Mô hình phát triển xã hội Liên Xô: Đặc điểm và bài học kinh nghiệm
Tóm tắt Mô hình phát triển xã hội Liên Xô: Đặc điểm và bài học kinh nghiệm: ...i nhiều kẻ thù lớn là nền chuyên chế tàn bạo Sa hoàng, chủ nghĩa vô chính phủ và chủ nghĩa dân tuý. Vấn đề quan trọng sau khi lật đổ chế độ cũ là phải xây dựng một chính quyền cách mạng, thu hút sự tham gia của đông đảo quần chúng vào việc quản lý đất nước và xã hội (như V.I.Lênin chủ ...2) Những người thực hiện, chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng như cái máy (chiếm khoảng hơn 96%); 3) Những kẻ cơ hội, xu thời, nịnh bợ (phần lớn trong bộ máy công quyền); 4) Những người im lặng (phần lớn họ là những người có hiểu biết)(1). N.I.Rưscôp, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, ... nhân vật thứ nhất và nhân vật thứ hai trong Bộ Chính trị; đó là Goócbachốp và Ligachốp. Phái cấp tiến cho rằng, không phá bỏ bộ máy tổ chức cũ thì không thực hiện được công cuộc cải tổ. Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, Goócbachốp phát động chiến dịch tố cáo (gọi là công ...
Cách mạng Tháng Mười, Liên Xô đã thanh toán xong nạn mù chữ cho toàn thể dân cư và thực hiện chế độ giáo dục trung học bắt buộc 7 năm miễn phí. Các nhà khoa học Xô - viết có nhiều phát minh, sáng chế trong các lĩnh vực toán học, vật lý hạt nhân, vật lý chất Mô hình phát triển xã hội Liên Xô... 5 rắn, cơ học lượng tử, phản ứng nhiệt hạch, kiểm soát và chinh phục vũ trụ. Hệ thống y tế, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân ở Liên Xô phát triển rộng rãi. Tất cả mọi người dân được khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ không mất tiền. Các dịch bệnh được xoá bỏ, số lượng bác sĩ và giường bệnh nhiều hơn hẳn các nước tư bản phát triển. Đảng và Nhà nước Liên Xô đặc biệt chú ý đến công tác giáo dục, chăm sóc trẻ em, người già và phụ nữ. Hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo, trại hè, nhà nghỉ, nhà dưỡng lão phát triển rộng khắp trên cả nước. Phụ nữ có quyền làm việc bình đẳng và nhận lương ngang với nam giới, được hưởng trợ cấp thai sản. Tuổi về hưu của phụ nữ sớm hơn so với nam giới và sớm hơn khoảng 10 năm so với phụ nữ ở các nước tư bản phát triển. Mô hình phát triển xã hội Liên Xô có nhiều ưu điểm; là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia; tạo ra sự thay đổi căn bản trong tương quan lực lượng theo hướng có lợi cho các lực lượng cách mạng tiến bộ chống đế quốc, phong kiến trên toàn thế giới; thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào dân chủ và hoà bình; đẩy nhanh sự tiến bộ của nhân loại. Tuy nhiên, từ thập kỷ 70 thế kỷ XX, mô hình này bộc lộ nhiều hạn chế. Do chậm được phát hiện và khắc phục nên mô hình đó bị đổ vỡ. Trước cải tổ, sai lầm lớn nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô là đã xác lập mô hình phát triển xã hội không phù hợp. Nếu chủ nghĩa xã hội không bị khủng hoảng, suy yếu và tan rã từ bên trong bởi những sai lầm, khuyết tật của chính mình, không bị biến dạng nghiêm trọng, được dân tín nhiệm và ủng hộ, thì mọi âm mưu phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cũng thất bại. Trên thực tế, từ sau Cách mạng Tháng Mười cho đến khi bắt đầu cải tổ (năm 1985), Đảng Cộng sản Liên Xô đã xây dựng và thực thi ba mô hình phát triển xã hội: mô hình chủ nghĩa cộng sản thời chiến (trong giai đoạn 1918 - 1921); mô hình chính sách kinh tế mới (NEP) (trong giai đoạn 1921 - 1929); mô hình chủ nghĩa xã hội nhà nước (trong giai đoạn 1929 - 1985). Dù hình