Nghiên cứu ứng xử chịu uốn của dầm Sandwich sử dụng bê tông nhẹ và bê tông cốt lưới dệt

Tóm tắt Nghiên cứu ứng xử chịu uốn của dầm Sandwich sử dụng bê tông nhẹ và bê tông cốt lưới dệt: ... kích thước hình học như trên Hình 1. Hình 1. Kích thước lưới sợi carbon Bê tông nhẹ Bê tông nhẹ sử dụng cốt liệu nhẹ keramzit có thành phần chủ yếu là sỏi keramzit, cát, xi măng, phụ gia siêu dẻo và nước. Bê tông nhẹ có khối lượng thể tích 1300 kg/m3. Các đặc trưng cơ học của bê ...hân bố vết nứt, bao gồm khoảng cách giữa các vết nứt và bề rộng vết nứt, được quyết định định bởi cốt lưới dệt, tính chất dính bám giữa cốt chịu lực và bê tông, và biến dạng phá hoại khi chịu kéo của bê tông nền. Đường cong lực và độ võng cho thấy, lực tác dụng chỉ tăng nhẹ từ 8 đến 12 kN tr...ốt lưới dệt được mô hình hoá bằng phần tử cốt thép (reinforcement). Trong mô hình này, liên kết giữa các nút của phần tử bê tông và các nút cốt sợi dệt được tạo ra tự động Hình 8. Hình 8. Mô hình rời rạc hóa Để khảo sát ứng xử của kết cấu, lực gia tải theo phương đứng tác dụng tăng dần từ...

pdf10 trang | Chia sẻ: Tài Phú | Ngày: 19/02/2024 | Lượt xem: 173 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Nghiên cứu ứng xử chịu uốn của dầm Sandwich sử dụng bê tông nhẹ và bê tông cốt lưới dệt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải 
-1- 
NGHIÊN CỨU ỨNG XỬ CHỊU UỐN CỦA DẦM SANDWICH SỬ DỤNG BÊ 
TÔNG NHẸ VÀ BÊ TÔNG CỐT LƯỚI DỆT 
Vũ Văn Hiệp1*, Nguyễn Thị Tuyết Trinh1, 
Phạm Thị Thanh Thủy1, Vũ Trọng Tiến2 
1 Trường Đại học Giao thông Vận tải, Số 3 Cầu Giấy, Hà Nội 
* Tác giả liên hệ: Email: hiepvv@utc.edu.vn 
2Trường Cao đẳng Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh 
Tóm tắt. Kết cấu sandwich là kết cấu có sự kết hợp của hai hay một số dạng vật liệu 
có những đặc điểm chịu lực khác nhau, đôi khi là trái ngược nhau, thành một hệ thống 
có khả năng chịu lực tối ưu. Trong khi, việc sử dụng các vật liệu riêng lại không mang 
lại tính năng khai thác cao. Kết cấu sandwich cơ bản có mặt cắt ngang gồm ba lớp: hai 
lớp vỏ mỏng có cường độ cao, đóng vai trò chịu lực chính, chúng được đặt cách xa 
nhau và liên kết với nhau bằng một lớp lõi có cường độ không cao và trọng lượng nhẹ, 
đóng vai trò giữ ổn định cho các lớp vỏ. Với những đặc tính vượt trội, sự kết hợp giữa 
bê tông cốt lưới dệt (Textile Reinforced Concrete, TRC) và bê tông nhẹ trong kết cấu 
sandwich sẽ trở thành một hướng phát triển mới có khả năng áp dụng cao trong công 
trình xây dựng dân dụng [1], [2]. Bài báo này trình bày một số kết quả nghiên cứu xác 
định ứng xử chịu uốn của kết cấu sandwich sử dụng bê tông cốt lưới dệt và bê tông 
nhẹ. 
