Mô hình phát triển xã hội Liên Xô: Đặc điểm và bài học kinh nghiệm

Tóm tắt Mô hình phát triển xã hội Liên Xô: Đặc điểm và bài học kinh nghiệm: ...i nhiều kẻ thù lớn là nền chuyên chế tàn bạo Sa hoàng, chủ nghĩa vô chính phủ và chủ nghĩa dân tuý. Vấn đề quan trọng sau khi lật đổ chế độ cũ là phải xây dựng một chính quyền cách mạng, thu hút sự tham gia của đông đảo quần chúng vào việc quản lý đất nước và xã hội (như V.I.Lênin chủ ...2) Những người thực hiện, chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng như cái máy (chiếm khoảng hơn 96%); 3) Những kẻ cơ hội, xu thời, nịnh bợ (phần lớn trong bộ máy công quyền); 4) Những người im lặng (phần lớn họ là những người có hiểu biết)(1). N.I.Rưscôp, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, ... nhân vật thứ nhất và nhân vật thứ hai trong Bộ Chính trị; đó là Goócbachốp và Ligachốp. Phái cấp tiến cho rằng, không phá bỏ bộ máy tổ chức cũ thì không thực hiện được công cuộc cải tổ. Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, Goócbachốp phát động chiến dịch tố cáo (gọi là công ...

pdf10 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 326 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Mô hình phát triển xã hội Liên Xô: Đặc điểm và bài học kinh nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cách mạng Tháng Mười, 
Liên Xô đã thanh toán xong nạn mù chữ 
cho toàn thể dân cư và thực hiện chế độ 
giáo dục trung học bắt buộc 7 năm miễn 
phí. Các nhà khoa học Xô - viết có 
nhiều phát minh, sáng chế trong các lĩnh 
vực toán học, vật lý hạt nhân, vật lý chất 
Mô hình phát triển xã hội Liên Xô... 
 5
rắn, cơ học lượng tử, phản ứng nhiệt 
hạch, kiểm soát và chinh phục vũ trụ. 
Hệ thống y tế, chăm sóc sức khoẻ cho 
nhân dân ở Liên Xô phát triển rộng rãi. 
Tất cả mọi người dân được khám chữa 
bệnh, chăm sóc sức khoẻ không mất 
tiền. Các dịch bệnh được xoá bỏ, số 
lượng bác sĩ và giường bệnh nhiều hơn 
hẳn các nước tư bản phát triển. Đảng và 
Nhà nước Liên Xô đặc biệt chú ý đến 
công tác giáo dục, chăm sóc trẻ em, 
người già và phụ nữ. Hệ thống nhà trẻ, 
mẫu giáo, trại hè, nhà nghỉ, nhà dưỡng 
lão phát triển rộng khắp trên cả nước. 
Phụ nữ có quyền làm việc bình đẳng và 
nhận lương ngang với nam giới, được 
hưởng trợ cấp thai sản. Tuổi về hưu của 
phụ nữ sớm hơn so với nam giới và sớm 
hơn khoảng 10 năm so với phụ nữ ở các 
nước tư bản phát triển. 
Mô hình phát triển xã hội Liên Xô có 
nhiều ưu điểm; là mục tiêu hướng tới 
của nhiều quốc gia; tạo ra sự thay đổi 
căn bản trong tương quan lực lượng theo 
hướng có lợi cho các lực lượng cách 
mạng tiến bộ chống đế quốc, phong kiến 
trên toàn thế giới; thúc đẩy sự phát triển 
mạnh mẽ của phong trào cộng sản và 
công nhân quốc tế, phong trào giải 
phóng dân tộc, phong trào dân chủ và 
hoà bình; đẩy nhanh sự tiến bộ của nhân 
loại. Tuy nhiên, từ thập kỷ 70 thế kỷ 
XX, mô hình này bộc lộ nhiều hạn chế. 
Do chậm được phát hiện và khắc phục 
nên mô hình đó bị đổ vỡ. 