thức thể hiện có khác nhau, nhưng về cơ bản các mô hình nêu trên vẫn có các điểm chung như sau: Thứ nhất, xác lập chế độ tập trung quyền lực cao độ. Bên cạnh những vấn đề có tính quy luật, Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phải đối mặt với nhiều kẻ thù lớn là nền chuyên chế tàn bạo Sa hoàng, chủ nghĩa vô chính phủ và chủ nghĩa dân tuý. Vấn đề quan trọng sau khi lật đổ chế độ cũ là phải xây dựng một chính quyền cách mạng, thu hút sự tham gia của đông đảo quần chúng vào việc quản lý đất nước và xã hội (như V.I.Lênin chủ trương), thực thi dân chủ nhằm tiếp tục giải Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(88) - 2015 6 phóng xã hội, giải phóng con người. Thế nhưng, sau khi V.I.Lênin qua đời (năm 1924), những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước Liên Xô lại thiết lập một chế độ chuyên quyền cá nhân cực đoan, nhấn mạnh một chiều chuyên chính, bạo lực, cưỡng chế. Quá trình xây dựng xã hội đã không coi việc đoàn kết, hoà hợp các lực lượng nhân dân, xây dựng chế độ nhà nước do nhân dân làm chủ và tự quản là mục đích và động lực của cách mạng. Những quyền dân chủ cơ bản của công dân tuy được pháp luật thừa nhận, nhưng không được thực hiện đầy đủ trên thực tế. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, trở thành tầng lớp đặc quyền đặc lợi, xa rời quần chúng. Một chế độ xã hội tập trung quyền lực cao độ rất xa lạ với mục tiêu và lý tưởng của học thuyết giải phóng xã hội do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập. Thứ hai, xây dựng thể chế kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp cao độ. Sau khi xác lập chế độ tập trung quyền lực cao độ vào tay mình, bãi bỏ chính sách kinh tế mới do V.I.Lênin đề xướng, Ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô (do Xtalin đứng đầu) chuyển trọng tâm hoạt động vào việc thiết lập chế độ công hữu toàn bộ nền kinh tế; tiến hành tập thể hoá nông nghiệp và thủ công nghiệp; xoá bỏ thương nghiệp; thực hiện chính sách phân phối theo khẩu phần bình quân trong toàn xã hội đi đôi với đẩy mạnh công nghiệp hoá. Tại Đại hội lần thứ XVIII (năm 1938), Liên Xô tuyên bố, chế độ xã hội chủ nghĩa đã được thiết lập hoàn chỉnh trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế gọi là “phi xã hội chủ nghĩa” đều bị cưỡng chế xoá bỏ. Công hữu hoá một nền sản xuất nhỏ phân tán, còn không ít yếu tố tự nhiên là trái với quy luật phát triển khách quan. Sai lầm khác là nhà nước hoá, hành chính hoá toàn bộ hoạt động sản xuất và phân phối. Hệ quả là hình thành một nền kinh tế hiện vật, không có động lực, kém hiệu quả, lãng phí và thiếu hụt. Suốt mấy chục năm, nền kinh tế Liên Xô hoạt động theo ý chí của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đã bỏ qua các quy luật khách quan. Thứ ba, mắc nhiều sai lầm trong xây dựng hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị Liên Xô là một chế độ tập trung cao độ, tách rời cơ sở dân chủ, bị biến dạng thành chế độ tập trung quan liêu và ngày càng trầm trọng. Đảng, Nhà nước xa rời cơ sở xã hội của mình là quần chúng nhân dân lao động. Đảng và Nhà nước Liên Xô trên thực tế đã áp dụng chế độ dân chủ thời chiến cho thời kỳ hoà bình. Do thiếu một cơ sở xã hội dân chủ rộng rãi, hoàn thiện, nên nền kinh tế không thể phát triển bền vững, không phát huy được tính tích cực sáng tạo của người lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là “nhà nước nửa nhà nước”, nghĩa là tập trung Mô hình phát triển xã hội Liên Xô... 7 thực hiện chức năng