Một số vấn đề xung quanh phạm trù chủ nghĩa hiện đại
Tóm tắt Một số vấn đề xung quanh phạm trù chủ nghĩa hiện đại: ...ọ. Từ đó ở họ nảy sinh niềm tin vào sự tất yếu phải đổi mới triệt để ngôn ngữ nghệ thuật, phải dứt bỏ truyền thống chủ nghĩa hiện thực vốn đã đạt đến tầm mức kinh điển vào cuối thế kỷ XIX và có cơ trở nên cạn kiệt khả năng biểu đat trạng thái cuộc sống con người ở một thời đại đã đổi khác. ... khuynh hướng và nghệ sĩ chỉ có ý nghĩa cục bộ hạn hẹp. Có thể xếp vào loại có ý nghĩa phổ quát toàn cầu, có tác động đến tiến trình phát triển văn hóa nghệ thuật thế kỷ XX các khuynh hướng như: nghệ thuật trừu tượng, chủ nghĩa đađa, chủ nghĩa kiến tạo, chủ nghĩa siêu thực, nghệ thuật khái niệ...Dần, Vũ Hoàng Ðịch và nhóm Dạ đài. Hoặc đó là khuynh hướng tìm về tinh thần văn hóa phương Ðông của nhóm Xuân Thu nhã tập. Về một khía cạnh nào đó, xu hướng cách mạng vô sản chống đế quốc như ở tập Từ ấy của Tố Hữu cũng mang tính tiền phong chủ nghĩa, về cả nghệ thuật lẫn hệ tư tưởng, nhất là ...
c thuật thông tin trên đây, người viết muốn dành riêng một phần để nêu vấn đề nghiên cứu chủ nghĩa hiện đại ở văn học Việt Nam. Có thể đặt vấn đề đi tìm các biểu hiện của chủ nghĩa hiện đại ở văn học, và rộng hơn, ở văn nghệ Việt Nam hay không? Theo tôi về nguyên tắc là có thể. Ðối với văn học trung đại Việt Nam vốn phát triển trong đặc tính của vùng văn hóa Ðông á, sẽ không dễ dàng thuận lợi nếu người nghiên cứu muốn khảo sát sự phát triển của nó thông qua những phạm trù như trào lưu, khuynh hướng, trường phái. Nhưng đối với văn học Việt Nam thế kỷ XX là bộ phận văn học đã hội nhập trên nét lớn vào tiến trình văn học chung của thế giới hiện đại thì việc nghiên cứu nó theo những dấu hiệu nêu trên là hoàn toàn thích đáng. Trên thực tế, giới nghiên cứu đã thu được kết quả khả quan khi miêu tả văn học Việt Nam thế kỷ XX thông qua sự phát triển của chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực như những khuynh hướng văn nghệ, thậm chí như những phương pháp sáng tác. Về chủ nghĩa hiện đại, sự biểu hiện của nó là hiển nhiên ở văn học đô thị miền Nam 1954 - 75, bộ phận văn học tồn tại trong sự liên thông rõ rệt với văn học phương Tây đương thời, và người ta đã ghi nhận các biểu hiện trong nền văn học này của chủ nghĩa hiện sinh, của kỹ thuật tiểu thuyết mới(24) (những tư trào thuộc chủ nghĩa hiện đại theo quan niệm đã được thừa nhận ở Tây Âu ngày nay, tuy đương thời chưa được gọi như thế, và vì vậy hầu như không thấy thuật ngữ này trên sách báo văn nghệ đô thị miền Nam đương thời. Tuy nhiên, đối với các giới nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay, bộ phận văn học này hiện vẫn nằm ngoài phạm vi quan tâm phân tích và có lẽ còn xa mới có đủ điều kiện để trở thành đề tài nghiên cứu thực sự nghiêm chỉnh, nên người viết xin tạm gác điều này lại đó.) Tôi muốn tập trung xem xét những bộc lộ sớm hơn của khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa ở văn học Việt Nam. Ta hãy nhắc lại sự kiện văn học sử đã được thừa