Nhà nước pháp quyền là tinh thần pháp luật hay là đúng quy trình?

Tóm tắt Nhà nước pháp quyền là tinh thần pháp luật hay là đúng quy trình?: ...Tinh thần đó có như ngày nay phải trải qua nhiều thế kỷ, từ những tư tưởng của Aristote của nền triết học cổ đại Hy lạp cho tới ngày nay với văn bản Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc và các Công ước về quyền con người kèm theo của Liên Hợp quốc. Tất cả đều nhằm vào thể hiện các yếu...ơ quan lập pháp. Theo đó các cơ quan hành chính nêu ra những tiêu chuẩn sẽ được áp dụng trong tương lai và việc tuân thủ chung là bắt buộc, giống như việc tuân thủ một Đạo luật. Một điều quan trọng không kém là không chỉ các công dân bị ràng buộc bởi các quy định của cơ quan hành chính...ưởng dụng những thứ xưa nay vẫn được công nhận là thiết yếu do sự mưu cầu N.Đ. Dung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 54-61 59 hạnh phúc của con người tự do" [4]. Mưu cầu hạnh phúc của con người là lý do bảo vệ các quyền tự do - mục đích mưu cầu hạnh phúc được dùng ...

pdf8 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 358 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Nhà nước pháp quyền là tinh thần pháp luật hay là đúng quy trình?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thủ Pháp luật, mà còn phải là thượng tôn 
Pháp luật - tinh thần Pháp luật 
Nhưng nhiều khi việc tuân thủ Pháp luật 
thực định một cách nghiêm túc, cũng không 
thể hiện đúng các yêu cầu của nhà nước Pháp 
quyền. Vì một thực tế luật pháp do con người 
làm ra, con người có thể khuyết tật, thì luật 
pháp của nó cũng có thể có khuyết tật. Không 
phải cứ làm ra Luật và áp dụng luật là có pháp 
quyền (Rule of Law hay Etat de Droit). Bởi 
một lẽ đơn giản rằng, nhiều khi chính đạo luật 
không hợp với pháp quyền. Pháp quyền/ Pháp 
trị là nói theo nghĩa của ý niệm “Rule of Law” 
của Anh Mỹ, tức là cai trị theo quy định của 
luật pháp (không theo quy định của mỗi 
người), theo nghĩa của thuật ngữ “Supremecy 
of Law” là thượng tôn luật pháp (luật pháp là 
trên hết). Pháp quyền/ Pháp trị lấy ý niệm 
“Etat de Droit” của người Pháp thì nhấn mạnh 
vào tư tưởng “Nhà nước pháp quyền” nghĩa là 
chính quyền phải hình xử theo những tiêu 
chuẩn của luật pháp chứ không theo ý muốn 
của người cầm quyền hay Đảng cầm quyền. 
Câu chữ thì khác nhau vì, tiếng khác nhau và 
văn hóa khác nhau, nhưng giữa chúng vẫn có 
sự chung nhau. Đó là nguyên tắc, tinh thần 
pháp luật còn đứng cao hơn cả các quy định 
của Luật pháp. 
Tính cách tổng quát của ý niệm Pháp 
quyền thường đưa đến sự tùy tiện giải thích 
của Nhà cầm quyền mỗi nước, nên ta cần nêu 
nên những yếu tố đích thực của ý niệm này để 
thấy lợi ích của nó cũng như vì sao lại không 
thể dễ dàng lạm dụng một ý niệm cao quý của 
Pháp quyền đã được hun đúc từ hàng trăm năm 
nay.
.
 Không phải cứ làm ra các Đạo luật rồi áp 
dụng là có Pháp quyền, vì khi chính xác các 
Đạo luật không hợp Hiến, hợp pháp, trái với 
luật tự nhiên (natural law) thì ngay chính Luật 
pháp tự nó đã không tạo ra Pháp quyền theo 
đúng tinh thần của Pháp quyền.. 