chủ yếu là quản lý xã hội, tổ chức xây dựng. Vậy mà, Đảng Cộng sản đã cường điệu chuyên chính, có lúc đã lạm dụng bạo lực (nhất là thập kỷ 1930) vượt khuôn khổ của pháp chế xã hội chủ nghĩa, lấy bạo lực làm phương tiện để tăng cường sự chuyên quyền, độc đoán, dẫn đến những hậu quả rất tai hại. Nền dân chủ chỉ còn là hình thức, người dân thờ ơ với chính trị, không quan tâm đến sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Thứ tư, mắc nhiều sai lầm trong xây dựng đảng cầm quyền. Đảng Cộng sản Liên Xô là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, có nhiệm vụ lãnh đạo cuộc đấu tranh lật đổ chế độ áp bức bóc lột, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng phải được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Dân chủ phải trở thành mục tiêu và sức mạnh của Đảng. Nhưng thực tế ở Liên Xô sau khi V.I.Lênin qua đời, dân chủ trong Đảng bị vi phạm nghiêm trọng. Những nguyên tắc sinh hoạt dân chủ, điều lệ Đảng bị chính những người lãnh đạo cao nhất của Đảng vi phạm. Tính tích cực tự giác chính trị của đảng viên bị giảm sút. Trước những sai lầm của giới lãnh đạo, đảng viên có thái độ tiêu cực: hoặc không tán thành nhưng họ không dám phát biểu ý kiến phản biện, hoặc tin tưởng chấp hành một cách mù quáng. Trong Đảng Cộng sản, tệ sùng bái cá nhân bị đẩy lên đến mức tột đỉnh, thậm chí mang tính tín ngưỡng tôn giáo (Tượng, chân dung Xtalin đặt khắp nơi ngay khi ông còn sống, Brêzênhep nhận rất nhiều huân chương, giải thưởng nhà nước...). Theo Ph.M.Rudinxki, có thể chia 20 triệu đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô làm 4 loại: 1) Những đảng viên chân chính thường chiếm tỷ lệ nhỏ; 2) Những người thực hiện, chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng như cái máy (chiếm khoảng hơn 96%); 3) Những kẻ cơ hội, xu thời, nịnh bợ (phần lớn trong bộ máy công quyền); 4) Những người im lặng (phần lớn họ là những người có hiểu biết)(1). N.I.Rưscôp, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô (1985 - 1990) cho rằng, trong Đảng Cộng sản Liên Xô đã tồn tại hai đảng: một đảng của hàng chục triệu đảng viên bình thường và một đảng của những quan chức chóp bu trong hệ thống đảng, nhà nước Liên Xô(2). Do những bệnh tật kể trên, nên đại bộ phận quần chúng nhân dân giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, thờ ơ đối với những vấn đề chính trị trọng đại của đất nước; thậm chí có một số người trông (1) Ph.M.Rudinxki (2001), Vụ án Đảng Cộng sản Liên Xô tại Tòa án Hiến pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.53. (2) N.I.Ruscôp (1992), Cải tổ: Lịch sử của những vụ phản bội, Tổng cục II - Bộ Quốc phòng, Hà Nội, tr.33. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(88) - 2015 8 chờ, mong muốn có sự thay đổi. Đó là trạng thái trong Đảng và trong xã hội Liên Xô vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, đêm trước của sự sụp đổ. Cơ chế tập trung quan liêu và những sai lầm trong xây dựng đảng đã làm cho Đảng Cộng sản Liên Xô bị suy giảm sức chiến đấu. Một bộ phận đảng viên khi đã có chức, có quyền trở thành những phần tử quan liêu, đặc quyền đặc lợi, xa rời quần chúng. Bộ phận này bao giờ cũng là số ít, nhưng do không được thanh lọc kịp thời nên làm quần chúng giảm sút niềm tin vào Đảng. Do những sai lầm, lệch lạc kéo dài và ngày càng nghiêm trọng đó, cho nên Đảng ngày càng suy yếu cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Điều cơ bản và chủ yếu nhất là Đảng dần đánh mất mối liên hệ gắn bó máu thịt với nhân