nhận khá rộng rãi là mô hình một nền văn học thế giới hóa, gần với văn học các nước phương Tây, đã được định hình ở Việt Nam từ đầu những năm 1930. Sự kiện này gắn với sự xuất hiện lớp nhà văn đầu tiên mà học vấn được tiếp nhận là từ các trường Pháp Việt, từ nền học Pháp Việt, sản phẩm sự điều tiết chính sách ngôn ngữ ở thuộc địa này của chính quyền thực dân Pháp(25). Ðối với tiến trình văn học sử Việt Nam, sự kiện này chuyển văn học Việt Nam từ thời cận đại sang thời hiện đại. Nét trội trong sự tiếp nhận ảnh hưởng bên ngoài, từ đây sẽ thuộc về văn học phương Tây, trước hết là văn học Pháp. Người ta đã nêu nhận xét về hiện tượng độ dài thời gian và ba thế kỷ của tiến trình văn học Pháp đã được tái diễn nhanh chóng và đan xen đồng thời nhiều khuynh hướng với nhau trong ba bốn chục năm của văn học Việt Nam. Tuy nhiên, ở những bộ phận lớn của văn học tiếng Việt kiểu mới thời đầu hiện đại hóa như "thơ mới", kịch nói, văn xuôi tiểu thuyết, dấu vết ảnh hưởng phương Tây xét về khuynh hướng chưa phải là dấu vết chủ nghĩa hiện đại mà chủ yếu lại là dấu ấn chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực, (những hiện tượng lớn nhất của văn học phương Tây thế kỷ XIX, thậm chí có cả dấu ấn chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa tình cảm của châu Âu thế kỷ XVII - XVIII.) Dẫu sao, các bộ phận văn học này vẫn là của thời đại mình. Xét về ảnh hưởng từ ngoài, nó vừa noi theo cái bóng, cái quá khứ của văn học Pháp, vừa tìm cách làm quen với cái đang sống, cái đương thời của văn học Pháp. Những hiện tượng đặc thù của văn học thế kỷ XX ở phương Tây như các phái tiền phong, như khuynh hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa, rốt cuộc đã có hình thù cụ thể ở văn học Việt Nam, ngay trước và sau thế chiến II. Xin đề cập những chuyển động bên trong phong trào thơ mới như một ví dụ cụ thể. Tôi nghĩ có cơ sở để tin vào cảm tưởng của một số người trong cuộc của thơ mới cho rằng năm 1938 với sự công bố tập thơ Tinh huyết của Bích Khê là một cái mốc thời gian cho hai giai đoạn phát triển thơ mới. Giai đoạn trước với vai trò chủ đạo làm nên diện mạo thơ mới của các nhà thơ trong Tự Lực văn đoàn như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận mà nét chung về khuynh hướng nghệ thuật là một thứ lãng mạn duy lý. Giai đoạn sau với uy tín của Bích Khê, Hàn Mặc Tử, với dấu ấn khá rõ của các khuynh hướng tiền hiện đại chủ nghĩa và hiện đại chủ nghĩa như suy đồi (décadance), siêu thực, tiền phong... Khác biệt giữa hai giai đoạn này thậm chí có thể thấy rõ ở thơ của một tác gia như Thế Lữ. So với Mấy vần thơ in lần đầu 1935, Mấy vần thơ, tập mới, in 1941, có thêm 20 bài. Trong 20 bài mới ấy có thể thấy ảnh hưởng Hoa ác của Baudelaire (trong những bài như Ðêm mưa gió, Trụy lạc, Ma túy...) rõ hơn hẳn(26). (Tất nhiên Thế Lữ đã sớm từ bỏ sáng tác thơ để chuyển sang loại nghệ thuật khác và ông chỉ có vai trò rõ rệt ở thơ mới thời đầu). Ở các tác giả "trường thơ loạn", Hàn Mặc Tử với Chơi giữa mùa trăng và Ðau thương, Bích