Từ khóa: Dầm sandwich, bê tông cốt lưới dệt, TRC... 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các vấn đề về môi trường đã thúc 
đẩy cách tiếp cận phát triển bền vững vào trong ngành xây dựng nói chung. Những vật 
liệu truyền thống như bê tông, thép mặc dù đang được sử dụng rất có hiệu quả trong 
các kết cấu nhưng chúng vẫn tồn tại những hạn chế như trọng lượng lớn, khả năng 
chịu lực khai thác chưa cao và dễ bị xâm thực bởi môi trường. Do đó, một trong các 
hướng nghiên cứu mới đảm bảo phát triển bền vững là tìm ra các loại cốt chịu lực phi 
kim loại có cường độ cao và đặc biệt không bị ăn mòn có khả năng thay thế cho cốt 
thép. Nhiều loại vật liệu mới đã được nghiên cứu và chế tạo thành công, trong đó có bê 
tông cốt lưới dệt (TRC – Textile Reinforced Concrete) là một loại bê tông xi măng 
chất lượng cao sử dụng cốt là lưới được dệt từ sợi carbon, sợi thuỷ tinh theo các cấu 
trúc đặc biệt. Do cốt lưới dệt được xem là loại vật liệu bền vững với môi trường xâm 
thực nên chỉ cần một lớp bê tông bảo vệ rất mỏng, vì vậy cho phép tạo ra các kết cấu 
có ưu điểm vượt trội như khả năng chịu lực và độ bền cao nhưng trọng lượng lại thấp. 
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải 
-2- 
Bê tông cốt lưới dệt là một vật liệu mới trong lĩnh vực kết cấu bê tông, được phát triển 
đầu tiên tại Đức bởi hai trung tâm nghiên cứu tại trường Đại học Kỹ thuật RWTH 
Aachen và trường Đại học Kỹ thuật Tổng hợp Dresden từ những năm 1990 [3] [4]. 
Các nghiên cứu ban đầu đã cho thấy TRC đặc biệt phù hợp các công trình yêu cầu về 
khả năng chống ăn mòn cao, hoặc sử dụng trong môi trường khắc nghiệt [3]. Bên cạnh 
đó, TRC cũng được xem là loại vật liệu phù hợp với các kết cấu nhẹ, bằng cách sử 
dụng TRC làm lớp vỏ chịu lực chính kết hợp với các vật liệu lõi truyền thống để tạo ra 
kết cấu sandwich có khả năng chịu tải và vượt nhịp lớn. 
Các lớp lõi của kết cấu sandwich được đề xuất sử dụng bê tông nhẹ có độ cứng 
tương đối lớn trong khi trọng lượng nhẹ sẽ làm giảm đáng kể trọng lượng bản thân của 
kết cấu mà vẫn đảm bảo tính ổn định cho lớp vỏ. 
Ở Việt Nam, kết cấu sandwich sử dụng TRC và bê tông nhẹ là một dạng kết cấu 
mới đang bước đầu được nghiên cứu. Để đánh giá được các tính năng cũng như khả 
năng khai thác của dạng kết cấu này đòi hỏi phải có nhiều nghiên cứu về quá trình 
thiết kế, chế tạo và ứng dụng trong công trình xây dựng dân dụng nói chung. Bài báo 
này trình bày kết quả nghiên cứu uốn bốn điểm với các dầm sandwich để đánh giá ứng 
xử chịu uốn của dạng dầm sandwich này. 
2. NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM ỨNG XỬ CHỊU UỐN CỦA DẦM 
SANDWICH 
2.1. Vật liệu 
Bê tông hạt mịn 
Bê tông hạt mịn sử dụng trong nghiên cứu được chế tạo từ hỗn hợp xi măng, cát 
quartz, bột quartz, muội silic, tro bay, phụ gia siêu dẻo và nước. Cốt liệu lớn được 
dùng là cát quartz có cỡ hạt lớn nhất là 0,6 mm. Điều này không chỉ đảm bảo khả năng 
dính bám tốt với lưới sợi dệt mà còn có thể tạo ra các lớp bê tông có kích thước nhỏ và 
chiều dày mỏng. 
Việc xác định các đặc trưng cơ học của bê tông hạt mịn được thực hiện theo tiêu 
chuẩn DIN EN 1015-11:2007-05 và tiêu chuẩn ASTM C469. Qua thực nghiệm, đánh 
giá kết quả dựa trên các chỉ dẫn của các tài liệu ACI 363R-10, các thông số cơ học của 
bê tông hạt mịn thu được như sau: cường độ chịu nén đặc trưng f’c = 64 MPa, cường 
độ chịu kéo khi uốn đặc trưng fr = 4,15MPa, mô đun đàn hồi Ec = 32 GPa. 
Lưới sợi dệt 
Lưới sợi dệt loại các bon sử dụng trong nghiên cứu này được sản xuất bởi hãng 
V.FRAAS (Đức), có mã SITgrid004KB, với kích thước mỗi tấm là 2 m × 1,25 m. 