Sự không tuân thủ công lý của tinh thần 
Pháp luật cũng như Luật của tự nhiên trong 
một xã hội không Pháp quyền đã được James 
Otisơ luật sư bang Massachusetts thế kỷ 18 đã 
cảnh báo như sau: 
N.Đ. Dung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 54-61 
56
“Luật tự nhiên không phải do con người 
tạo ra, mà con người cũng không có quyền sửa 
đỏi luật đó. Con người chỉ có thể tuân theo và 
thi hành luật đó hoặc chống lại và vi phạm 
luật. Nhưng không bao giờ hành động chống 
lại hoặc vi phạm như vậy lại không bị trừng 
phạt; ngay cả trong cuộc đời này, sự trừng 
phạt có thể dưới hình thức khiến cho con 
người trở nên sa đọa, hay cảm thấy mình, vì sự 
điên rồ và độc ác của mình. Đã bị đào thải ra 
khỏi tập thể của những người tốt và đạo đức 
(và bị đẩy) xuống hang thú vật, hay là từ 
cương vị là người bạn, và có lẽ là người cha 
của đất nước đã biến thành loài hung bạo như 
sư tử, hùm beo” [2]. 
3. Nhà nước pháp quyền không chỉ tuân thủ 
Pháp luật, mà còn là quy trình Tố tụng chuẩn, 
hợp lý, hợp pháp của các cơ quan nước 
Không phải cứ làm ra các Đạo luật rồi áp 
dụng là có Pháp quyền, vì khi các Đạo luật 
không hợp hiến, hợp pháp, trái với Luật tự 
nhiên (natural law) thì ngay chính Luật pháp 
tự nó đã không tạo ra tinh thần Pháp quyền. 
Tinh thần đó có như ngày nay phải trải qua 
nhiều thế kỷ, từ những tư tưởng của Aristote 
của nền triết học cổ đại Hy lạp cho tới ngày 
nay với văn bản Tuyên ngôn nhân quyền của 
Liên hợp quốc và các Công ước về quyền con 
người kèm theo của Liên Hợp quốc. Tất cả đều 
nhằm vào thể hiện các yếu tố:1) Luật pháp là 
tối thượng đối với nhà cầm quyền cũng như 
với dân chúng; 2) Sự độc lập của ngành tư 
pháp trong sự phân quyền (hành pháp, lập 
pháp và tư pháp độc lập đối với nhau); 3) Sự 
thi hành luật pháp phải minh bạch trong thủ 
tục; và 4) Nhu cầu bảo vệ quyền con người 
được đề cao, luật pháp phải phù hợp với tiêu 
chuẩn quốc tế về quyền con người. 
Điểm thứ nhất và thứ hai không cần phải 
bàn nhiều, vì đã có quá nhiều bài viết. Nhưng 
điểm thứ ba và thứ tư liên quan đặc biệt đến 
luật lệ về thủ tục (procedural laws) như thủ tục 
giam giữ trước khi ra tòa, với mục tiêu bảo vệ 
quyền con người trước mọi hành vi quyền lực 
nhà nước (Những điểm rất ít khi hoặc hầu như 
không được bàn đén trong các sách báo ở Việt 
Nam). Một quyết định của cơ quan công 
quyền, một hành vi chính phủ, dù căn cứ vào 
một đạo luật cũng có thể không chính đáng -
một yêu cầu của các hành vi chính quyền trong 
nhà nước pháp quyền, nếu chính đạo luật 
không chính đáng. 
Khái niệm “due process of law” (phổ biến 
trong luật pháp ở các nền kinh tế thị trường) có 
thể được dịch là “quá trình hợp pháp” để nói 
lên một ý nghĩ rằng một đạo luật hay một quy 
tắc lập quy, hay một hành vi của cơ quan công 
quyền có chính đáng hay không, thì phải xét 
qua một quá trình gồm hai phần: một phần là 
tính hợp lý hay chính đáng về nội dung, và 
phần thứ hai là tính chính đáng của quyền lực 
nhà nước về mặt thủ tục. 