Khê với Tinh huyết, Chế Lan Viên với Ðiều tàn, ( thơ mới tiếng Việt đã dấn bước vào lĩnh vực siêu thực và tượng trưng(27).) Bước sang những năm 1940, những hiện tượng có tìm tòi cách tân đều ít nhiều mang tính tiền phong chủ nghĩa. Hoặc đó là ảnh hưởng của "trường thơ loạn" đến các nhóm thơ ở Hà Nội trong đó có những tên tuổi như Hoàng Lộc (Từ tịch dương đến bình minh)(28), Ðông Hoài (Giác linh hương), Ðinh Hùng (Mê hồn ca), Trần Dần, Vũ Hoàng Ðịch và nhóm Dạ đài. Hoặc đó là khuynh hướng tìm về tinh thần văn hóa phương Ðông của nhóm Xuân Thu nhã tập. Về một khía cạnh nào đó, xu hướng cách mạng vô sản chống đế quốc như ở tập Từ ấy của Tố Hữu cũng mang tính tiền phong chủ nghĩa, về cả nghệ thuật lẫn hệ tư tưởng, nhất là đối với không khí văn hóa công khai ở Việt Nam đương thời. Nhưng khẳng định điều này hiện nay có thể gây tranh cãi không cần thiết, nên xin coi như một giả định. Về hiện tượng Xuân Thu Nhã Tập, cách đây dăm bảy năm, Tạp chí văn học của Viện Văn học có đăng bản dịch bài của nhà nghiên cứu người Nhật Nohira Munehiro, trong đó so sánh nhóm Xuân Thu Nhã Tập ở Việt Nam những năm 1940 với phong trào nghệ thuật tiền phong đầu thế kỷ XX của phương Tây như các phái vị lai, đa đa, siêu thực...( 29) Tinh thần tiền phong chủ nghĩa của Xuân Thu Nhã Tập được Nohira Munehiro nhận thấy ở 4 nội dung cụ thể; trước hết ở việc nhóm này có thái độ đối lập với thành quả những năm 1930 của thế hệ trước và coi việc tìm ra cái mới hơn như động lực vận động nghệ thuật. ở việc Xuân Thu Nhà Tập chủ trương chuyển cái "tôi" sang cái "ta", Nohira Munehiro nhận ra "hiện tượng hoài nghi đối với chủ thể cá nhân hiện đại", "yêu cầu vươn đến chỗ cùng cảm thông, hòa mình với cái bên ngoài, phá bỏ khuôn khổ cá nhân nhỏ hẹp". Nhà nghiên cứu người Nhật nhận ra ở chỗ này sự gặp gỡ về tư tưởng nghệ thuật của Xuân Thu Nhã Tập với thuyết phi ngã trong thơ (impersonal theory of poetry)(30) của T. S. Eliot (1918), thậm chí với thuyết "cái chết của tác giả" của R. Barthes (những năm 1970). Nohira xem các bài thơ Buồn xưa, Hồn ngàn mùa, Bình tàn thu của Nguyễn Xuân Sanh, bài Thư,... thơ.... của Phạm Văn Hạnh in trong Xuân Thu Nhã Tập như hiện thân của thứ thơ "phi ngã" ấy. ở "tính tự phủ định theo chủ nghĩa hư vô kiểu Phật giáo" của Xuân Thu Nhã Tập, nhà nghiên cứu người Nhật cũng thấy thể hiện tinh thần tiền phong theo kiểu phương đông với một "mỹ học về nghệ thuật chết"(29), mà hiện thân có thể là bài Thư..., thơ... của Phạm Văn Hạnh, nói theo Nohira, "khi loại bỏ từ ngữ, lẳng lặng đạt đến điểm cuối cùng của cái im lặng, lặng lẽ, có lẽ thơ sẽ phủ định sự tồn tại của chính nó"(29), hoặc có thể là vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa của Ðoàn Phú Tứ, mà Nohira gọi là "một bi kịch của tinh thần tiền phong"(29). "Khi những cái đáng phá hủy không còn lại gì nữa theo nghĩa tượng trưng thì tiền phong phải tự tử, do nhận thức sự nhất quán trong bản thân nó" (nhận xét này của Matei Calinescu trong cuốn Năm mặt của Hiện đại (Five Faces of Modernity, 