Lựa chọn phần mềm kế toán trong doanh nghiệp: Mối quan hệ giữa kỹ thuật lựa chọn và kết quả lựa chọn phần mềm
Tóm tắt Lựa chọn phần mềm kế toán trong doanh nghiệp: Mối quan hệ giữa kỹ thuật lựa chọn và kết quả lựa chọn phần mềm: ... vào chỉ số giá trị của phần mềm SMI (Software Solution Merit Index) để lựa chọn phần mềm. - Các công thức tính toán khá phức tạp, tuy nhiên có phần mềm hỗ trợ để xử lý. Như vậy, có nhiều kỹ thuật lựa chọn phần mềm với tên gọi khác nhau. Nghiên cứu này đã dựa vào nội dung cụ thể của từ...gia phỏng vấn gồm 1 giám đốc điều hành (Công ty Diginet Corporation cung cấp phần mềm LEMON3 - ERP), 1 chuyên gia phụ trách chăm sóc khách hàng và 1 chuyên gia quản lý tư vấn phần mềm (Fast Software Company cung cấp PMKT riêng lẻ và phần mềm ERP). Nghiên cứu định tính sử dụng dàn bài t...trung khám phá tác động của kỹ thuật lựa chọn PMKT đến kết quả lựa chọn PMKT thành công và kiểm tra mối quan hệ giữa quy mô, lĩnh vực hoạt động, loại PMKT, tri thức của đội dự án về kỹ thuật lựa chọn PMKT với kỹ thuật lựa chọn PMKT. Kết quả nghiên cứu cho thấy kỹ thuật lựa chọn PMKT kh...
phân tích phương sai một yếu tố (ANOVA một chiều) và kiểm định chi bình phương. Phân tích ANOVA một chiều được sử dụng nhằm kiểm định giả thuyết nghiên cứu H1 và H2. Kiểm định chi bình phương được sử dụng trong kiểm định các giả thuyết H3, H4, H5 và H6. Nghiên cứu định tính Nghiên cứu định tính được sử dụng để giúp hiểu cách thức cũng như tại sao con người cảm nhận như vậy do nó liên quan đến việc thu thập các thông tin chi tiết hơn (Joubish et al, 2011). Trong nghiên cứu này, công cụ phỏng vấn tay đôi được sử dụng và đối tượng phỏng vấn là những người có kinh nghiệm và kiến thức về kỹ TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q3 - 2016 Trang 11 thuật lựa chọn PMKT. Thư giới thiệu được gửi đến 5 chuyên gia, tuy nhiên kích thước mẫu là 3 bởi đến đối tượng phỏng vấn thứ 3 chúng tôi đã thu thập được đủ các thông tin cần thiết để giải thích kết quả nghiên cứu định lượng. Ba chuyên gia tham gia phỏng vấn gồm 1 giám đốc điều hành (Công ty Diginet Corporation cung cấp phần mềm LEMON3 - ERP), 1 chuyên gia phụ trách chăm sóc khách hàng và 1 chuyên gia quản lý tư vấn phần mềm (Fast Software Company cung cấp PMKT riêng lẻ và phần mềm ERP). Nghiên cứu định tính sử dụng dàn bài thảo luận tay đôi với các câu hỏi mở về chủ đề kỹ thuật lựa chọn PMKT. Dữ liệu phỏng vấn được thu thập thông qua việc ghi chú nội dung và ghi âm cuộc phỏng vấn. Mỗi cuộc phỏng vấn kéo dài từ 60 - 90 phút. Quy trình phân tích dữ liệu gồm 3 bước: (1) mỗi cuộc phỏng vấn được chuyển đổi từ đoạn ghi âm thành dạng văn bản sau đó được sắp xếp lại theo thứ tự các kết quả kiểm định giả thuyết nghiên cứu; (2) kết quả chuyển đổi này được đối chiếu lại với các nội dung đã được phỏng vấn viên (nhà nghiên cứu) ghi chú trong quá trình phỏng vấn và hoàn thiện kết quả phỏng vấn và (3) kết quả phỏng vấn sẽ được gắn kết với từng kết quả nghiên cứu định lượng để giải thích cho các kết quả nghiên cứu định lượng. 