Ở hệ thống luật pháp Hoa Kỳ, Anh Quốc 
và các nền kinh tế thị trường khác, căn bản của 
ý niệm quá trình hợp pháp về thủ tục là mọi 
quyết định hay hành vi xâm phạm đến “quyền 
tự do" cần có một thủ tục thông báo rõ ràng, 
công khai, mới được coi là chính đáng, phù 
hợp với quá trình hợp pháp về thủ tục. Tu 
chính án Thứ Năm trong bản Hiến pháp Hoa 
Kỳ quy định: “Không một cá nhân nào bị tước 
mạng sống, tự do, tài sản mà không theo đúng 
quy trình thủ tục tố tụng.” Cùng một nội dung 
như vậy, Tu chính án Thứ Mười bốn còn làm 
rõ hơn trách nhiệm của chính quyền khi hành 
động: “Không một chính quyền nào được tước 
mạng sống, tự do, hay tài sản của người dân 
mà không theo đúng thủ tục tố tụng.” Thủ tục 
N.Đ. Dung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 54-61 57
tố tụng theo quy định của pháp luật còn phải 
tuân theo một nguyên tắc lớn hơn. Đó là công 
lý theo thủ tục. Có hai loại công lý: công lý 
theo bản thể (nội dung) và công lý theo thủ tục. 
Nếu công lý theo bản thể (nội dung) chỉ kết 
quả đáp số phần cuối cùng mà mọi người 
mong muốn, thì công lý theo thủ tục không 
quan tâm đến kết quả, mà chỉ quan tâm đến 
vấn đề tiến trình. Thí dụ, với một vụ án có kẻ 
giết người, công lý theo nội dung chỉ quan tâm 
đòi hỏi kẻ sát nhân phải được trừng trị. Tuy 
nhiên, nếu cảnh sát dùng các biện pháp tra tấn 
khiến kẻ sát nhân phải nhận tội, và chỉ nhờ vào 
lời khai của kẻ sát nhân mà cảnh sát tìm ra 
được những bằng chứng giết người, thì theo 
công lý thủ tục, tòa án không thể tuyên bố kẻ 
sát nhân đó phạm tội, vì qua trình tìm tội phạm 
đã vi phạm quyền căn bản của người đang bị 
tình nghi phạm tội. 
 Đó là trong lĩnh vực Tư pháp hình sự, hệ 
thống pháp luật của Mỹ hơn bất kỳ một hệ 
thống nào khác luôn luôn nhấn mạnh đến tính 
thủ tục hành chính, cơ quan trọng yếu của nhà 
nước thường xuyên liên quan trực tiếp đến 
quyền và lợi ích của người dân. Điểm khởi đầu 
cho sự nhấn mạnh này là yêu cầu của Hiến 
pháp về quy trình tố tụng đúng. “Khi chúng ta 
nói về việc lắng nghe phía bên kia (audi 
alteram partem) là chúng ta đã đề cập đến nhận 
thức cơ bản đã ăn sâu bám rễ trong văn hoá 
pháp lý Anh - Mỹ” [3], những nhận thức này 
giờ đây đã thành mệnh lệnh bắt buộc, được 
phát biểu dưới hình thức của quy trình tố tụng 
đúng. Được xây dựng trên nền tảng của quy 
trình tố tụng đúng luật pháp Mỹ đã tạo ra một 
khối vững chắc các thủ tục chính thức bắt buộc 
đối với các cơ quan thi hành các công việc của 
nhà nước liên quan đến quyền và lợi ích của 
người dân. Kết quả là sự “tư pháp hoá” của 
các cơ quan hành chính Mỹ, từ khi ra đời Uỷ 
ban Thương mại giữa các bang tới nay, phần 
lớn các quy trình hành chính của Mỹ đã được 
định hình theo khuôn mẫu của ngành tư pháp. 