dân, mối liên hệ từng tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng trước đây. Đó là bài học lớn nhất có thể rút ra từ sự thất bại của mô hình phát triển xã hội Xô - viết. Những sai lầm đó chậm được phát hiện, thậm chí đến thời điểm khủng hoảng, Đảng vẫn không đánh giá đúng bản chất của sai lầm, nguyên nhân của khủng hoảng, vì vậy không xác lập được giải pháp đúng đắn để khắc phục. Thứ năm, mắc nhiều sai lầm trong hoạch định, thực thi chính sách dân tộc. Liên Xô có trên 100 dân tộc. Chế độ cũ để lại một di sản quá nặng nề (chế độ Nga hoàng khét tiếng là “nhà tù của các dân tộc”), những vấn đề dân tộc rất phức tạp mà chế độ mới phải giải quyết. Thành tựu của Đảng, Nhà nước Liên Xô trong việc giải quyết vấn đề dân tộc là rất lớn. Trong hàng chục năm các dân tộc đã sống hoà bình và hữu nghị, song Đảng cũng đã phạm những sai lầm khá nghiêm trọng, kể cả chính sách đối với các dân tộc anh em trong khối xã hội chủ nghĩa. Đó là quan niệm giáo điều, đơn giản hoá mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp; theo quan niệm đó, một khi xoá bỏ xong giai cấp bóc lột, tiêu diệt hết áp bức giai cấp thì đương nhiên vấn đề áp bức dân tộc, thành kiến dân tộc cũng được giải quyết, Đảng Cộng sản Liên Xô không nhận thức rõ tính độc lập tương đối của yếu tố dân tộc; có lúc vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc dân tộc tự quyết; áp đặt những giá trị của dân tộc lớn cho dân tộc nhỏ; chưa có chính sách thoả đáng để kết hợp hài hoà lợi ích của các dân tộc; quá nhấn mạnh, thậm chí tuyệt đối hoá phương diện kinh tế, giai cấp, coi nhẹ những yếu tố khác như truyền thống, tình cảm dân tộc, ngôn ngữ, tính độc đáo về văn hoá. Đảng quá vội vã, chủ quan, thậm chí ngộ nhận khi tuyên bố về sự hình thành cộng đồng lịch sử mới - cộng đồng Xô - viết; không chú ý đến sự khác biệt dân tộc. Chính sách đồng hoá dân tộc và xoá bỏ tín ngưỡng tôn giáo, phân biệt đối xử giữa các nhóm dân cư trong cộng đồng Mô hình phát triển xã hội Liên Xô... 9 các dân tộc gây nên sự căng thẳng trong xã hội. Trong thời kỳ cải tổ (1985 - 1991), ban lãnh đạo mới do Goócbachốp đứng đầu đã thể hiện mong muốn thực hiện cuộc cải tổ toàn bộ cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy Đảng, Nhà nước và quản lý kinh tế với một tư duy mới. Nhưng cải tổ bắt đầu từ ý chí, nguyện vọng mà không xác định được đường lối, chiến lược, mục tiêu, bước đi cụ thể. Lúc đầu, các nhà lãnh đạo hướng vào việc thay đổi chính sách, cơ chế, thể chế kinh tế, giao quyền tự chủ tài chính, kinh doanh cho các đơn vị sản xuất, giảm bớt sự can thiệp của tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước. Việc thay đổi lãnh đạo các cấp, các ngành được tiến hành hàng loạt ở Trung ương và các địa phương. Cuộc đấu tranh trong nội bộ ban lãnh đạo mới ngay từ đầu đã diễn ra gay gắt không chỉ về cách thức cải tổ, mà cả về quan điểm, đường lối cải tổ. Trong Đảng xuất hiện hai khuynh hướng khác nhau dẫn đến hình thành hai phái đối lập trong Ban Chấp hành Trung ương (thường được gọi là phái cấp tiến và phái bảo thủ). Đứng đầu hai phái là nhân vật thứ nhất và nhân vật thứ hai trong Bộ Chính trị; đó là Goócbachốp và Ligachốp. Phái cấp tiến cho rằng, không phá bỏ bộ máy tổ chức cũ thì không thực hiện được công cuộc cải tổ. Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, Goócbachốp phát động chiến dịch tố cáo (gọi là công khai hoá) tập trung lên án những sai lầm trong lịch sử Liên Xô, phê phán bộ máy quan liêu của Đảng và Nhà nước. Chiến dịch này nhanh chóng biến thành một trào lưu lên án Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa. Những người bất mãn với chế độ, những gia đình có người bị chết oan dưới thời Xtalin tập hợp lại đòi phải thay đổi thể chế chính trị. Nhân cơ hội này, những mâu thuẫn âm ỉ từ lâu, nhất là những mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo bùng phát, có nơi xảy ra bạo loạn, tranh chấp lãnh thổ. Bầu không khí chính trị trong Đảng và xã hội trở nên căng thẳng. Nhiều lực lượng mới, khuynh hướng mới hình thành và phối hợp với nhau thành một mặt trận chính trị chống chính quyền. Đảng Cộng sản trở thành đối tượng chủ yếu của cuộc tiến công. Toàn xã hội bị hút vào những cuộc tranh luận, phê phán triền miên nhưng thiếu định hướng. Đời sống kinh tế rối loạn và bị thả nổi. Công cuộc cải tổ lúc đầu vốn là tất yếu, sau đó dần dần mất phương hướng, không thể kiểm soát. Kết quả là xã hội hỗn loạn, kinh tế sa sút, đời sống nhân dân khó khăn, cơ cực. Người dân chán nản, mất lòng tin vào Đảng, Chính phủ (nhiều người quay sang tìm niềm tin ở tôn giáo). Nội bộ Đảng chia rẽ và phân hoá sâu sắc, bộ máy nhà nước gần như tê liệt. Cuộc khủng hoảng toàn diện, sâu sắc không được khắc phục kịp thời, đã đẩy nhanh quá trình tan rã Liên Xô. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(88) - 2015 10 3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ mô hình phát triển xã hội Liên Xô Thứ nhất, vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin vào xây dựng mô hình phát triển xã hội. Nhận thức sai và vận dụng không đúng học thuyết Mác - Lênin (nhất là lý luận về chủ nghĩa xã hội, như học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, về đấu tranh giai cấp, về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật thượng tầng kiến trúc phải phù hợp với hạ tầng cơ sở, những vấn đề tính chất, đặc điểm, nội dung, quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...), dẫn đến việc đề ra đường lối, chiến lược và sách lược sai lầm trong thiết kế mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa. Bài học rút ra là: phải căn cứ vào trình độ lực lượng sản xuất để thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp, phải giải quyết hài hòa, đồng bộ mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế, phải xác định công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ khó khăn, phức tạp, lâu dài, không thể nóng vội, không được đốt cháy giai đoạn để chạy theo thành tích. Thứ hai, thường xuyên nghiên cứu thực tiễn để điều chỉnh, đổi mới mô hình phát triển xã hội. Mô hình phát triển xã hội Liên Xô về cơ bản phù hợp với thời kỳ chiến tranh, trong bối cảnh bị các nước đế quốc bao vây, cấm vận, nhưng không phù hợp trong thời kỳ hòa bình. Sau những năm tháng phấn đấu gian khổ, hy sinh tất cả vì sự nghiệp độc lập dân tộc, người dân có quyền đòi hỏi nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, được tự do phát huy khả năng sáng tạo cá nhân. Đó cũng là xu hướng phát triển chung của thời đại. Xây dựng trên cơ sở lý luận sai lầm, mô hình chủ nghĩa xã hội nhà nước mang tính chất “tả khuynh” cực đoan đã không phát huy đầy đủ được những tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Bài học rút ra là: phải thường xuyên bám sát thực tiễn để đổi mới; phải lấy con người làm trung tâm; phải coi phục vụ con người, đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của người dân là mục tiêu của sự phát triển, của chế độ. Cuộc sống vận động, biến đổi không ngừng, một mô hình