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Nghiên cứu này được thực hiện trong khoảng thời gian từ 20/01/2015 đến ngày 10/4/2015 với kích thước mẫu là 106. Kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy 62% doanh nghiệp có áp dụng ít nhất một kỹ thuật lựa chọn PMKT và 38% doanh nghiệp áp dụng đồng thời từ hai kỹ thuật lựa chọn PMKT trở lên. Bảng 2 liệt kê các kỹ thuật lựa chọn PMKT của các doanh nghiệp tham gia khảo sát. Mô hình loại trừ các khía cạnh được doanh nghiệp sử dụng nhiều nhất (tỷ lệ 42,5%). Tuy nhiên, không có doanh nghiệp nào áp dụng mô hình tổng trung bình theo trọng số để lựa chọn PMKT. Bảng 2. Thống kê mô tả kỹ thuật lựa chọn PMKT Biến Nội dung Số lƣợng Tỷ lệ M1 Mô hình loại trừ các khía cạnh 45 42.5% M2 Mô hình MAXIMAX 7 6.6% M3 Mô hình tổng trung bình theo trọng số 0 0.0% M4 Mô hình thuộc tính theo trọng số tuyến tính 9 8.5% M5 Kỹ thuật phân tích tính năng 25 23.6% M6 Mô hình nhiệm vụ tuyến tính 13 12.3% M7 Kỹ thuật AHP 19 17.9% M8 Mô hình cây tỷ lệ dựa trên trọng số 15 14.2% M9 Kỹ thuật khác 0 0.0% Bảng 3 trình bày tóm tắt các kết quả nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu chưa thể khẳng định số lượng lao động của doanh nghiệp, loại PMKT và tri thức của đội dự án lựa chọn PMKT là có tác động đến kỹ thuật lựa chọn PMKT hay không. Cụ thể: Kết quả kiểm định giả thuyết H3 (Đo lường theo số lượng lao động) cho thấy số lượng lao SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q3 - 2016 Trang 12 động không tác động đến kỹ thuật lựa chọn PMKT. Ngược lại, kết quả nghiên cứu định tính thiên về xu hướng có tồn tại mối quan hệ giữa số lượng lao động với kỹ thuật lựa chọn PMKT. Hai trong ba chuyên gia được phỏng vấn trong nghiên cứu định tính đồng ý rằng số lượng lao động có tác động đến kỹ thuật lựa chọn PMKT bởi: (i) trong bốn cách thức đo lường quy mô doanh nghiệp thì tại Việt Nam, đo lường quy mô qua số lượng lao động phản ánh đúng nhất quy mô thực sự của doanh nghiệp do các doanh nghiệp Việt Nam có mức độ công nghệ và tự động hóa chưa cao nên các doanh nghiệp sử dụng thâm dụng lao động thường là doanh nghiệp có quy mô lớn; (ii) đối với doanh nghiệp có quy mô lớn thì thường người quản lý có trình độ cao, có quy định rõ ràng với đội dự án so với doanh nghiệp có quy mô nhỏ nên thông thường nhóm doanh nghiệp này sẽ áp dụng một kỹ thuật lựa chọn PMKT phức tạp hơn; và (iii) các doanh nghiệp có quy mô lớn yêu cầu tất cả các hoạt động và quyết định kinh doanh đều phải được kiểm soát chặt chẽ hơn và lựa chọn PMKT nào cũng là một quyết định kinh doanh. Vì vậy, để thực hiện quyết định này cần phải có một kỹ thuật lựa chọn PMKT phù hợp và được thẩm định kỹ hơn để đảm bảo rằng doanh nghiệp có thể lựa chọn được PMKT đúng. Kết quả kiểm định giả thuyết H5 cho thấy loại PMKT không tác động đến kỹ thuật lựa chọn PMKT. Tuy nhiên, các chuyên gia được phỏng vấn lại khẳng định rằng các doanh nghiệp ứng dụng phần mềm ERP có xu hướng sử dụng kỹ thuật lựa chọn phần mềm phức tạp hơn các doanh nghiệp ứng dụng PMKT riêng lẻ. Họ giải thích rằng (i) các doanh nghiệp có xu hướng sử dụng PMKT riêng lẻ khi ban lãnh đạo doanh nghiệp bị chia rẽ, mỗi người phụ trách một chức năng riêng biệt và họ có xu hướng sử dụng các phân mềm riêng biệt cho từng chức năng để tạo ra những “ốc đảo thông tin”. Ngược lại những doanh nghiệp được quản lý thống nhất bởi một số ít thành viên lại có xu hướng sử dụng các phần mềm tích hợp nhằm mang lại tính minh bạch giữa các khu vực chức năng và ERP là giải pháp mà họ lựa chọn; (ii) và do đặc điểm của PMKT riêng lẻ là chỉ liên quan đến bộ phận và hoạt động kế toán nên người quyết định lựa chọn phần mềm thường là kế toán trưởng hay giám đốc tài chính và họ thường không cần áp dụng một kỹ thuật lựa chọn PMKT cụ thể. Ngược lại, phần mềm ERP đòi hỏi tìm hiểu kỹ nhu cầu và mối quan hệ giữa các bộ phận chức năng, phòng ban, yêu cầu