Tuy nhiên cần lưu ý rằng việc áp dụng các 
đòi hỏi của quy trình tố tụng đúng trong các 
trường hợp cụ thể phụ thuộc vào từng chức 
năng của cơ quan hành chính nhất định đang 
thực thi. Ban hành quyết định của cơ quan 
hành chính là một hoạt động tương đương, quy 
trình ban hành một đạo luật của cơ quan lập 
pháp. Theo đó các cơ quan hành chính nêu ra 
những tiêu chuẩn sẽ được áp dụng trong tương 
lai và việc tuân thủ chung là bắt buộc, giống 
như việc tuân thủ một Đạo luật. Một điều quan 
trọng không kém là không chỉ các công dân bị 
ràng buộc bởi các quy định của cơ quan hành 
chính, mà chính bản thân các cơ quan hành 
chính cũng phải tuân thủ chúng. Theo quan 
điểm chung, các cơ quan tham gia vào việc ban 
hành các quyết định cũng phụ thuộc vào thủ 
tục quy định trong Hiến pháp và trong các đạo 
luật khác, với mức độ giống như cơ quan lập 
pháp ban hành một đạo luật. 
Yêu cầu về quy trình tố tụng đúng được 
diễn giải là đòi hỏi một phiên điều trần tranh 
biện chính thức - được gọi là điều trần về bằng 
chứng - trước khi đưa ra các quyết định hành 
chính có tác động bất lợi tới các cá nhân. 
Chính vì vậy, mà quy trình hành chính của Mỹ 
được định hình chủ yếu theo mô thức của 
ngành Tư pháp. Điều này có nghĩa là trước khi 
đưa ra các quyết định hành chính có ảnh hưởng 
bất lợi đến cá nhân, thì cá nhân đó được quyền 
có một phiên điều trần về bằng chứng, có 
nghĩa là một phiên điều trần gần giống như 
một phiên xét xử của toà án. Những cá nhân đó 
có những quyền như sau: 
- Được thông báo gồm cả danh sách cụ thể 
các đối tượng và vấn đề liên quan đến vụ việc; 
N.Đ. Dung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 54-61 
58
- Trình bày các bằng chứng cả lời khai, tài 
liệu và lập luận; 
- Bác bỏ các bằng chứng của đối phương, 
thông qua việc thẩm tra chéo và các biện pháp 
thích hợp khác; 
- Xuất hiện cùng với Luật sư; 
- Phán quyết đưa ra dựa trên các bằng 
chứng được ghi vào hồ sơ của phiên điều trần; 
- Có đầy đủ hồ sơ của phiên điều trần, bao 
gồm bản tốc ký lời khai và các ký lẽ nêu ra 
cùng các bằng chứng và tài liệu các giấy tờ 
khác được đệ trình trong quá trình xét xử và; 
- Được cơ quan giải thích cơ sở đưa ra 
quyết định của nó - một biện pháp quan trọng 
để bảo đảm rằng cơ quan tuân thủ luật pháp, 
trong phạm vi quyền tự quyết rộng rãi dựa trên 
sự việc, chính sách, và thậm chí cả trên các 
vấn đề pháp lý. 
Ngoài việc hiểu là một quy trình chuẩn, 
thuật ngữ “due process” ở Mỹ quốc còn được 
hiểu như là một sự hợp lý để xét một Đạo luật 
hay một hành vi của chính quyền. Sự vi phạm 
vì nhu cầu chính đáng được chia làm ba loại: 
- Nhu cầu chính đáng vì hợp lý 
- Nhu cầu chính đáng vì đó là nhu cầu 
quan trọng 
- Nhu cầu chính đáng vì bức thiết. 
Nhu cầu chính đáng vì hợp lý: Đây là 
tiêu chuẩn tối thiểu dễ nhất cho chính quyền. 
Chính quyền chỉ cần chứng minh rằng Đạo 
luật hay quyết định hành chính là hợp lý (vì 
căn cứ vào một nhu cầu hay quyền lợi hợp lý 
của chính quyền) mặc dù hành vi đó có thể 
vi phạm nguyên tắc “quá trình hợp pháp” về 
nội dung, và có thể làm thiệt hại quyền lợi 
một số người. Tiêu chuẩn rộng rãi này chỉ áp 
dụng cho những đạo luật hay hành vi hành 
chính có tính cách kinh tế. Thí dụ quy định 
thu hồi số tiền thuế mà người chịu thuế tránh 
được trước kia do lợi dụng một vài sơ hở 
trong Luật thuế. Các quyết định này được coi 
là có cơ sở hợp lý của chính quyền. 