phát triển xã hội dù có ưu việt đến mấy thì cũng chỉ phù hợp trong một giai đoạn nhất định, không thể kéo dài quá lâu, đòi hỏi phải bổ sung, phát triển đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đây cũng là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thứ ba, chú trọng đặc biệt công tác xây dựng Đảng. Những sai lầm, khiếm khuyết trong công tác xây dựng Đảng là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến tan rã chế độ xã hội chủ nghĩa. Sau khi V.I.Lênin mất, Đảng Cộng sản Liên Xô được xây dựng như một cấu trúc nhà nước, thâu tóm mọi quyền hành, sử dụng, định đoạt toàn bộ tài sản của đất nước, thực hiện chức năng của một nhà Mô hình phát triển xã hội Liên Xô... 11 nước, đặt mình trên nhà nước và xã hội, điều hành tất cả mọi công việc thuộc thẩm quyền của nhà nước. Do không chú trọng vào chức năng chính là lãnh đạo, định hướng, xây dựng chiến lược phát triển đất nước, do sa vào chỉ đạo, giải quyết những công việc sự vụ, tầm ngắn hạn, nặng về quản lý nên Đảng trở thành bộ máy hành chính thứ hai, đứng trên bộ máy nhà nước đang vận hành; điều đó dẫn đến sự chồng chéo, giảm hiệu quả lãnh đạo, quản lý. Cán bộ lãnh đạo Đảng ngày càng quan liêu, tha hoá, đánh mất vai trò tiên phong, không quan tâm đến lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dần xa rời quần chúng và mất dần cơ sở giai cấp và cơ sở xã hội. Bài học rút ra là: phải tập trung xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; không quan liêu, tham nhũng; cán bộ lãnh đạo cao cấp phải nêu gương về ý thức trách nhiệm với quốc gia - dân tộc, về đạo đức trước nhân dân không quan liêu, không tham nhũng. Đảng phải tập trung thực hiện chức năng nhiệm vụ chính của mình là xây dựng đường lối, định hướng phát triển đất nước, lãnh đạo Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý, tạo môi trường cho xã hội phát triển; phải phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước, Đảng không làm thay Nhà nước; Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, nắm rõ nhu cầu của nhân dân, đại diện cho lợi ích của các tầng lớp nhân dân, đề ra đường lối giải quyết có hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Có như vậy, Đảng mới được nhân dân ủng hộ, bảo vệ khi Đảng gặp khó khăn. Như vậy, trong một thời gian dài, ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, mô hình Xô - viết đã từng phát huy vai trò tích cực, tạo nên sự ổn định xã hội thông qua những chính sách quan tâm đến mọi mặt đời sống con người. Tuy nhiên, càng về sau nó càng bộc lộ nhiều khuyết tật, thiếu dân chủ, kém hiệu quả. Chính điều đó đã kìm hãm, thậm chí làm triệt tiêu động lực của sự phát triển. Những nước áp dụng mô hình đó dần dần lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nghiên cứu để rút ra bài học cả từ thành công và thất bại, phục vụ cho việc xây dựng mô hình phát triển xã hội mới phù hợp với thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Tài liệu tham khảo 1. Hoàng Chí Bảo, Đoàn Minh Huấn (Đồng chủ biên) (2012), Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội hiện nay, vận dụng cho Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Lưu Văn An (2013), “Mô hình thể chế chính trị Liên Xô - đặc điểm, giá trị và hạn chế”, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số 4. 3. Lưu Văn An (2014), Lý thuyết và mô hình phát triển xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(88) - 2015 12
File đính kèm:
- mo_hinh_phat_trien_xa_hoi_lien_xo_dac_diem_va_bai_hoc_kinh_n.pdf