Nội dung kiến thức thông tin – Information Literacy

Tóm tắt Nội dung kiến thức thông tin – Information Literacy: ... mà cơ quan trực tiếp quản lý, người ta đã chia các cơ quan này thành 5 loại chính: 1) Các cơ quan chủ yếu lưu giữ các xuất bản phẩm1. 2) Các cơ quan chủ yếu lưu giữ và tạo lập các tư liệu khoa học2. 3) Các cơ quan chủ yếu lưu giữ và tạo lập các loại ấn phẩm phân tích- tổng hợp thô...hệ thống từ vựng và các quy định về sự liên kết các đơn vị từ vựng để biểu diễn các lệnh tìm đối với người dùng tin. Tuy rằng các nhà quản trị và thiết kế các hệ thống thông tin luôn hướng đến tạo nên sự đơn giản, thân thiện đối với người tìm, song do bản chất phức tạp và không thể t...OCLC đưa ra CSDL quản trị DDC, và gọi là Web Dewey. Sau này, đối với các hệ thống khác, cần hiểu một cách đầy đủ về các CSDL phản ánh ngôn ngữ tư liệu, như CSDL quản trị thesaurus, quản trị các loại bảng phân loại được sử dụng cũng như quản trị hệ thống đề mục chủ đề tức là mọi l...

pdf7 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Nội dung kiến thức thông tin – Information Literacy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thông tin và bản thân nhu cầu khai thác, 
sử dụng thông tin trong mọi lĩnh vực 
hoạt động của mình. 
Trong điều kiện và bối cảnh các 
nguồn thông tin số hóa gia tăng đột biến, 
thì người dùng tin trực tiếp phải tự tìm 
cách khai thác, lựa chọn và tiếp cận đến 
các nguồn thông tin mà mình cần. Khi 
một vấn đề nào đó của cuộc sống đặt ra, 
thì con người luôn cần tự phải biết hình 
thành cho mình được nhu cầu thông tin - 
biết cách biểu đạt nhu cầu đó. Từ đó, sẽ 
hình thành nên cho họ một định hướng 
cho việc tìm ra các giải pháp nhằm thỏa 
mãn nhu cầu thông tin của mình. Khi con 
người có thể khai thác, truy cập được 
mọi nguồn tài nguyên thông tin tại mọi 
nơi và vào mọi lúc, thì không phải người 
dùng tin luôn có được sự trợ giúp của các 
chuyên gia thông tin theo như những 
phương thức truyền thống trước kia. Khi 
việc khai thác, sử dụng thông tin có thể 
mang đến cho mỗi cá nhân hay cộng 
đồng những lợi ích quan trọng cũng như 
có thể đem đến cả những thách thức hay 
rủi ro khó lường hết được, thì thái độ, 
hành vi sử dụng thông tin trở thành 
nội dung chuẩn mực đạo đức của con 
người trong xã hội thông tin. 
Ðó chính là các vấn đề của kiến 
thức thông tin. 
Người ta nhận ra rằng, mỗi người, 
tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức, sự 
hiểu biết và kinh nghiệm của mình, 
có thể khai thác được các nguồn 
thông tin ở những mức độ khác nhau, 
có thể nhận được hay không nhận 
được các thông tin mà mình cần. Vì 
thế, mỗi người đều phải chú ý đến 
việc trau dồi và rèn luyện những tri 
thức và kỹ năng về thông tin, tức là 
bằng cách này hay cách khác, trang bị 
và làm giàu cho mình kiến thức thông 
tin. 
Kiến thức thông tin là sự hiểu 
biết, tri thức, kỹ năng; thái độ, các 
hành vi cụ thể của mỗi thành viên của 
cộng đồng, mỗi con người trong xã 
hội trong việc khai thác, sử dụng các 
nguồn/hệ thống thông tin. 
2. Kiến thức thông tin là một phạm trù 
luôn thay đổi, chịu sự tác động của 
nhiều yếu tố xã hội phức tạp, mà 
trước hết là vào nhu cầu, quy mô, 
trình độ ứng dụng các thành tựu khoa 
học, kỹ thuật vào các quá trình thông 
tin-thư viện; vào sự hình thành, phát 
NỘI DUNG 
KIẾN THỨC THÔNG TIN – Information Literacy 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2006 
22 
triển và phương thức hoạt động, vận 
hành của các nguồn/hệ thống thông tin, 
vào cách thức mà thông tin được sử dụng 
phục vụ các mục tiêu, lợi ích phát triển. 
Hoạt động thông tin càng phát triển thì 
trình độ kiến thức thông tin của con 
người trong xã hội càng được nâng cao. 
Trình độ của kiến thức thông tin sẽ là 
một trong những chỉ số quan trọng phản 
ánh mức độ thông tin được sử dụng trong 
mỗi xã hội, phản ánh sự bình đẳng của 
việc khai thác, sử dụng thông tin đối với 
mỗi thành viên trong xã hội. 