Nhu cầu hay lợi ích quan trọng: Nhu cầu 
này áp dụng đối với những luật lệ liên quan 
đến sự phân biệt nam nữ. Với nhu cầu này 
chính quyền chỉ cần chứng tỏ quyết định của 
Nhà nước được ban hành vì liên quan đến một 
“lợi ích quan trọng”. Ví dụ, Luật nghĩa vụ 
quân sự chỉ áp dụng đối với nam thanh niên, 
tức là có kỳ thị và nằm trong tình trạng vi 
phạm quyền bình đẳng về giới, được coi là hợp 
lý và công bằng, vì căn cứ vào một nhu cầu 
quan trọng: Bảo vệ nữ thanh niên không phải 
ra trận. Họ thuộc phái yếu nhưng hoàn toàn 
ngược lại với quyết định nêu trên, quyết định 
trường hộ sinh được Chính phủ trợ cấp chỉ thu 
nhận học viên nữ là trái luật, vì sự phân biệt 
này không phù hợp với “due process of law”. 
Với cùng một lập luận này, quy định của các 
trường quân sự chỉ nhận học viên nam giới là 
trái luật. 
Nhu cầu ích lợi bức thiết của nhà nước: 
Đây là nhu cầu rất khó khăn để phán xét một 
Đạo luật hay quyết định được coi là chính 
đáng của chính quyền - yêu cầu này được áp 
dụng khi một Đạo luật hay quyết định có liên 
quan đến các quyền căn bản của người dân, 
như quyền tự do kết hôn, tự do ngôn luận, tự 
do lập chính Đảng và các quyền tự do căn bản 
khác. Khái niệm quyền “tự do” theo luật pháp 
của các nước phát triển phương Tây theo chế 
độ dân chủ tự do, nhất là luật pháp của Mỹ là 
rất rộng, không phải chỉ là sinh sống tự do 
“không sợ bị bắt bớ trái phép như nghĩa thông 
thường mà bao gồm quyền tự do kết ước, 
quyền theo đuổi nghề nghiệp trong đời sống, 
quyền thu nạp kiến thức như đi học, quyền kết 
hôn, tạo lập gia đình và nuôi nấng con cái, 
quyền thờ phụng thượng đế, và nói chung đó là 
quyền hưởng dụng những thứ xưa nay vẫn 
được công nhận là thiết yếu do sự mưu cầu 
N.Đ. Dung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 54-61 59
hạnh phúc của con người tự do" [4]. Mưu cầu 
hạnh phúc của con người là lý do bảo vệ các 
quyền tự do - mục đích mưu cầu hạnh phúc 
được dùng trong tuyên ngôn độc lập của Hoa 
Kỳ. Bên cạnh sự giải thích trong các bản án về 
khái niệm quyền tự do trong thí dụ trên, quyền 
tự do căn bản thường được minh thị công nhận 
trong hiến pháp của nhiều nước theo kinh tế thị 
trường. Đó là quyền tự do ngôn luận, tự do hội 
họp và lập chính đảng, tự do tôn giáo. 
Khi xét xử các Đạo luật hay hành vi của 
chính quyền liên quan đến việc giới hạn các 
quyền tự do căn bản nói trên thì Tòa án tối cao 
Hoa Kỳ, cũng như các tòa án khác rất thường 
hay mở rộng phạm vi các biểu hiện của quyền, 
nghĩa là thường dễ bác bỏ thỉnh cầu của chính 
quyền để bảo vệ quyền tự do của người dân, 
nếu chính quyền không nêu đủ lý do rằng hành 
vi của chính quyền là do nhu cầu bức thiết. 