luân chuyển thông tin giữa những bộ phận này, vì vậy nó đòi hỏi một kỹ thuật lựa chọn phần mềm cẩn thận hơn. Kết quả kiểm định giả thuyết H6 cũng cho thấy không có mối quan hệ giữa tri thức của đội dự án với kỹ thuật lựa chọn PMKT. Nhưng, kết quả nghiên cứu định tính lại cho thấy rằng chúng có quan hệ với nhau bởi các lý do sau: (i) khi các thành viên trong đội dự án là những đối tượng có kinh nghiệm trong vấn đề lựa chọn PMKT thì họ dễ dàng xác định nhu cầu đặt ra đối với phần mềm và từ đó họ có xu hướng sử dụng một kỹ thuật lựa chọn PMKT thích hợp nhất; và (ii) phương pháp lựa chọn PMKT được doanh nghiệp sử dụng chủ yếu bị quyết định bởi người chịu trách nhiệm chính (trưởng dự án) trong đội dự án. TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q3 - 2016 Trang 13 Bảng 3. Kết quả nghiên cứu về kỹ thuật lựa chọn PMKT Kiểm tra mối quan hệ giữa: Kết quả nghiên cứu định lƣợng Kết quả nghiên cứu định tính Kết luận Kỹ thuật lựa chọn PMKT và mức độ PMKT đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp H1: sig = 0,769 Bác bỏ Có tồn tại mối quan hệ nhưng rất yếu Kết quả đáng tin cậy: không tồn tại mối quan hệ Kỹ thuật lựa chọn PMKT và sự thỏa mãn của người sử dụng H2: sig = 0,945 Bác bỏ Không tồn tại mối quan hệ Kết quả đáng tin cậy: không tồn tại mối quan hệ Số lao động trung bình và kỹ thuật lựa chọn PMKT H3: sig = 1 Bác bỏ Có tồn tại mối quan hệ Không rõ kết quả do có sự mâu thuẫn giữa nghiên cứu định lượng và định tính Nguồn vốn chủ sở hữu và kỹ thuật lựa chọn PMKT H3: sig = 0,748 Bác bỏ Không tồn tại mối quan hệ Kết quả đáng tin cậy: không tồn tại mối quan hệ Giá trị tài sản và kỹ thuật lựa chọn PMKT H3: sig = 1 50% số ô trong bảng chéo < 5 quan sát Không thể kết luận Không tồn tại mối quan hệ Không thể kết luận do kiểm định chi bình phương không đáng tin cậy Doanh thu trung bình/ năm và kỹ thuật lựa chọn PMKT H3: sig = 0,052 Bác bỏ Không tồn tại mối quan hệ Kết quả đáng tin cậy: không tồn tại mối quan hệ Lĩnh vực hoạt động và kỹ thuật lựa chọn PMKT H4: Bác bỏ Không tồn tại mối quan hệ Kết quả đáng tin cậy: không tồn tại mối quan hệ Loại PMKT và kỹ thuật lựa chọn PMKT H5: sig = 0,446 Bác bỏ Có tồn tại mối quan hệ Không rõ kết quả do có sự mâu thuẫn giữa nghiên cứu định lượng và định tính Tri thức của đội dự án và kỹ thuật lựa chọn PMKT H6: sig = 0,576 Bác bỏ Có tồn tại mối quan hệ Không rõ kết quả do có sự mâu thuẫn giữa nghiên cứu định lượng và định tính 5. KẾT LUẬN Nghiên cứu đã tập trung khám phá tác động của kỹ thuật lựa chọn PMKT đến kết quả lựa chọn PMKT thành công và kiểm tra mối quan hệ giữa quy mô, lĩnh vực hoạt động, loại PMKT, tri thức của đội dự án về kỹ thuật lựa chọn PMKT với kỹ thuật lựa chọn PMKT. Kết quả nghiên cứu cho thấy kỹ thuật lựa chọn PMKT không tác động đến kết quả lựa chọn PMKT thành công. Đây là một kết quả trái ngược với các nghiên cứu đi trước (theo bài tổng hợp của Jadhav and Sonar (2009) đó là kỹ thuật lựa chọn phần mềm có tác động đến kết quả lựa chọn phần mềm) chứng tỏ rằng hiệu quả của việc áp dụng các kỹ thuật lựa chọn PMKT trong doanh nghiệp Việt Nam là chưa cao. Vậy, nguyên nhân SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q3 - 2016 Trang 14 của vấn đề trên xuất phát từ đâu? Theo kết quả nghiên cứu định tính, một số nguyên nhân gồm: - Kỹ thuật lựa chọn PMKT không tác động đến mức độ PMKT đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp bởi: (i) số lượng các doanh nghiệp Việt Nam có hiểu biết và