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải 
-3- 
Lưới sợi có trọng lượng riêng là 1,82 g/cm3 , độ mịn 1600tex (1 tex = 1g / 1000 m). 
Các bó sợi được phủ lớp bọc polymer có nguồn gốc từ styrene butadine với hàm lượng 
phủ 15%. Cấu trúc lưới được dệt với các bó sợi theo phương 0°/90°, có kích thước 
hình học như trên Hình 1. 
Hình 1. Kích thước lưới sợi carbon 
Bê tông nhẹ 
Bê tông nhẹ sử dụng cốt liệu nhẹ keramzit có thành phần chủ yếu là sỏi keramzit, 
cát, xi măng, phụ gia siêu dẻo và nước. Bê tông nhẹ có khối lượng thể tích 1300 
kg/m3. Các đặc trưng cơ học của bê tông nhẹ được thực hiện theo tiêu chuẩn ASTM 
C39-01 và tiêu chuẩn ASTM C496-04. Sau khi phân tích và đánh giá kết quả theo tiêu 
chuẩn ACI 318-14, thu được các thông số cơ học của bê tông nhẹ như sau: cường độ 
chịu nén đặc trưng f’c = 18,5 MPa, cường độ ép chẻ fsp = 1,35 MPa, mô đun đàn hồi Ec 
= 6,8 GPa. 
2.2. Chế tạo mẫu thí nghiệm 
Trong nghiên cứu này, các dầm sandwich được ký hiệu là SW5 có 3 lớp vật liệu 
(Hình 2), gồm lớp vỏ chịu nén ở thớ trên bằng bê tông hạt mịn, kết hợp với lớp lõi 
bằng bê tông nhẹ và lớp vỏ chịu kéo thớ dưới bằng TRC sử dụng 3 lớp lưới sợi carbon. 
Với chuỗi thí nghiệm gồm 3 dầm sandwich có bề rộng dầm bằng 150 mm, chiều cao 
dầm bằng 100 mm được thí nghiệm uốn bốn điểm. Chiều dài dầm được chọn đảm bảo 
tỷ lệ chiều dài chịu cắt trên chiều cao dầm / 4a d = , với mục tiêu dầm sẽ bị phá hoại 
do uốn khống chế. 
Hình 2. Cấu tạo dầm sandwich
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải 
-4- 
Bảng 1. Kích thước chi tiết của các dầm sandwich (đơn vị: mm) 
Mẫu 
Bề 
rộng 
dầm 
Chiều cao tiết diện Chiều dài dầm 
Số 
lớp 
lưới 
Tổng 
chiều 
cao 
Bê 
tông 
hạt 
mịn 
Bê 
tông 
nhẹ 
Bê tông 
cốt lưới 
dệt 
Tổng 
chiều 
dài 
Khoảng 
cách 
giữa 2 
lực 
Khoảng 
cách từ 
lực đến 
gối đỡ 
Đầu 
mút 
thừa 
b h tt tc tb L L2 a L1 n 
SW5 150 100 10 74 16 1600 500 400 150 3 
2.3. Thiết lập thí nghiệm 
Các dầm được đặt vào hệ thống thiết bị thí nghiệm uốn bốn điểm, gia tải bằng kích 
thủy lực 1000 kN bằng phương pháp khống chế chuyển vị, với tốc độ 1 mm/phút tại 
phòng thí nghiệm Vật liệu và kết cấu xây dựng của trường Đại học Giao thông vận tải. 
Lực và độ võng giữa nhịp được đo bằng loadcell và LVDTs gắn ngoài Hình 3. 
Hình 3. Thiết lập thí nghiệm uốn 4 điểm với dầm sandwich 
Các lá điện trở đo biến dạng (strain gage) được gắn bề mặt bê tông tại một số vị trí 
như: đo biến dạng nén tại thớ trên (SG1), đo biến dạng kéo ở thớ dưới (SG2), đo biến 
dạng và kiểm tra có xuất hiện phá hoại trượt / bong tách tại các vị trí thay đổi vật liệu 
(SG3, SG4, SG5) trong quá trình thí nghiệm. 
2.4. Kết quả thí nghiệm 
Sau khi thí nghiệm, kết quả đo thu được từ các thiết bị sẽ được phân tích. Mối quan 
hệ giữa lực tác dụng và độ võng giữa nhịp được biểu diễn trên Hình 4, cấu trúc vết nứt 
cũng như dạng phá hoại của các mẫu thí nghiệm được biểu diễn trên Hình 5. Giá trị 
lực lớn nhất của các dầm sandwich thí nghiệm được trình bày ở Bảng 2. 