1987) mà tôi chuyển dẫn từ bài trên đây của Nohira Munehiro, (nếu áp dụng vào thực tiễn văn hóa văn nghệ Việt Nam những năm 1940 - 50, thì có thể nói "những cái đáng phá hủy" vẫn hiện diện rất nhiều trước mắt các thế hệ văn nghệ sĩ mới, nhất là khi họ được trang bị những cái nhìn mang tính cách mạng. Vì vậy các hiện tượng tiền phong vẫn liên tục xuất hiện cho đến cuối những năm 1950.) Xin nhớ rằng nhóm Văn Hóa Cứu Quốc trong Mặt trận Việt Minh sau đổi là Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam, từ đầu năm 1945 đã chọn tên tờ báo đầu tiên của mình là Tiên phong và ở nhan đề tờ báo thường ghi câu tuyên ngôn trong đó có ý "hoài bão một nền văn hóa cấp tiến nay mai". Hoạt động của hội này và tờ báo của nó trong khoảng thời gian ngắn từ tiền khởi nghĩa đến bùng nổ toàn quốc kháng chiến có mang khuynh hướng tiền phong hay không, là điều cần nghiên cứu thêm. Ngoài hoạt động của Văn hóa cứu quốc, ta còn có thể thấy khuynh hướng nghệ thuật tiền phong bộc lộ ở những hiện tượng khác. ở quyển Tương lai Văn nghệ Việt nam (1945) của Trương Tửu cũng có một khuynh hướng tiền phong, dự phóng tương lai nền văn nghệ sau cách mạng theo một sơ đồ không tưởng của tác giả, và nó lập tức bị tờ Tiên phong của Văn hóa cứu quốc bút chiến chống lại. Nhóm Dạ Ðài với tờ Dạ Ðài số 1 (Hà Nội, 1946) trong đó có Bản tuyên ngôn tượng trưng ký tên Trần Dần, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Ðịch và một chùm thơ của các tác giả nhóm này(31), hiển nhiên là một hiện tượng tiền phong chủ nghĩa trong ý đồ đổi mới thơ ca. Ở văn nghệ kháng chiến, thể nghiệm đổi mới thơ của Nguyễn Ðình Thi mang tính tiền phong nghệ thuật rõ rệt, đã bị các cựu thủ lĩnh thơ mới tiền chiến như Thế Lữ, Xuân Diệu, Thanh Tịnh... và số đông văn nghệ sĩ và công chúng ngoại đạo phê phán lên án gay gắt(32). Các khuynh hướng tiền phong tuy xem như yếu thế, thậm chí bị thua ở sự việc này, lại có cơ thắng thế ở nhiều việc khác, ví dụ khi nêu chủ trương đình chỉ những loại hình nghệ thuật truyền thống như tuồng và cải lương, như hoài nghi giá trị nghệ thuật của tranh sơn mài, như đề cao loại sáng tác đại chúng (thơ đội viên, thơ ca phát động giảm tô và cải cách ruộng đất, thơ văn tố khổ...). Cho đến tận giữa thập niên 1950, ở một sự kiện như cuộc tranh luận về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, qua ý kiến những người như Lê Ðạt, Trần Dần, Hoàng Yến..., người ta cũng nhận thấy thấp thoáng ý tưởng tiền phong chủ nghĩa ở chỗ đòi đem thơ dấn thân Maiakovsky sau Cách mạng tháng Mười làm mẫu mực nội dung và hình thức cho thơ kháng chiến Việt Nam. Như vậy những tìm tòi tiền phong chủ nghĩa, tức là thuộc những làn sóng thứ nhất của chủ nghĩa hiện đại, vẫn xuất hiện trong văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám và chỉ có vẻ lặng đi vào cuối những năm 1950, khi nền văn học chính thống độc tôn đã hoàn toàn định hình trong một xã hội được tổ chức theo mô hình cổ điển của chủ nghĩa xã hội(33). Ðối với toàn bộ văn học chính thống