áp dụng các kỹ thuật lựa chọn PMKT còn khá ít. Thông thường chỉ các doanh nghiệp có mời chuyên tư vấn trong quá trình lựa chọn PMKT thì mới áp dụng kỹ thuật lựa chọn PMKT; (ii) Tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng kỹ thuật lựa chọn PMKT không nhiều và nếu có áp dụng thì các kỹ thuật lựa chọn này rất đơn giản, chủ yếu tập trung ở hai phương pháp đó là xem xét ngang bằng các tiêu chí và đánh giá theo trọng số; (iii) Một số doanh nghiệp mặc dù đã áp dụngkỹ thuật lựa chọn PMKT nhưng vẫn không lựa chọn được phần mềm đáp ứng yêu cầu bởi quyết định lựa chọn phần mềm bị chi phối bởi các yếu tố khác như sự quen biết, cả nể, lý do tế nhị khác, - Kỹ thuật lựa chọn PMKT không tác động mạnh đến sự thỏa mãn của người sử dụng PMKT bởi các lý do: (i) Khái niệm thỏa mãn đối với mỗi người sử dụng PMKT là khác nhau và do đó, rất khó để nói một PMKT này là thỏa mãn hơn PMKT kia; (ii) Người sử dụng PMKT có thể chia thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất là những power - user tức những nhà quản trị và nhóm thứ hai là những end - user, thường là các nhân viên. Trong một số trường hợp, sự thỏa mãn đối với PMKT của hai nhóm này là khác nhau do mục tiêu sử dụng phần mềm là khác nhau; và (iii) Đối tượng chính chịu trách nhiệm lựa chọn PMKT trong doanh nghiệp là đối tượng nào thì sẽ ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người sử dụng tương ứng với đối tượng đó. Cụ thể, nếu người chịu trách nhiệm chính trong quá trình lựa chọn PMKT là một người phụ trách kế toán thì họ có xu hướng lựa chọn PMKT thỏa mãn người sử dụng là các kế toán viên hơn là trong trường hợp người chịu trách nhiệm lựa chọn phần mềm là một chuyên viên CNTT hay nhà quản trị. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy nhìn chung quy mô doanh nghiệp (tính theo nguồn vốn chủ sở hữu và doanh thu trung bình/ năm) và lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp không ảnh hưởng đến kỹ thuật lựa chọn PMKT. 6. HẠN CHẾ VÀ HƢỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO Nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu một vấn đề khá mới tại Việt Nam đó là sử dụng các kỹ thuật lựa chọn PMKT trong doanh nghiệp. Mặc dù đây là vấn đề không mới đối với các thị trường phát triển nhưng tại Việt Nam - một thị trường đang chuyển đổi thì nó lại khá mới. Chính do sự xa lạ trong các khái niệm nghiên cứu với thực tế khiến cho nghiên cứu này có một số hạn chế nhất định. - Do không thể tiếp cận được đối tượng trực tiếp chịu trách nhiệm lựa chọn PMKT trong các doanh nghiệp nên nghiên cứu này đã lựa chọn đối tượng là các cá nhân đang làm việc tại các doanh nghiệp có sử dụng PMKT và có biết thông tin về giai đoạn lựa chọn phần mềm đã diễn ra. - Nghiên cứu được thực hiện tại thời điểm năm 2015 nhưng doanh nghiệp tham gia khảo sát đã sử dụng PMKT từ 1 đến 20 năm. Điều này có nghĩa là thời điểm khảo sát và thời điểm thực hiện lựa chọn PMKT là khá xa nhau và do đó kết quả nghiên cứu có thể không ổn định. - Nghiên cứu đã định nghĩa PMKT gồm hai loại đó là PMKT riêng lẻ và phần mềm ERP và đã thực hiện nghiên cứu bằng cách gộp chung hai nhóm doanh nghiệp sử dụng hai loại phần mềm này. Tuy nhiên, sau quá trình nghiên cứu chúng tôi phát hiện rằng các vấn đề về lựa chọn PMKT là khá khác biệt giữa TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q3 - 2016 Trang 15 hai nhóm phần mềm này. Vì vậy chúng tôi đề xuất nên thực hiện nghiên cứu lặp lại nhưng tách biệt hai