Trước cải tổ, sai lầm lớn nhất của 
Đảng Cộng sản Liên Xô là đã xác lập 
mô hình phát triển xã hội không phù 
hợp. Nếu chủ nghĩa xã hội không bị 
khủng hoảng, suy yếu và tan rã từ bên 
trong bởi những sai lầm, khuyết tật của 
chính mình, không bị biến dạng nghiêm 
trọng, được dân tín nhiệm và ủng hộ, thì 
mọi âm mưu phá hoại của chủ nghĩa đế 
quốc cũng thất bại. Trên thực tế, từ sau 
Cách mạng Tháng Mười cho đến khi bắt 
đầu cải tổ (năm 1985), Đảng Cộng sản 
Liên Xô đã xây dựng và thực thi ba mô 
hình phát triển xã hội: mô hình chủ 
nghĩa cộng sản thời chiến (trong giai 
đoạn 1918 - 1921); mô hình chính sách 
kinh tế mới (NEP) (trong giai đoạn 1921 - 
1929); mô hình chủ nghĩa xã hội nhà 
nước (trong giai đoạn 1929 - 1985). Dù 
hình thức thể hiện có khác nhau, nhưng 
về cơ bản các mô hình nêu trên vẫn có 
các điểm chung như sau: 
Thứ nhất, xác lập chế độ tập trung 
quyền lực cao độ. Bên cạnh những vấn 
đề có tính quy luật, Liên Xô xây dựng 
chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phải 
đối mặt với nhiều kẻ thù lớn là nền 
chuyên chế tàn bạo Sa hoàng, chủ nghĩa 
vô chính phủ và chủ nghĩa dân tuý. Vấn 
đề quan trọng sau khi lật đổ chế độ cũ là 
phải xây dựng một chính quyền cách 
mạng, thu hút sự tham gia của đông đảo 
quần chúng vào việc quản lý đất nước 
và xã hội (như V.I.Lênin chủ trương), 
thực thi dân chủ nhằm tiếp tục giải 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(88) - 2015 
 6
phóng xã hội, giải phóng con người. Thế 
nhưng, sau khi V.I.Lênin qua đời (năm 
1924), những người lãnh đạo Đảng, Nhà 
nước Liên Xô lại thiết lập một chế độ 
chuyên quyền cá nhân cực đoan, nhấn 
mạnh một chiều chuyên chính, bạo lực, 
cưỡng chế. Quá trình xây dựng xã hội 
đã không coi việc đoàn kết, hoà hợp các 
lực lượng nhân dân, xây dựng chế độ 
nhà nước do nhân dân làm chủ và tự 
quản là mục đích và động lực của cách 
mạng. Những quyền dân chủ cơ bản của 
công dân tuy được pháp luật thừa nhận, 
nhưng không được thực hiện đầy đủ trên 
thực tế. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán 
bộ lãnh đạo, trở thành tầng lớp đặc 
quyền đặc lợi, xa rời quần chúng. Một 
chế độ xã hội tập trung quyền lực cao độ 
rất xa lạ với mục tiêu và lý tưởng của 
học thuyết giải phóng xã hội do C.Mác 
và Ph.Ăngghen sáng lập. 
Thứ hai, xây dựng thể chế kinh tế kế 
hoạch tập trung, quan liêu bao cấp cao 
độ. Sau khi xác lập chế độ tập trung 
quyền lực cao độ vào tay mình, bãi bỏ 
chính sách kinh tế mới do V.I.Lênin đề 
xướng, Ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước 
Liên Xô (do Xtalin đứng đầu) chuyển 
trọng tâm hoạt động vào việc thiết lập 
chế độ công hữu toàn bộ nền kinh tế; 
tiến hành tập thể hoá nông nghiệp và thủ 
công nghiệp; xoá bỏ thương nghiệp; 
thực hiện chính sách phân phối theo 
khẩu phần bình quân trong toàn xã hội 
đi đôi với đẩy mạnh công nghiệp hoá. 