ở Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tính đến trước đổi mới (1986), lâu nay người ta vẫn gọi nó là văn học XHCN, văn học hiện thực XHCN. ở cự ly ít nhiều đã có độ lùi để nhìn lại như hiện nay, văn học ấy tương quan thế nào với văn học của chủ nghĩa hiện đại thế giới? Liệu có thể tiếp tục duy trì cách nhìn vốn có từ đương thời, xem chúng như hai bộ phận, hai kiểu văn học đối lập nhau cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật? Ở chỗ này cũng cần biết những thôn tin mới. Ðối với di sản văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Xô Viết, ngày nay cũng đã xuất hiện những kiến giải văn học sử khác hẳn trước đây. Chẳng hạn M. Epstein cho rằng: "...bằng sự kết hợp chiết trung các yếu tố thuộc các di sản cổ điển chủ nghĩa, lãng mạn chủ nghĩa, hiện thực chủ nghĩa và tiền phong (vị lai) chủ nghĩa, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đã dọn xong mặt bằng cho chủ nghĩa hậu hiện đại, có điều chính nó còn chưa kịp gieo lên đó những hạt giống tự mỉa mai, do vẫn còn giữ lấy cái tuyệt đối nghiêm túc, cái thống thiết và thói tiên tri"(34). Ðiều đáng lưu ý là nhà nghiên cứu này đặt chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa vào văn cảnh văn hóa lịch sử thế kỷ XX: chủ nghĩa hiện thực XHCN xuất hiện trong thế đối lập với chủ nghĩa tiền phong, nhưng nó kết hợp chiết trung tất cả các nguồn di sản, và hoạt động của nó cũng là chuẩn bị mặt bằng cho khuynh hướng gần đây nhất, tức là văn nghệ hậu hiện đại. Thông tin về sự xử lý lý thuyết trên đây, có thể là một gợi ý cho việc nhận thức mới và nghiên cứu mới đối với giai đoạn phát triển văn học Việt Nam dưới dấu hiệu hiện thực xã hội chủ nghĩa, không đặt nó như ngoại lệ, không tách nó khỏi tiến trình văn học dân tộc và văn học nhân loại. Trở lên là những phác họa mang tính gợi ý của tôi về sự hiện diện của chủ nghĩa hiện đại ở văn học Việt Nam thế kỷ XX, nhất là sự xuất hiện các khuynh hướng, các hiện tượng tiền phong chủ nghĩa trong văn học những năm 1940 - 1950. Ðây mới chỉ hoàn toàn là những phác họa thăm dò, chưa phải những nhận định chắc chắn, càng chưa phải là những kết luận. Hà Nội, tháng Ba, tháng Tư 2004 LẠI NGUYÊN ÂN Nguồn: hopluu.net CHÚ THÍCH (1) - Ðại bách khoa thư Liên Xô: Bolshaja Sovetskaja Enciklopedija (BSE), A.M. Prokhorov chủ biên, xuất bản lần ba, Moskva; T1-30; 1970-1978. - Từ điển bách khoa Liên Xô: Sovetskij Enciklopedicheskij Slovar' (SES), A.M. Prokhorov chủ biên, M., 1979 (tái bản 1982, 1984, 1985) - Bách khoa thư nghệ thuật phổ thông: Populjarnaja khudozhestvenaja Enciklopedija / Arkhitektura. Zhivopis'. Skul'ptura. Grafika. Dekorativnoe Iskusstvo / V.M. Polevoj chủ biên. 2 quyển. M., 1986. - Giản yếu bách khoa thư văn học: Kratkaja Literaturnaja Enciklopedija (KLE); A. A. Surkov chủ biên, T1 - 9, M., 1962 - 1979. - Từ điển bách khoa văn học: Literaturnyj Enciklopedicheskij Slovar'; V.M. Kozhevnikov và P.A. Nikolaev đồng chủ biên. Moskva, 1987. - Từ điển bách khoa của người trẻ tuổi nghiên cứu văn học: Eciklopedicheskij