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải 
-5- 
Hình 4. Quan hệ lực và độ võng giữa nhịp của các dầm sandwich SW5 
Có thể thấy trên Hình 4, tất cả các dầm sandwich đều có chung dạng ứng xử chịu 
lực, gồm có 3 giai đoạn làm việc chính: Ở giai đoạn đầu tiên (giai đoạn I), cấu kiện 
chưa bị nứt, cấu kiện làm việc gần như đàn hồi tuyến tính. Do khả năng chịu kéo của 
bê tông là rất nhỏ nên, khi ứng suất kéo lớn hơn cường độ chịu kéo, vết nứt đầu tiên 
xuất hiện và lực kéo trong dầm tại vị trí vết nứt sẽ do cốt lưới dệt chịu. Quan sát trên 
mẫu thấy vết nứt đầu tiên xuất hiện khi lực nén đạt giá trị từ 7 đến 8 kN. Cùng với sự 
gia tăng của lực kéo, các vết nứt khác liên tục xuất hiện, độ cứng của kết cấu giảm 
mạnh (giai đoạn II). Sự phân bố vết nứt, bao gồm khoảng cách giữa các vết nứt và bề 
rộng vết nứt, được quyết định định bởi cốt lưới dệt, tính chất dính bám giữa cốt chịu 
lực và bê tông, và biến dạng phá hoại khi chịu kéo của bê tông nền. Đường cong lực và 
độ võng cho thấy, lực tác dụng chỉ tăng nhẹ từ 8 đến 12 kN trong giai đoạn hình thành 
nhiều vết nứt này. Trong giai đoạn vết nứt ổn định (giai đoạn III), hầu như không có 
vết nứt xuất hiện thêm. Khả năng chịu lực tăng nhanh cho đến khi ứng suất trong bó 
sợi đạt đến cường độ chịu kéo. 
Bảng 2. Lực lớn nhất của các dầm sandwich thí nghiệm (đơn vị kN) 
Dầm SW Mẫu 1 Mẫu 2 Mẫu 3 
Lực gia tải khi phá 
hoại trung bình 
SW5 21,8 18,5 20,1 20,1 
Dạng phá hoại cũng như cấu trúc vết nứt của các mẫu thí nghiệm được biểu diễn 
trên Hình 5. Các vết nứt thẳng góc xuất hiện đầu tiên ở phía dưới dầm, sau đó phát 
triển dần lên phía trên theo sự tăng của tải trọng tác dụng. Một trong số các vết nứt này 
sẽ phát triển nhanh về phía bê tông chịu nén và trở thành vết nứt chính gây phá hoại 
cho dầm. Tất cả các dầm đều xảy ra phá hoại do lưới sợi bị kéo đứt, trong khi bê tông 
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải 
-6- 
vùng nén không có dấu hiệu bị ép vỡ. Do đó, cấu kiện bị phá hoại theo mô hình phá 
hoại giòn, khi đạt đến biến dạng chịu kéo cực hạn của lưới sợi dệt. 
Hình 5. Cấu trúc vết nứt khi phá hoại của mẫu SW5-1 
3. NGHIÊN CỨU MÔ PHỎNG 
Phương pháp có độ tin cậy cao và hay được sử dụng hiện nay để mô phỏng ứng xử 
của kết cấu là phương pháp phần tử hữu hạn với các phần mềm chuyên dụng. Trong 
khuôn khổ nội dung nghiên cứu này, phần mềm được sử dụng để mô phỏng ứng xử 
của kết cấu sandwich bằng bê tông hạt mịn và bê tông nhẹ là phần mềm ATENA của 
hãng Cervenka. Dầm SW5 được hiện nghiên cứu mô phỏng với các thông số giống với 
mẫu thí nghiệm. Do tính chất đối xứng về kết cấu và tải trọng nên chỉ một nửa dầm 
được thực hiện mô phỏng. 