nhóm PMKT trên và sau đó so sánh kết quả giữa chúng để xem xét liệu rằng có sự khác biệt đáng kể về các kỹ thuật lựa chọn PMKT giữa chúng hay không. Song song với nghiên cứu này, chúng tôi cũng đã thực hiện nghiên cứu với phương pháp lựa chọn PMKT. Kết quả cho thấy tại thị trường chuyển đổi Việt Nam, phương pháp và kỹ thuật lựa chọn PMKT không tác động trực tiếp tới kết quả lựa chọn PMKT. Tuy nhiên, thực tế cho thấy phương pháp và kỹ thuật lựa chọn PMKT có ảnh hưởng tới kết quả lựa chọn PMKT và do đó chúng tôi đặt giả thiết chúng sẽ có tác động thông qua việc điều chỉnh mối quan hệ giữa tiêu chí lựa chọn PMKT và kết quả lựa chọn PMKT. Chính vì vậy chúng tôi cho rằng cần thực hiện một nghiên cứu về mối quan hệ giữa 4 khái niệm: tiêu chí, phương pháp, kỹ thuật lựa chọn PMKT và kết quả lựa chọn PMKT với mô hình giả thiết nghiên cứu có thể như sau: Tiêu chí lựa chọn phần mềm Đáp ứng yêu cầu doanh nghiệp Sự thỏa mãn của người sử dụng Phương pháp lựa chọn phần mềm Kỹ thuật lựa chọn phần mềm Để kết quả kiểm định mô hình giả thiết dự định trên tin cậy, nghiên cứu cần thực hiện với đối tượng khảo sát là những người trực tiếp tham gia vào đội dự án với các doanh nghiệp áp dụng PMKT trong vòng 5 năm. SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q3 - 2016 Trang 16 Accounting software selection: The relationship between selection technique and outcome Nguyen Bich Lien Pham Tra Lam University of Economics HCMC - Email: ngblien97@yahoo.com ABSTRACT The demand for accounting software keeps increasing over the time. However, choosing suitable and satisfactory accounting software that meets requirements of the company is by no means easy. Four factors that companies take into consideration in choosing accounting software are criteria, method, technique, and software features (e.g. support tools). This paper focused on testing the relationship between accounting software selection technique and its outcome as well as the company characteristics. A variety of methodologies were carried out, i.e. ANOVA and chi squared test for quantitative study and face-to-face interview for qualitative study, in which the latter was conducted after the former to confirm and explain the former. Results showed that in Vietnam as a transition market, the accounting software selection technique does not directly affect the successful choice of accounting software, i.e. suitable and satisfactory software. Size and line of business at large have no impact on the accounting software selection technique that the company is adopting. Keywords: Accounting software, meet requirements, user satisfaction, selection technique, Vietnam. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Adhikari, A., M.I., Lebow, H., Zhang, Firm characteristics and selection of international accounting software. Journal of International Accounting, Auditing & Taxation, 13: 53-69 (2004). [2]. Ajzen, I., The Theory of Planned Behavior. Organization Behavior and Human Decision Processes, 50: 179-211 (1991). [3]. Bandor, S.B., Quantitative Methods for Software Selection and Evaluation. Technical Note CMU/SEI-2006-TN-026 (2006). [4]. Christine, C. D., Examining the Purchased Software Selection Decision: The Role of Network Effects. A dissertation submitted in partial fulfillment of the requirements for the degree of Doctor of Philosophy, University of Arkansas, US (2007). [5]. Courtney, J., Decision making and knowledge