Slovar' Junogo literaturoveda; V.I. Novikov soạn, M., 1988. (2) SES, (sđd.) tr. 817. (3) BSE, (sđd.) tập 16, M., 1974, tr. 402 - 404; Từ điển bách khoa triết học / Filosofskij Enciklopedicheskij Slovar' / M., 1983, tr. 382 - 383. (4) Bách khoa thư nghệ thuật phổ thông (sđd.), quyển 2, tr. 20 - 21. (5) Từ điển bách khoa văn học (sđd.), tr. 225 - 226. (6) KLE (sđd.), tập 4, M., 1967, cột 904 - 912. (7) Từ điển thuật ngữ nghiên cứu văn học: Slovar' literaturovedcheskikh terminov / L.I. Timofeev và S.V. Turaev biên soạn / Moska: "Prosveschenie", 1974, tr. 222 - 225. (8) Từ điển bách khoa của người trẻ tuổi nghiên cứu văn học: (sđd.), tr. 176 - 177. (9) Về vấn đề này, xin xem cuốn Hệ thống Xã hội chủ nghĩa của Kornai János (Hungary), bản dịch của Nguyễn Quang A, Nxb. Văn hóa thông tin và Hội khoa học kinh tế Việt Nam, Hà Nội, 2002, - một tài liệu tối cần thiết cho những người nghiên cứu khoa học xã hội hiện nay. (10) Xem thêm mục từ "Chủ nghĩa hiện đại" trong cuốn 150 thuật ngữ văn học / Lại Nguyên Ân biên soạn; Nxb. ÐHQG Hà Nội, 1999, tái bản 2003, tr. 67 -71. (11) Kulturologija XX vek. Enciklopedija. Tom II (M-Ja). Sankt-Peterburg, 1998, s. 61. (12) BSE (sđd.), t. 16, M., 1974, tr. 402 - 403. (13) V.S. Malakhov: Posmodernizm // Sovremennaja Zapadnaja filosofija. Slovar', Moskva: 1991, str. 237 - 240. (14) Xin xem thêm cuốn: Văn học hậu hiệnđại thế giới. Những vấn đề lý thuyết, Hà Nội: Nxb. Hội Nhà văn, 2003, tr. 173 - 219. (15) Ví dụ mục từ "Avangard" do V.V. Bychkov viết trong "Kulturologija XX vek. Enciklopedija"// S.Ja. Levit tổng chủ biên. Tom I, Sankt-Peterburg, 1998, tr. 9-11. (16) Xem bài của V.L. Inozemcev trong Văn học hậu hiện đại thế giới. Những vấn đề lý thuyết (sđd.), tr. 174 - 178. (17) V.S. Malakhov: Sđd., tr. 238. (18) Về tên gọi một số khuynh hướng và cá nhân nghệ sĩ (ít được biết đến ở Việt Nam) nêu trong đoạn này: konstruktivizm: tạm dịch là "chủ nghĩa kiến tạo" - khuynh hướng ở Liên Xô những năm 1920 trong kiến trúc, sân khấu, điện ảnh, trang trí, biểu ngữ...; suprematizm (lấy gốc từ Latin: supremus ố cao nhất), khuynh hướng ở Nga những năm 1910 trong nghệ thuật tạo hình do họa sĩ K.S. Malevich (1978 - 1935) đứng đầu; "nghệ thuật động" tức là kinetizm: khuynh hướng trong nghệ thuật tạo hình, đại diện là V.E. Tatlin (1885 - 1953) ở Liên Xô, A. Calder (1898 - 1976) ở Mỹ...; "nghệ thuật khái niệm" (Conceptual Art) - khuynh hướng nảy sinh cuối những năm 1960, đại diện là J. Kosuth, Le Witt...; Mark Chagall (1887 - 1985) họa sĩ Pháp gốc Nga; Paul Klee (1879 - 1985) họa sĩ Thụy Sĩ; A. Modigliani (1884 - 1920) họa sĩ Italia; Olivier Messiaen (1908 -?) nhạc sĩ Pháp. (19) Pop-art (rút gọn từ tiếng Anh popular art - nghệ thuật đại chúng) - khuynh hướng xuất hiện những năm 1950 - 60 ở Mỹ, Anh, Ðức...; op-art (rút gọn từ tiếng Anh optical art - nghệ thuật quang học) - khuynh hướng trong nghệ thuật tạo hình, một dạng của "nghệ thuật động", xuất hiện 1965 ở Mỹ. body art (tiếng Anh: body art - nghệ thuật cơ thể) - khuynh hướng xuất