Bê tông là vật liệu phức hợp có đặc tính chịu lực phức tạp. Để phản ánh chính xác 
sự làm việc của kết cấu, mô hình vật liệu bê tông cần phản ánh khả năng làm việc đàn 
dẻo khi chịu nén và nứt khi chịu kéo của nó. Trong phần mềm Atena, bê tông được mô 
tả bằng các mô hình phi tuyến. Phương trình mô tả quan hệ ứng suất – biến dạng của 
bê tông khi chịu nén được sử dụng là phương trình Thorenfeldt với cường độ chịu nén 
là 
c
f ¢ và sự làm việc của bê tông khi chịu kéo được mô hình hoá theo quy luật do 
Hordijk đề xuất với cường độ chịu kéo được xác định từ cường độ chịu nén. Hình 6 
thể hiện các thông số cần khai báo tương ứng với bê tông hạt mịn có cường độ chịu 
nén 64
c
f MPa¢= và bê tông nhẹ có cường độ chịu nén 18, 5
Lc
f MPa¢ = . 
Hình 6. Khai báo vật liệu bê tông trong phần mềm ATENA 
Lưới sợi dệt là loại vật liệu có tính chất đàn hồi – giòn. Ứng suất kéo tăng gần như 
tuyến tính, sau khi đạt ứng suất kéo cực đại, lưới sợi dệt bị phá hoại ngay lập tức. Hình 
7 thể hiện các thuộc tính mối quan hệ ứng suất – biến dạng của lưới sợi dệt, không có 
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải 
-7- 
giai đoạn biến dạng dẻo trước khi bị phá hoại. Sau khi đạt đến cường độ chịu kéo, ứng 
suất giảm đột ngột về không, thể hiện sự phá hoại giòn của vật liệu này. 
Hình 7. Mô hình hoá lưới sợi dệt 
Để phản ánh chi tiết sự làm việc của các cấu kiện, phần lõi bê tông nhẹ được mô 
hình hoá bằng các phần tử khối (solid) bậc cao có dạng tứ diện hay lục diện. Phần bê 
tông các lớp vỏ được mô hình hóa bằng phần tử tấm vỏ (shell). Trong khi đó, cốt lưới 
dệt được mô hình hoá bằng phần tử cốt thép (reinforcement). Trong mô hình này, liên 
kết giữa các nút của phần tử bê tông và các nút cốt sợi dệt được tạo ra tự động Hình 8. 
Hình 8. Mô hình rời rạc hóa 
Để khảo sát ứng xử của kết cấu, lực gia tải theo phương đứng tác dụng tăng dần từ nhỏ 
đến khi kết cấu bị phá hoại. Phương pháp phân tích lặp được lựa chọn là phương pháp 
Newton-Raphson cải tiến. Các kết quả mô phỏng và kết quả thí nghiệm được thể hiện 
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải 
-8- 
trên cùng một biểu đồ để so sánh, kiểm chứng sự làm việc của kết cấu sandwich bằng 
TRC – LC. Trên Hình 9 thể hiện kết quả mô hình dầm dài SW5. 
Hình 9 cho thấy sự tương đồng giữa kết quả mô phỏng và thực nghiệm của dầm 
sandwich. Có thể thấy, ở thời điểm phá hoại, giá trị tải trọng giữa mô phỏng và thực 
nghiệm gần như bằng nhau, chuyển vị của các đường cong thực nghiệm và mô phỏng 
cũng khá phù hợp với nhau. Sai số của giá trị khả năng chịu lực giữa kết quả thực 
nghiệm và mô phỏng khá nhỏ. Sự khác biệt giữa kết quả mô phỏng và kết quả thí 
nghiệm là đường cong lực – chuyển vị của các dầm mô phỏng không thể hiện được 
các điểm suy giảm đột ngột, liên tục của lực tác dụng, do chưa xét đến ảnh hưởng của 
việc các vết nứt xuất hiện và mở rộng tới sức kháng của dầm. Ngoài ra, giá trị lực phá 
hoại mẫu trong thực nghiệm phân tán và sai khác với giá trị lực phá hoại trong mô 
hình mô phỏng, nguyên nhân do sự làm việc thực tế của cốt sợi dệt không đồng nhất. 
Hình 9. Quan hệ lực – chuyển vị tại giữa nhịp của dầm sandwich SW5 
Quan sát cấu trúc vết nứt trên mô hình mô phỏng SW5 (Hình 10), các vết nứt đầu 
tiên là các vết nứt thẳng góc xuất hiện trên lớp TRC phía dưới ở giữa dầm. Khi tải 
trọng tăng, các vết nứt thẳng góc xuất hiện nhiều hơn, phân bố chủ yếu ở khu vực giữa 
dầm, chiều cao vết nứt phát triển dần lên phía trên dầm. Quá trình tăng tải trọng làm 
tăng số lượng và sự mở rộng vết nứt. Tại thời điểm phá hoại, vết nứt thẳng góc ở giữa 
dầm mở rộng và phát triển từ biên chịu kéo lên biên chịu nén của dầm. Đây là vết nứt 
chính gây phá hoại cho dầm. Có thể nhận thấy, sự phát triển vết nứt trên mô hình mô 
phỏng khá phù hợp với quá trình hình thành và phát triển vết nứt trên mô hình thực 
nghiệm. Dạng phá hoại của dầm SW5 là phá hoại do uốn. 