Tại Đại hội lần thứ XVIII (năm 1938), 
Liên Xô tuyên bố, chế độ xã hội chủ 
nghĩa đã được thiết lập hoàn chỉnh trong 
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Các thành 
phần kinh tế gọi là “phi xã hội chủ 
nghĩa” đều bị cưỡng chế xoá bỏ. Công 
hữu hoá một nền sản xuất nhỏ phân tán, 
còn không ít yếu tố tự nhiên là trái với 
quy luật phát triển khách quan. Sai lầm 
khác là nhà nước hoá, hành chính hoá 
toàn bộ hoạt động sản xuất và phân 
phối. Hệ quả là hình thành một nền kinh 
tế hiện vật, không có động lực, kém hiệu 
quả, lãng phí và thiếu hụt. Suốt mấy 
chục năm, nền kinh tế Liên Xô hoạt 
động theo ý chí của các nhà lãnh đạo 
Đảng, Nhà nước, đã bỏ qua các quy luật 
khách quan. 
Thứ ba, mắc nhiều sai lầm trong xây 
dựng hệ thống chính trị. Hệ thống chính 
trị Liên Xô là một chế độ tập trung cao 
độ, tách rời cơ sở dân chủ, bị biến dạng 
thành chế độ tập trung quan liêu và ngày 
càng trầm trọng. Đảng, Nhà nước xa rời 
cơ sở xã hội của mình là quần chúng 
nhân dân lao động. Đảng và Nhà nước 
Liên Xô trên thực tế đã áp dụng chế độ 
dân chủ thời chiến cho thời kỳ hoà bình. 
Do thiếu một cơ sở xã hội dân chủ rộng 
rãi, hoàn thiện, nên nền kinh tế không 
thể phát triển bền vững, không phát huy 
được tính tích cực sáng tạo của người 
lao động. 
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là “nhà 
nước nửa nhà nước”, nghĩa là tập trung 
Mô hình phát triển xã hội Liên Xô... 
 7
thực hiện chức năng chủ yếu là quản lý 
xã hội, tổ chức xây dựng. Vậy mà, Đảng 
Cộng sản đã cường điệu chuyên chính, 
có lúc đã lạm dụng bạo lực (nhất là thập 
kỷ 1930) vượt khuôn khổ của pháp chế 
xã hội chủ nghĩa, lấy bạo lực làm 
phương tiện để tăng cường sự chuyên 
quyền, độc đoán, dẫn đến những hậu 
quả rất tai hại. Nền dân chủ chỉ còn là 
hình thức, người dân thờ ơ với chính trị, 
không quan tâm đến sự lãnh đạo, quản 
lý của Đảng và Nhà nước. 
Thứ tư, mắc nhiều sai lầm trong xây 
dựng đảng cầm quyền. Đảng Cộng sản 
Liên Xô là đội tiên phong của giai cấp 
công nhân và nhân dân lao động, có 
nhiệm vụ lãnh đạo cuộc đấu tranh lật đổ 
chế độ áp bức bóc lột, xây dựng chế độ 
xã hội chủ nghĩa, mang lại tự do, hạnh 
phúc cho nhân dân. Đảng phải được tổ 
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập 
trung dân chủ. Dân chủ phải trở thành 
mục tiêu và sức mạnh của Đảng. Nhưng 
thực tế ở Liên Xô sau khi V.I.Lênin qua 
đời, dân chủ trong Đảng bị vi phạm 
nghiêm trọng. Những nguyên tắc sinh 
hoạt dân chủ, điều lệ Đảng bị chính 
những người lãnh đạo cao nhất của Đảng 
vi phạm. Tính tích cực tự giác chính trị 
của đảng viên bị giảm sút. Trước những 
sai lầm của giới lãnh đạo, đảng viên có 
thái độ tiêu cực: hoặc không tán thành 
nhưng họ không dám phát biểu ý kiến 
phản biện, hoặc tin tưởng chấp hành một 
cách mù quáng. Trong Đảng Cộng sản, tệ 
sùng bái cá nhân bị đẩy lên đến mức tột 
đỉnh, thậm chí mang tính tín ngưỡng tôn 
giáo (Tượng, chân dung Xtalin đặt khắp 
nơi ngay khi ông còn sống, Brêzênhep 
nhận rất nhiều huân chương, giải thưởng 
nhà nước...). 