Thí dụ, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã phán quyết 
các tiểu bang không được quy định bắt buộc 
trẻ em phải chào cờ hay phát biểu, như suy tôn, 
hô to, đồng thanh, v.v... lời trung thành với lá 
cờ Hoa Kỳ. Đây là phán quyết có ý nghĩa bảo 
vệ quyền tự do ngôn luận, quyền phát biểu ý 
kiến bằng lời nói hay hành động, quyền này 
bao gồm quyền phát biểu hoặc quyền không 
phát biểu (không chào cờ). Trong phán quyết 
này, chính quyền tiểu bang đã không chứng tỏ 
được, vì sao một học sinh không chào cờ của 
Hoa kỳ thì sẽ vi phạm “quyền lợi bức xúc” của 
cộng đồng mà chính quyền là đại diện [5]. Ở 
một xã hội khác trọng lễ nghi, biểu tượng hơn 
và ngay ở Hoa Kỳ ở một thời điểm khác, hành 
vi bắt buộc chào cờ trước khi vào lớp có thể 
được coi là quy định “hợp pháp về nội dung" 
(substantive due process). Án lệ nêu trên 
không nhằm khuyến khích nên theo phong 
cách, tư tưởng tự do như ở Hoa Kỳ về việc 
này, mà nhằm đưa ra một thí dụ, một khi quyết 
định của chính quyền có khả năng vi phạm 
quyền tự do của người dân, thì Tư pháp - Tòa 
án giải quyết vụ việc phải tính đến mọi khía 
cạnh của Quyền. Quyền tự do ngôn luận gồm 
không những quyền biểu hiện mà cả quyền 
không biểu hiện. Nhu cầu bức thiết thường 
được phía chính quyền suy rộng và nại ra để 
biện minh cho các đạo luật, hay quyết định của 
mình. Trong khi đó các cơ quan Tư pháp xem 
xét vụ việc liên quan đến quyền của người dân 
phải có trách nhiệm cẩn trọng với xu hướng 
thu hẹp phạm vi các quyền người dân của 
chính quyền. Nhu cầu hay quyền lợi bức xúc 
của chính quyền cần phải chứng minh cụ thể 
trực tiếp và rõ ràng. 
Chính nhờ có những tiêu chí phức tạp như 
phân tích ở phần trên, mà tòa án có căn cứ để 
phán quyết tính chính đáng hành vi của chính 
quyền trong ý niệm chung “quá trình hợp 
pháp” (due process) của các đạo luật hay hành 
vi của nhà nước bị chỉ trích là xâm phạm các 
quyền tự do căn bản của công dân. 
Với những yếu tố nêu trên, bên cạnh việc 
tuân thủ nghiêm chỉnh các Đạo luật, là việc 
gạt đi những phần không đúng tinh thần Pháp 
luật và đồng thời lấp đi những chỗ trống vắng 
theo tinh thần “due process”, luôn luôn tạo ra 
một hệ thống pháp luật được thi hành thống 
nhất, mọi chủ thể trong xã hội trong đó có cả 
người cầm quyền cũng phải tuân thủ. Đó là 
Nhà nước pháp quyền của họ. 
4. Việc xây dựng tinh thần Pháp luật và quy 
trình chuẩn (“due process) ở Việt Nam 
Kể từ khi có công cuộc đổi mới và xây 
dựng một nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã 
cố gắng rất nhiều trong việc xây dựng một hệ 
thống Pháp luật. Theo nhận định của không ít 
người; Ở Việt Nam có hệ thống Pháp luật, 
nhưng nhiều khi người ta không tuân theo luật, 
tạo thành 2 hệ thống luật pháp (dual legal 
N.Đ. Dung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 54-61 
60
system), một hệ thống chính thức gồm những 
văn bản và một hệ thống không chính thức 
hình thành bằng sự thực thi luật lệ trong thực 
tế - "luật lệ thực tế” (real laws) như cách nói 
của một số nhà nghiên cứu. Loại hệ thống luật 
không chính thức này không phải chỉ ở Việt 
Nam, mà có ở nhiều nước châu Á khác, chỉ 
khác nhau ở mức độ phổ biến. Ở Việt Nam 
mức độ này rất cao, thường ít ai tin tưởng hoàn 
toàn vào hệ thống chính thức, khi có việc vẫn 
cần tìm hiểu hệ thống không chính thức để “bổ 
sung” tạo nên hiệu quả thành công. Hai hệ 
thống này thường đi song hành với nhau khi áp 
dụng tùy ở người thi hành và tùy hoàn cảnh cụ 
thể của từng vụ việc. 