management in inquiring organizations: toward a new decision- TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q3 - 2016 Trang 17 making paradigm for DSS. Decision Support Systems, 31: 17-38 (2001). [6]. Davis, F.D, Perceived usefulness, perceived ease of use, and user caaceptance of information technology. MIS Quart, 13(3): 319-339 (1989). [7]. Davis, L. & Williams, G., Evaluating and Selecting Simulation Software Using the Analytic Hierarchy Process. Integrated Manufacturing Systems, 5(1): 23 - 32 (1994). [8]. DeLone, W.H., McLean, E.R., Information system success: the quest for the dependent variable. Information Systems Research, 3(1):60-95 (1992). [9]. DeLone W.H., and McLean, E.R., The DeLone and McLean Model of Information Systems Success: A ten- Year update. Journal of Management Information Systems, 19(4): 9-30 (2003). [10]. De Long, D., and Fahey, L., Diagnosing cultural barriers to knowledge management. Academy of Management Executive, 14(4): 113-127 (2000). [11]. Elikai, F., Ivancevich, D.M., Ivancevich, S.H., Accounting Software Selection and User Satisfaction. The CPA Journal, 77 (5): 26 - 31 (2007). [12]. Hair, J. F., Anderson, R. E. & Tatham, R. L. Multivariate Data Analysis with readings, New York Macmillan Publishing Company (1990). [13]. Jadhav, A.S. and Sonar, R.M, Evaluating and seclecting software packages: A review. Information and Software Technology, 51: 555 - 563 (2009). [14]. Joubish, M.F., Khurram, M.A., Ahmed, A., Fatima, S.T., Haider, K., Paradigms and Characteristics of a Good Qualitative Research. World Applied Sciences Journal, 12(11): 2082 - 2087 (2011). [15]. Maccallum, R. C., Widaman, K. F., Zhang, S. & Hong, S. Sample Size in Factor Analysis. Psychological Methods, Vol 4. No.1, 84-99 (1999). [16]. Maziyar, G., Vahid, S., Mohammad, A., Elham, B., The impact of Information Technology (IT) on modern accounting systems. Procedia - Social and Behavioral Sciences, 28 (2011). [17]. Nghị định 56/2009/NĐ-CP ban hành ngày 30/6/2009. Nghị định về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. [18]. Nguyễn Đình Thọ, Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh. Xuất bản lần thứ 2, NXB Lao động xã hội (2013). [19]. Nikolaos, P., Sotiris, G., Harris, D., Nikolaos, V., An Application of Multicriteria Analysis for ERP Software Selection in a Greek Industrial Company. An Intemational Journal, 5(3): 435 - 458 (2005). [20]. Petter, S., DeLone, W. and McLean, E.R., Information Systems Success: The Quest for the Independent Variables. Journal of Management Information Systems, 29(4): 7-61 (2013). [21]. Theresa, H. and Linda, W., Software Acquisition & Supplier Management: Part 1 - Product Definition & Supplier Selection. Quality Congress. ASQ's ... Annual Quality Congress Proceedings, 57: 359 - 372 (2003). [22]. Tsang, E., Acquiring knowledge by foreign partners from international joint ventures in a transaction economy: learning-by-doing and learning myopia. Strategic Management Journal, 23(9): 835-854 (2002). [23]. Sabherwal, R., Jeyaraj, A., Chowa, C., Information Sysytem Success: Individual and Organizational Determinants. Management Science, 52(12): 1849- 1864 (2006). [24]. Sahay, B.S., & Gupta, A.K., Development of software selection criteria for supply chain solutions. Industrial Management & Data Systems, 103(2): 97 - 110 (2003).
File đính kèm:
- lua_chon_phan_mem_ke_toan_trong_doanh_nghiep_moi_quan_he_giu.pdf