Theo Ph.M.Rudinxki, có thể chia 20 
triệu đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô 
làm 4 loại: 1) Những đảng viên chân 
chính thường chiếm tỷ lệ nhỏ; 2) Những 
người thực hiện, chấp hành chỉ thị, nghị 
quyết của Đảng như cái máy (chiếm 
khoảng hơn 96%); 3) Những kẻ cơ hội, 
xu thời, nịnh bợ (phần lớn trong bộ máy 
công quyền); 4) Những người im lặng 
(phần lớn họ là những người có hiểu 
biết)(1). N.I.Rưscôp, nguyên Ủy viên Bộ 
Chính trị, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng 
Liên Xô (1985 - 1990) cho rằng, trong 
Đảng Cộng sản Liên Xô đã tồn tại hai 
đảng: một đảng của hàng chục triệu 
đảng viên bình thường và một đảng của 
những quan chức chóp bu trong hệ 
thống đảng, nhà nước Liên Xô(2). Do 
những bệnh tật kể trên, nên đại bộ phận 
quần chúng nhân dân giảm lòng tin đối 
với sự lãnh đạo của Đảng, thờ ơ đối với 
những vấn đề chính trị trọng đại của đất 
nước; thậm chí có một số người trông 
(1) Ph.M.Rudinxki (2001), Vụ án Đảng Cộng 
sản Liên Xô tại Tòa án Hiến pháp, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội, tr.53. 
(2) N.I.Ruscôp (1992), Cải tổ: Lịch sử của 
những vụ phản bội, Tổng cục II - Bộ Quốc 
phòng, Hà Nội, tr.33. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(88) - 2015 
 8
chờ, mong muốn có sự thay đổi. Đó là 
trạng thái trong Đảng và trong xã hội 
Liên Xô vào cuối những năm 80, đầu 
những năm 90 của thế kỷ XX, đêm 
trước của sự sụp đổ. 
Cơ chế tập trung quan liêu và những 
sai lầm trong xây dựng đảng đã làm cho 
Đảng Cộng sản Liên Xô bị suy giảm sức 
chiến đấu. Một bộ phận đảng viên khi 
đã có chức, có quyền trở thành những 
phần tử quan liêu, đặc quyền đặc lợi, xa 
rời quần chúng. Bộ phận này bao giờ 
cũng là số ít, nhưng do không được 
thanh lọc kịp thời nên làm quần chúng 
giảm sút niềm tin vào Đảng. Do những 
sai lầm, lệch lạc kéo dài và ngày càng 
nghiêm trọng đó, cho nên Đảng ngày 
càng suy yếu cả về chính trị, tư tưởng và 
tổ chức. Điều cơ bản và chủ yếu nhất là 
Đảng dần đánh mất mối liên hệ gắn bó 
máu thịt với nhân dân, mối liên hệ từng 
tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng 
trước đây. Đó là bài học lớn nhất có thể 
rút ra từ sự thất bại của mô hình phát 
triển xã hội Xô - viết. Những sai lầm đó 
chậm được phát hiện, thậm chí đến thời 
điểm khủng hoảng, Đảng vẫn không 
đánh giá đúng bản chất của sai lầm, 
nguyên nhân của khủng hoảng, vì vậy 
không xác lập được giải pháp đúng đắn 
để khắc phục. 
Thứ năm, mắc nhiều sai lầm trong 
hoạch định, thực thi chính sách dân tộc. 
Liên Xô có trên 100 dân tộc. Chế độ cũ 
để lại một di sản quá nặng nề (chế độ 
Nga hoàng khét tiếng là “nhà tù của các 
dân tộc”), những vấn đề dân tộc rất phức 
tạp mà chế độ mới phải giải quyết. 
Thành tựu của Đảng, Nhà nước Liên Xô 
trong việc giải quyết vấn đề dân tộc là 
rất lớn. Trong hàng chục năm các dân 
tộc đã sống hoà bình và hữu nghị, song 
Đảng cũng đã phạm những sai lầm khá 
nghiêm trọng, kể cả chính sách đối với 
các dân tộc anh em trong khối xã hội 
chủ nghĩa. Đó là quan niệm giáo điều, 
đơn giản hoá mối quan hệ giữa dân tộc 
và giai cấp; theo quan niệm đó, một khi 
xoá bỏ xong giai cấp bóc lột, tiêu diệt 
hết áp bức giai cấp thì đương nhiên vấn 
đề áp bức dân tộc, thành kiến dân tộc 
cũng được giải quyết, Đảng Cộng sản 
Liên Xô không nhận thức rõ tính độc lập 
tương đối của yếu tố dân tộc; có lúc vi 
phạm nghiêm trọng nguyên tắc dân tộc 
tự quyết; áp đặt những giá trị của dân 
tộc lớn cho dân tộc nhỏ; chưa có chính 
sách thoả đáng để kết hợp hài hoà lợi 
ích của các dân tộc; quá nhấn mạnh, 
thậm chí tuyệt đối hoá phương diện kinh 
tế, giai cấp, coi nhẹ những yếu tố khác 
như truyền thống, tình cảm dân tộc, 
ngôn ngữ, tính độc đáo về văn hoá. 