hiện năm 1964 ở Vienna, thịnh hành từ những năm 1970. (20) W. W. Kandinsky (1866 - 1944) họa sĩ Nga, từ 1921 sống lưu vong ở Tây Âu. (21) "Nghệ thuật cực hạn" (minimal art), trào lưu nảy sinh ở Mỹ nửa đầu những năm 1960. (22) James Joyce (1882 - 1941) nhà văn Irland; Marcel Proust (1871 - 1922) nhà văn Pháp; Velimir Khlebnikov (1885 - 1922) nhà văn Nga. (23) P. Picasso (1881 - 1973) họa sĩ Tây Ban Nha -Pháp;H.Matise (1869-1924) họa sĩ Pháp; Salvador Dali (1904 -?) họa sĩ Tây Ban Nha - Mỹ; F. Kafka (1883 - 1924) nhà văn áo; Thomas Sterns Eliot (1888 - 1965) nhà văn Anh; Eugène Ionesco (1912 - 94) nhà văn Rumani - Pháp; S. Beckett (1906 - 89) nhà văn Irland - Pháp; Arnol Schửnberg (1874 - 1951) nhạc sĩ Áo; Karlheinz Stockhausen (1928 - ?) nhạc sĩ Ðức; John Cage (1912 -) họa sĩ Mỹ; Ch.E. Le Corbusier (1887 - 1965) kiến trúc sư Pháp. (24) Xem: Võ Phiến, Hai mươi năm văn học Miền Nam 1954 - 1975. Wessminster (California, USA), 1988, tr. 260-267. (25) Xem: Peter Zinoman - "Số đỏ" của Vũ Trọng Phụng và chủ nghĩa hiện đại Việt Nam // Tạp chí văn học. Hà Nội, 2002, s.7, tr. 17- 30. (26) Xem: Thơ mới 1932-1945, tác giả và tác phẩm, Lại Nguyên Ân tập họp và biên tập, Nxb. Hội Nhà văn, In lần thứ sáu, Hà Nội, 2004, tr. 11-74. (27) Xem Chu Văn Sơn: Ba Ðỉnh cao thơ mới: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử. Hà Nội, 2003, tr. 214, 226 - 245. (28) Lưu ý: văn bản Từ tịch dương đến bình minh của Hoàng Lộc (1920 - 49) chưa tìm lại được; một số nhà văn cùng thời như Ðông Hoài, Vũ Hoàng Ðịch nói với tôi (LNA) rằng họ tán thưởng xu hướng tìm tòi của Hoàng Lộc ở tác phẩm này vì nó gần với tìm tòi đương thời của họ. (29) Nohira Munehiro, Một số đặc trưng về tinh thần tiên phong của nhóm Xuân Thu Nhã Tập // Tạp chí văn học, Hà Nội, 1997, s. 10, tr. 70-77. Các đoạn trích đều rút từ tài liệu này. (30) Xem mục từ Thuyết phi ngã trong thơ trong sách Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ XX // I.P. Ilin và E.A. Tzurganova chủ biên; Ðào Tuấn ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch // Hà Nội, Nxb. ÐHQGHN, 2003, tr.79-83. (31) Xem: Thơ mới 1932-1945, tác giả và tác phẩm (sđd.), Phụ lục I: Nhóm Dạ Ðài, tr.1252-1264. (32) Xem: Lại Nguyên Ân - Dấu hiệu" xung đột trường phái trong cuộc tranh luận về thơ Nguyễn Ðình Thi ( Việt Bắc, 1949 ) // Văn hóa văn nghệ Công an, 1995, s.6 (thang 11 va 12 / 1995), tr.50-52. (33) Mô hình "cổ điển" hoặc hệ thống "cổ điển" của chủ nghĩa xã hội là thuật ngữ kinh tế chính trị học của Kornai János (sđd.), để phân biệt với các dạng dịch chuyển khỏi nó như các loại cải cách, như kinh tế XHCN thị trường...; Kornai János cho là Việt Nam đi vào hệ thống XHCN cổ điển từ 1954 (Xem: Kornai János - Hệ thống xã hội chủ nghĩa, Nguyễn Quang A dịch, Nxb. VHTT, Hà Nội, 2002, tr.5-28). (34) Mikhail Epstein - Hậu hiện đại ở Nga. Văn học và lý luận / Postmodern v Rossii. Literatura i teorija /, Moskva, Izd. R.Elinnina, 2000, tr. 69.
File đính kèm:
- mot_so_van_de_xung_quanh_pham_tru_chu_nghia_hien_dai.pdf