngữ văn chuyên 
ngành Hán Nôm tại Viện. Hơn thế nữa, Viện là một tổ chức nghiên cứu đầu ngành 
của quốc gia và quốc tế về Hán Nôm, gồm những thư tịch và tài liệu viết bằng chữ 
Hán và chữ Nôm -- kho văn hoá thành văn phong phú và giá trị nhất của nước ta 
trước khi có các văn bản ghi bằng chữ La-tinh. Viện cũng là một trung tâm bảo tồn 
và nghiên cứu khai thác di sản Hán Nôm lớn nhất ở Việt Nam. Đảm nhận những 
chức năng quan trọng đó, Viện đã tổ chức các hoạt động nghiên cứu trên cơ sở sưu 
tầm tư liệu Hán Nôm không những ở trong nước mà cả ở nước ngoài, đồng thời 
triển khai những chương trình, đề án, đề tài trọng điểm của quốc gia, các chương 
trình và đề án được tài trợ của các tổ chức quốc tế, liên quan đến di sản Hán Nôm; 
tiến hành công tác đào tạo trình độ cao đối với các nhà khoa học, trực tiếp tham 
gia giảng dạy bậc đại học và cao học tại các trường đại học trọng điểm của quốc 
gia, .... Các nhà nghiên cứu và cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh và sinh viên 
trong và ngoài nước đều thừa nhận: các nguồn tư liệu Hán Nôm (văn khắc Hán 
Nôm bao gồm: các bản rập văn bia, chuông khánh và biển gỗ, ...), Kỷ yếu các Hội 
nghị, Hội thảo khoa học, cùng các bài nghiên cứu, các công trình khoa học và luận 
án, luận văn khoa học,... là các nguồn thông tin bổ trợ lẫn nhau, cùng có khả năng 
đáp ứng những loại nhu cầu khác nhau của người dùng tin. Từ góc độ của người 
dùng tin, các loại khác nhau của nguồn tin này tạo nên một hệ thống thống nhất, 
không thể chia cắt. 
Như vậy, rõ ràng Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm rất cần sự liên kết 
với nhiều cơ quan khác, như Trung tâm Thông tin thư viện Đại học Quốc gia Hà 
Nội, Trung tâm học liệu Huế, và các Trung tâm nghiên cứu khác trong cả nước để 
phát huy một cách hiệu quả nhất giá trị của các vốn tài liệu truyền thống mà Viện 
đang bảo tồn và khai thác. Điều dễ thấy là đối với các cơ quan trên, thì sự liên kết 
với Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm sẽ tạo nên các lợi thế nhất định, trước hết 
là bảo đảm được sự thuận tiện và giản lược trong việc khai thác nguồn thư tịch 
quý hiếm của quốc gia và các nghiên cứu về chúng được thực hiện bởi các nhà 
nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Về bản chất, dễ thấy đó không phải là 
một sự liên kết đơn phương, chỉ mang lại lợi ích cho một chủ thể nào đó, mà là 
mối liên kết đa chiều, mang lại ích lợi thiết thực cho tất cả các chủ thể tham gia 
vào quá trình liên kết, hợp tác với nhau. 
 Kết hợp hoạt động nghiên cứu và đào tạo là một xu thế mang tính tất yếu. 
Từ đó dẫn đến sự tham gia của các nhà khoa học vào hoạt động đào tạo, và ngược 
lại, sự tham gia của đội ngũ giảng viên-nghiên cứu viên của trường đại học vào 
công tác nghiên cứu. Các công tác nghiên cứu, đào tạo tại các trường đại học và tổ 
chức R&D sẽ ngày càng được gắn bó chặt chẽ với nhau hơn, bổ trợ cho nhau một 
Hội nghị quốc tế về thư viện – TP. HCM 28-30/8/2006 
Thư viện Việt Nam hội nhập và phát triển 88 
cách toàn diện hơn. Điều đó cũng đã được xác định như một định hướng chiến 
lược nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường đại học, tạo sự gắn bó giữa 
các nhiệm vụ thực tiễn của khoa học với nội dung đào tạo. Vì thế, sự liên kết giữa 
các cơ quan thông tin thư viện đại học và tổ chức R&D cũng cần phải mang tính 
lâu dài. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với một thực tế là, mỗi cơ quan thông 
tin thư viện, do chức năng mà mình đảm nhận sẽ quan tâm đến một/một số loại 
nguồn thông tin nhất định (chứ không phải và không thể là mọi nguồn thông tin). 
Sự liên kết giữa các cơ quan khác nhau sẽ giúp chúng có khả năng lấp đầy – bao 
quát được tất cả mọi loại nguồn tin mà người dùng tin cần đến. Mặt khác, một hệ 
thống trao đổi thông tin – mà thực chất sự liên kết giữa các cơ quan thông tin thư 
viện - sẽ góp phần vào việc liên kết giữa trường đại học với các tổ chức R&D một 
cách ổn định và toàn diện hơn, việc điều khiển sự liên kết đó được thực hiện trên 
một nền tảng vững chắc hơn. 