Đảng quá vội vã, chủ quan, thậm chí 
ngộ nhận khi tuyên bố về sự hình thành 
cộng đồng lịch sử mới - cộng đồng Xô - 
viết; không chú ý đến sự khác biệt dân 
tộc. Chính sách đồng hoá dân tộc và xoá 
bỏ tín ngưỡng tôn giáo, phân biệt đối xử 
giữa các nhóm dân cư trong cộng đồng 
Mô hình phát triển xã hội Liên Xô... 
 9
các dân tộc gây nên sự căng thẳng trong 
xã hội. 
Trong thời kỳ cải tổ (1985 - 1991), 
ban lãnh đạo mới do Goócbachốp đứng 
đầu đã thể hiện mong muốn thực hiện 
cuộc cải tổ toàn bộ cơ cấu tổ chức, cơ 
chế vận hành của bộ máy Đảng, Nhà 
nước và quản lý kinh tế với một tư duy 
mới. Nhưng cải tổ bắt đầu từ ý chí, 
nguyện vọng mà không xác định được 
đường lối, chiến lược, mục tiêu, bước đi 
cụ thể. Lúc đầu, các nhà lãnh đạo hướng 
vào việc thay đổi chính sách, cơ chế, thể 
chế kinh tế, giao quyền tự chủ tài chính, 
kinh doanh cho các đơn vị sản xuất, 
giảm bớt sự can thiệp của tổ chức đảng 
và các cơ quan nhà nước. Việc thay đổi 
lãnh đạo các cấp, các ngành được tiến 
hành hàng loạt ở Trung ương và các địa 
phương. Cuộc đấu tranh trong nội bộ 
ban lãnh đạo mới ngay từ đầu đã diễn ra 
gay gắt không chỉ về cách thức cải tổ, 
mà cả về quan điểm, đường lối cải tổ. 
Trong Đảng xuất hiện hai khuynh hướng 
khác nhau dẫn đến hình thành hai phái 
đối lập trong Ban Chấp hành Trung ương 
(thường được gọi là phái cấp tiến và phái 
bảo thủ). Đứng đầu hai phái là nhân vật 
thứ nhất và nhân vật thứ hai trong Bộ 
Chính trị; đó là Goócbachốp và Ligachốp. 
Phái cấp tiến cho rằng, không phá bỏ 
bộ máy tổ chức cũ thì không thực hiện 
được công cuộc cải tổ. Sử dụng các phương 
tiện thông tin đại chúng, Goócbachốp 
phát động chiến dịch tố cáo (gọi là công 
khai hoá) tập trung lên án những sai lầm 
trong lịch sử Liên Xô, phê phán bộ máy 
quan liêu của Đảng và Nhà nước. Chiến 
dịch này nhanh chóng biến thành một 
trào lưu lên án Đảng Cộng sản và chế độ 
xã hội chủ nghĩa. Những người bất mãn 
với chế độ, những gia đình có người bị 
chết oan dưới thời Xtalin tập hợp lại đòi 
phải thay đổi thể chế chính trị. Nhân cơ 
hội này, những mâu thuẫn âm ỉ từ lâu, 
nhất là những mâu thuẫn dân tộc, tôn 
giáo bùng phát, có nơi xảy ra bạo loạn, 
tranh chấp lãnh thổ. Bầu không khí 
chính trị trong Đảng và xã hội trở nên 
căng thẳng. Nhiều lực lượng mới, 
khuynh hướng mới hình thành và phối 
hợp với nhau thành một mặt trận chính 
trị chống chính quyền. Đảng Cộng sản 
trở thành đối tượng chủ yếu của cuộc 
tiến công. Toàn xã hội bị hút vào những 
cuộc tranh luận, phê phán triền miên 
nhưng thiếu định hướng. Đời sống kinh 
tế rối loạn và bị thả nổi. Công cuộc cải 
tổ lúc đầu vốn là tất yếu, sau đó dần dần 
mất phương hướng, không thể kiểm 
soát. Kết quả là xã hội hỗn loạn, kinh tế 
sa sút, đời sống nhân dân khó khăn, cơ 
cực. Người dân chán nản, mất lòng tin 