Bên cạnh việc không chấp hành đúng các 
quy định của Pháp luật thành văn, là việc 
không chấp hành đúng tinh thần pháp luật và 
tính chính đáng theo nguyên tắc “due process” 
của Nhà nước pháp quyền. Chính vì lẽ đó nên 
khi có hiện tượng vi phạm đến quyền và lợi ích 
chính đáng của người dân xảy ra, các quan 
chức đều có thể viện dẫn rằng họ làm đúng 
luật và đúng quy trình, để trốn tránh trách 
nhiệm của mình. Và cách hiểu này được giải 
thích là họ đã làm đúng theo quy định của 
pháp luật. Đại biểu Quốc hội Nguyễn Sỹ 
Cương đã phải thốt lên rằng: “Thật lạ lùng là 
cái gì cũng đúng quy trình! Tiêm chết người 
rồi vẫn khẳng định là... đúng quy trình, bỏ tù 
oan đến cả 10 năm vẫn... đúng quy trình, bỏ lọt 
230 kg ma túy qua cửa khẩu vẫn... đúng quy 
trình. Tôi cho rằng đấy chỉ là sự biện hộ và rũ 
bỏ trách nhiệm một cách vô cảm [6]. 
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp 
quyền ở Việt Nam, danh chính ngôn thuận bắt 
đầu từ việc sửa đổi Hiến pháp 1992 năm 2001, 
khi Điều 2 của Hiến pháp này quy định: “Nhà 
nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội 
chủ nghĩa”, thì thuật ngữ “tinh thần pháp 
luật” và nhất là “due process” chưa bao giờ 
được nhắc đến cho dù chỉ là một lần trong các 
tiểu luận khoa học hay một lời phát biểu ở các 
Hội nghị khoa học của các nhà khoa học pháp 
lý Việt Nam. 
Trong quá trình rà soát các Đạo luật hay 
trong hệ thống Pháp luật, cùng các hành vi 
công quyền, cơ quan nhà nước cũng cần 
nghiên cứu các chỉ tiêu tinh thần pháp luật và 
khái niệm “due process of law" cần tham khảo 
và áp dụng khai để có thể xử lý một cách nhất 
quán và hữu hiệu. Có như vậy thì mới có cơ 
hội xóa bỏ đi sự hình thành hai hệ thống Pháp 
luật ở Việt Nam và sẽ có cơ hội cho việc hình 
thành Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Hoàng Thị Kim Quế, Nhận diện nhà nước pháp 
quyền, tháng 8 năm 2004, Tạp chí Cộng sản, Báo 
điện tử Cộng sản Việt Nam. 
[2] James Otis ( 1725 -1783). 
[3] In re Andrea B., 405 NY. S. ed. 977 tại 981 
(Fam. Ct.1978). 
[4] Vụ Mayer chống tiểu bang Nebraska - 1923. 
[5] Vụ cơ quan giáo dục Virginia kiện Bametle, 
1943. 
[6] Nguyễn Sĩ Cương, Thật lạ lùng cái gì cũng đứng 
quy trình, Vn Economy 21 tháng 1 năm 2014. 
[7] Tuệ Hoan: Thanh niên ONLINE 10.12.2013.
N.Đ. Dung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 54-61 61
Is the Rule-of-law State the Spirit of Law or in Conformity 
with the Process of Proceedings? 
Nguyễn Đăng Dung 
VNU School of Law, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam 
Abstract: The rule-of-law State is not simply the compliance of statuory law, but the compliance 
of the spirit of law and the standard process of proceedings. 

File đính kèm:

  • pdfnha_nuoc_phap_quyen_la_tinh_than_phap_luat_hay_la_dung_quy_t.pdf
Ebook liên quan