Một số giải pháp duy trì và thúc đẩy quá trình liên kết 
Để chuẩn bị cho quá trình hợp tác. liên kết, hoạt động TTTV ở mỗi trường 
đại học hoặc tổ chức R&D cần phải hướng đến việc tạo khả năng tương hợp lẫn 
nhau. Để làm được điều đó, cần chú trọng đến các yêu cầu sau: 
- Hệ thống SP, DV được tạo ra cần được thể hiện và bao gói dưới dạng có 
thể trao đổi được một cách dễ dàng, thuận tiện; được tạo lập và triển khai theo các 
quy trình và tiêu chuẩn thống nhất. Nhờ thế, khả năng tận dụng và chia sẻ nguồn 
lực mới được triển khai một cách căn bản. Trong tương lai gần, các cơ quan này 
phải cùng tham gia vào việc tạo lập một /một hệ thống sản phẩm phục vụ người 
dùng, bởi xét đến cùng, sự liên kết đó là nhằm hướng đến người dùng tin, vì quyền 
lợi của người dùng tin: Người dùng tin phải là người được thụ hưởng kết quả cơ 
bản của quá trình liên kết. 
- Phạm vi bao quát nguồn tin của mỗi cơ quan thông tin thư viện, một mặt 
cần phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình, mặt khác cần tính tới khả năng 
phối hợp các ưu thế của nhau, để các cơ quan này có độ bao quát nguồn tin ở mức 
rộng nhất và hợp lý nhất. Và điều này cần được triển khai một cách có hệ thống, 
lâu dài, trên một cơ sở thực tiễn đầy đủ. 
 Từ đó, có thể thấy để duy trì và phát triển sự liên kết giữa các thư viện 
nghiên cứu và đại học, cần phải quan tâm đến việc giải quyết những vấn đề có ý 
nghĩa then chốt sau: 
- Nghiên cứu, xây dựng và thực thi một hệ thống chính sách đồng bộ, 
nhằm tạo môi trường pháp lí cho việc chia sẻ quyền lợi và nghĩa vụ của 
tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình liên kết. 
- Nghiên cứu và xây dựng mô hình tổ chức và mô hình hoạt động của mỗi 
thành viên trên cơ sở cơ chế liên kết giữa các cơ quan một cách hợp lý. 
Xác lập các phân hệ, các hệ thống mà mỗi tổ chức thành viên đang và sẽ 
Hội nghị quốc tế về thư viện – TP. HCM 28-30/8/2006 
Thư viện Việt Nam hội nhập và phát triển 89 
tham gia. Từ đó đề xuất các nguyên tắc chung mà các thành viên cần 
tuân thủ. 
- Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp về công nghệ và chính sách pháp lý 
cho quá trình truyền, trao đổi và sử dụng thông tin. 
- Nghiên cứu, xây dựng và tổ chức triển khai các chương trình hành động 
nhằm nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin trong các quá trình 
nghiên cứu, đào tạo nói riêng và phục vụ phát triển kinh tế-xã hội nói 
chung. 
3. Kết luận. Liên kết giữa các thư viện nghiên cứu và các trường đại học cần được 
khẳng định là một xu thế tất yếu, một giải pháp có ý nghĩa lâu dài. Các hình thức, 
quy chế vận hành và thực thi sự liên kết có thể thay đổi, do bị chi phối bởi nhiều 
yếu tố khác nhau. Tuy nhiên mục đích của sự liên kết thì tương đối ổn định: Nâng 
cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các thành viên trong việc góp phần đáp 
ứng nhu cầu thông tin của xã hội, góp phần xây dựng một xã hội học thức, một xã 
hội được phát triển trên cơ sở nền kinh tế dựa trên thông tin và tri thức. Liên kết 
giữa các thư viện nghiên cứu và các trường đại học là nhằm để cho các cán bộ 
nghiên cứu, các giảng viên và sinh viên nhận được sự hỗ trợ và phục vụ ở mức cao 
nhất, và cũng là nhằm để cho hệ thống các thư viện này đáp ứng được những đòi 
hỏi của quá trình đổi mới hệ thống nghiên cứu và đào tạo đang diễn ra những bước 
phát triển đột biến và hứa hẹn một tương lai tươi sáng với nhiều thành tựu mới. 
Tài liệu tham khảo chính 
1. Viện Nghiên cứu Hán Nôm 30 năm xây dựng và phát triển 1970 – 2000. – H.: 
Viện Nghiên cứu Hán Nôm, 2000 
2. Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức và mô hình hoạt động của các Trung tâm 
thông tin thư viện đại học: Đề tài nghiên cứu cấp Bộ./ Chủ nhiệm: ThS. Nguyễn 
Huy Chương.- H.: VNU. 2005. 146 tr. 
3. Research Information Infrastructure Framework for Australian Higher 
Education The Final Report of the Higher Education Information Infrastructure 
Advisory Committee. http:// www.dcita.gov.au 
4. Qiang Zhu. Hệ thống Thông tin thư viện đại học ở Trung Quốc. Hiện trạng và 
xu thế phát triển: Tư liệu dịch chưa xuất bản./ Thu Minh d. 
5. Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động thông tin thư viện đại học./ Nguyễn Huy 
Chương, Trần Mạnh, Mai Hà // Thông tin & Tư liệu. 2004. số 3. 

File đính kèm:

  • pdflien_ket_giua_cac_co_quan_thong_tin_thu_vien_cua_cac_truong.pdf