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải 
-9- 
Hình 10. Cấu trúc vết trên mô hình mô phỏng dầm SW5 
Quan sát ứng suất trên mô hình tại thời điểm phá hoại trênHình 11. Ứng suất kéo 
lớn nhất trong cốt lưới dệt đạt 2692 MPa và ứng suất nén lớn nhất trong bê tông hạt 
mịn ở phía trên đạt 52 MPa. Như vậy, dầm sandwich bị phá hoại khi cốt lưới dệt bị đứt 
trước khi lớp bê tông hạt mịn vùng nén bị phá hoại. Mẫu bị phá hoại khi lực nén đạt 
giá trị 19,4 kN. 
Hình 11. Ứng suất trên mô hình SW5 tại thời điểm phá hoại 
4. KẾT LUẬN 
Các kết quả nghiên cứu cho thấy, ứng xử của kết cấu sandwich trong các thí nghiệm 
chịu uốn bốn điểm khá tương đồng với ứng xử của kết cấu dầm bê tông cốt thép không 
có cốt đai. 
Các thí nghiệm dầm chịu uốn bị phá hoại khi cốt sợi bị đứt trước. Tất cả các mẫu thí 
nghiệm đều không xảy ra hiện tượng bong tách giữa các lớp vật liệu. Điều này chứng 
tỏ, khả năng dính bám giữa bê tông hạt mịn và bê tông nhẹ rất tốt, đảm bảo được sự 
làm việc đồng thời giữa các lớp vật liệu này trong kết cấu sandwich. 
Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải 
-10- 
Các kết quả mô phỏng của kết cấu sandwich cho ứng xử tương đồng với kết quả 
thực nghiệm. Giá trị lực trong mô phỏng nhỏ hơn giá trị lực thí nghiệm nén trung bình 
khoảng 3,48%. Sự sai lệch kết quả giữa mô phỏng và thực nghiệm do nhiều nguyên 
nhân, đó là do sự sai khác về tính đồng nhất của vật liệu trong thực tế và trong mô 
phỏng, một số sai số trong quá trình thực nghiệm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Ali Shams, Josef Hegger, Michael Horstmann: An analytical model for sandwich 
panels made of textile-reinforced concrete, Construction and Building Materials, 
Volume 64, P. 451-459, ISSN 0950-0618, 2014. 
[2]. Ali Shams, Michael Horstmann, Josef Hegger: Experimental investigations on 
Textile-Reinforced Concrete (TRC) sandwich sections, Composite Structures, 
Volume 118, P. 643-653, ISSN 0263-8223, 2014. 
[3]. Hegger, J., N. Will: Textile Reinforced Concrete - A new Composite Material. 
Advances in Construction Materials 2007, Springer Berlin Heidelberg, P. 147-156, 
2007. 
[4]. Manfred Curbach, SFB 528: Textile Bewehrungen zur Bautechnischen 
Verstärkung und Instandsetzung, Arbeits- und Ergebnisbericht für die Periode 
II/1999 - I/2002, 2002. 
[5]. ACI: “ACI 549.4R-13: Guide to Design and Construction of Externally Bonded 
Fabric-Reinforced Cementitious Matrix (FRCM) Systems for Repair and 
Strengthening Concrete and Masonry Structures”, American Concrete Institute, 
2013. 
[6]. ACI 440.2R-08: Guide for the Design and Construction of Externally Bonded FRP 
Systems for Strengthening Concrete Structures, American Concrete Institute, 
Farmington, 2008. 
[7]. Vu Van Hiep, Ngo Dang Quang, Nguyen Thi Tuyet Trinh, Nguyen Huy Cuong, 
experimental analysis of sandwich panels using textile reinforced concrete faces 
and light weight concrete core, Science Journal of Transportation, No. 08, 2017. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_ung_xu_chiu_uon_cua_dam_sandwich_su_dung_be_tong.pdf
Ebook liên quan