vào Đảng, Chính phủ (nhiều người quay 
sang tìm niềm tin ở tôn giáo). Nội bộ 
Đảng chia rẽ và phân hoá sâu sắc, bộ 
máy nhà nước gần như tê liệt. Cuộc 
khủng hoảng toàn diện, sâu sắc không 
được khắc phục kịp thời, đã đẩy nhanh 
quá trình tan rã Liên Xô. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(88) - 2015 
 10
3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ 
mô hình phát triển xã hội Liên Xô 
Thứ nhất, vận dụng sáng tạo những 
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - 
Lênin vào xây dựng mô hình phát triển 
xã hội. Nhận thức sai và vận dụng 
không đúng học thuyết Mác - Lênin 
(nhất là lý luận về chủ nghĩa xã hội, như 
học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, 
về đấu tranh giai cấp, về quy luật quan 
hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất 
và trình độ của lực lượng sản xuất, quy 
luật thượng tầng kiến trúc phải phù hợp 
với hạ tầng cơ sở, những vấn đề tính 
chất, đặc điểm, nội dung, quy luật của 
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...), 
dẫn đến việc đề ra đường lối, chiến lược 
và sách lược sai lầm trong thiết kế mô 
hình xã hội xã hội chủ nghĩa. Bài học rút 
ra là: phải căn cứ vào trình độ lực lượng 
sản xuất để thiết lập quan hệ sản xuất 
phù hợp, phải giải quyết hài hòa, đồng 
bộ mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế, 
phải xác định công cuộc xây dựng chủ 
nghĩa xã hội là một thời kỳ khó khăn, 
phức tạp, lâu dài, không thể nóng vội, 
không được đốt cháy giai đoạn để chạy 
theo thành tích. 
Thứ hai, thường xuyên nghiên cứu 
thực tiễn để điều chỉnh, đổi mới mô hình 
phát triển xã hội. Mô hình phát triển xã 
hội Liên Xô về cơ bản phù hợp với thời 
kỳ chiến tranh, trong bối cảnh bị các 
nước đế quốc bao vây, cấm vận, nhưng 
không phù hợp trong thời kỳ hòa bình. 
Sau những năm tháng phấn đấu gian 
khổ, hy sinh tất cả vì sự nghiệp độc lập 
dân tộc, người dân có quyền đòi hỏi 
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, 
được tự do phát huy khả năng sáng tạo 
cá nhân. Đó cũng là xu hướng phát triển 
chung của thời đại. Xây dựng trên cơ sở 
lý luận sai lầm, mô hình chủ nghĩa xã 
hội nhà nước mang tính chất “tả 
khuynh” cực đoan đã không phát huy 
đầy đủ được những tính ưu việt của chủ 
nghĩa xã hội. Bài học rút ra là: phải 
thường xuyên bám sát thực tiễn để đổi 
mới; phải lấy con người làm trung tâm; 
phải coi phục vụ con người, đáp ứng 
những nhu cầu ngày càng cao của người 
dân là mục tiêu của sự phát triển, của 
chế độ. Cuộc sống vận động, biến đổi 
không ngừng, một mô hình phát triển xã 
hội dù có ưu việt đến mấy thì cũng chỉ 
phù hợp trong một giai đoạn nhất định, 
không thể kéo dài quá lâu, đòi hỏi phải 
bổ sung, phát triển đáp ứng yêu cầu của 
tình hình mới. Đây cũng là nguyên tắc 
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. 
Thứ ba, chú trọng đặc biệt công tác 
xây dựng Đảng. Những sai lầm, khiếm 
khuyết trong công tác xây dựng Đảng là 
nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn 
đến tan rã chế độ xã hội chủ nghĩa. Sau 
khi V.I.Lênin mất, Đảng Cộng sản Liên 
Xô được xây dựng như một cấu trúc nhà 
nước, thâu tóm mọi quyền hành, sử 
dụng, định đoạt toàn bộ tài sản của đất 
nước, thực hiện chức năng của một nhà 
Mô hình phát triển xã hội Liên Xô... 
 11
nước, đặt mình trên nhà nước và xã hội, 
điều hành tất cả mọi công việc thuộc 
thẩm quyền của nhà nước. Do không 
chú trọng vào chức năng chính là lãnh 
đạo, định hướng, xây dựng chiến lược 
phát triển đất nước, do sa vào chỉ đạo, 
giải quyết những công việc sự vụ, tầm 
ngắn hạn, nặng về quản lý nên Đảng trở 
thành bộ máy hành chính thứ hai, đứng 
trên bộ máy nhà nước đang vận hành; 
điều đó dẫn đến sự chồng chéo, giảm 
hiệu quả lãnh đạo, quản lý. Cán bộ lãnh 
đạo Đảng ngày càng quan liêu, tha hoá, 
đánh mất vai trò tiên phong, không quan 
tâm đến lợi ích của giai cấp công nhân 
và nhân dân lao động, dần xa rời quần 
chúng và mất dần cơ sở giai cấp và cơ 
sở xã hội. Bài học rút ra là: phải tập 
trung xây dựng Đảng trong sạch, vững 
mạnh; không quan liêu, tham nhũng; 
cán bộ lãnh đạo cao cấp phải nêu gương 
về ý thức trách nhiệm với quốc gia - dân 
tộc, về đạo đức trước nhân dân không 
quan liêu, không tham nhũng. Đảng phải 
tập trung thực hiện chức năng nhiệm vụ 
chính của mình là xây dựng đường lối, 
định hướng phát triển đất nước, lãnh đạo 
Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản 
lý, tạo môi trường cho xã hội phát triển; 
phải phân định rõ chức năng lãnh đạo 
của Đảng với chức năng quản lý của 
Nhà nước, Đảng không làm thay Nhà 
nước; Đảng phải gắn bó mật thiết với 
nhân dân, nắm rõ nhu cầu của nhân dân, 
đại diện cho lợi ích của các tầng lớp 
nhân dân, đề ra đường lối giải quyết có 
hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt 
ra. Có như vậy, Đảng mới được nhân 
dân ủng hộ, bảo vệ khi Đảng gặp khó 
khăn. 
Như vậy, trong một thời gian dài, ở 
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa 
Đông Âu, mô hình Xô - viết đã từng phát 
huy vai trò tích cực, tạo nên sự ổn định 
xã hội thông qua những chính sách quan 
tâm đến mọi mặt đời sống con người. 
Tuy nhiên, càng về sau nó càng bộc lộ 
nhiều khuyết tật, thiếu dân chủ, kém hiệu 
quả. Chính điều đó đã kìm hãm, thậm chí 
làm triệt tiêu động lực của sự phát triển. 
Những nước áp dụng mô hình đó dần 
dần lâm vào tình trạng trì trệ, khủng 
hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Tuy 
nhiên, chúng ta cũng cần nghiên cứu để 
rút ra bài học cả từ thành công và thất 
bại, phục vụ cho việc xây dựng mô hình 
phát triển xã hội mới phù hợp với thời kỳ 
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. 
Tài liệu tham khảo 
1. Hoàng Chí Bảo, Đoàn Minh Huấn (Đồng 
chủ biên) (2012), Những vấn đề lý luận cơ bản 
về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội 
hiện nay, vận dụng cho Việt Nam, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
2. Lưu Văn An (2013), “Mô hình thể chế 
chính trị Liên Xô - đặc điểm, giá trị và hạn chế”, 
Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số 4. 
3. Lưu Văn An (2014), Lý thuyết và mô hình 
phát triển xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(88) - 2015 
 12

File đính kèm:

  • pdfmo_hinh_phat_trien_xa_hoi_lien_xo_dac_diem_va_bai_hoc_kinh_n.pdf