Như vậy, kiến thức thông tin sẽ phụ 
thuộc chặt chẽ vào các yếu tố thời gian - 
bởi nó luôn thay đổi - và không gian - 
bởi nó gắn chặc với mỗi cá nhân, cộng 
đồng, quốc gia cụ thể. 
Việc phân tích ý nghĩa và mối quan 
hệ của kiến thức thông tin đối với sự 
phát triển kinh tế-xã hội mỗi cộng đồng, 
quốc gia sẽ giúp đánh giá được vai trò 
của thông tin, cũng như xây dựng và 
triển khai các chính sách khuyến khích 
sử dụng thông tin trong xã hội. Tuy 
nhiên, bài viết này không đề cập tới khía 
cạnh đó, mà chỉ tập trung bàn về nội 
dung của kiến thức thông tin. 
Ngày nay, khi đề cập đến kiến thức 
thông tin, người ta quan tâm đến các khả 
năng ở người dùng tin trực tiếp với tư 
cách là thành viên của cộng đồng, công 
dân của một đất nước trong việc: 
• cách thức hình thành và biểu đạt 
được nhu cầu thông tin? 
• lựa chọn, xác định được các 
nguồn/hệ thống thông tin có thể 
đáp ứng nhu cầu tin: Kiến thức 
thông tin sẽ giúp trả lời câu hỏi có 
thể đáp ứng được nhu cầu tin ở 
đâu? 
• kỹ năng khai thác các nguồn, 
hệ thống thông tin tự động 
hoá: Kiến thức thông tin sẽ 
giúp trả lời câu hỏi có thể đáp 
ứng được nhu cầu thông tin 
nhờ các kỹ năng nào? 
• khai thác, sử dụng một cách 
hợp lý các nguồn/hệ thống 
thông tin: Kiến thức thông tin 
giúp trả lời câu hỏi thông tin 
nào cần được sử dụng và hành 
vi sử dụng như thế nào được 
coi là hợp lý? 
Ðó chính là nội dung của kiến 
thức thông tin. Dưới đây là phần phân 
tích theo từng vấn đề nêu trên. 
Trong bài viết này, chúng tôi xét 
thấy cách thức hình thành và biểu đạt 
nhu cầu thông tin là một vấn đề phức 
tạp, liên quan đến những khía cạnh 
tâm lý, nhận thức, tập quán,... của 
con người. Bởi thế vấn đề này còn 
cần được nghiên cứu ở nhiều phương 
diện rất khác nhau, ví dụ quan hệ 
giữa thông tin và nhu cầu nhận thức. 
Bởi thế, vấn đề phức tạp này xin 
được trình bày trong một dịp khác. 
Dưới đây là các phân tích đối với một 
số khía cạnh khác của kiến thức 
thông tin. 
2.1. Khả năng lựa chọn, xác định 
các nguồn/hệ thống thông tin thích 
hợp 
Mỗi người, tuỳ thuộc vào nhu cầu 
và điều kiện cụ thể của mình mà cần 
khai thác, sử dụng những thông tin 
xác định. Có thể nói, tương ứng với 
mỗi loại nhu cầu và mỗi nhóm người 
dùng tin, tương ứng với những mục 
đích khai thác, sử dụng thông tin mà 
tồn tại các loại thông tin khác nhau. 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2006 
23 
Bởi vậy, để có thể khai thác, sử dụng có 
hiệu quả thông tin, để giảm bớt các chi 
phí về thời gian, công sức cho việc tìm 
tin thì trước hết, con người cần có khả 
năng xác định được một cách đúng, và 
sau đó là đầy đủ các nguồn/hệ thống 
thông tin nào khả dĩ đáp ứng được nhu 
cầu của mình. 
Hiện tồn tại một số loại cơ quan 
thông tin-thư viện khác nhau, theo các 
dấu hiệu phân chia khác nhau. Dựa vào 
tính chất của nguồn tài liệu mà cơ quan 
trực tiếp quản lý, người ta đã chia các cơ 
quan này thành 5 loại chính: 
1) Các cơ quan chủ yếu lưu giữ các 
xuất bản phẩm1. 
2) Các cơ quan chủ yếu lưu giữ và 
tạo lập các tư liệu khoa học2. 
3) Các cơ quan chủ yếu lưu giữ và 
tạo lập các loại ấn phẩm phân 
tích- tổng hợp thông tin3. 
4) Các cơ quan chủ yếu lưu giữ và 
tạo lập các cơ sở dữ liệu4. 
5) Các cơ quan chủ yếu quản trị và 
khai thác các mạng thông tin5. 
Có thể thấy, nếu không xác định 
được đúng và đầy đủ các loại thông tin, 
và sau đó là các loại nguồn/hệ thống 
thông tin tương ứng, sẽ rất khó tìm được 
1 Gồm sách, báo, tạp chí, 
2 Gồm các báo cáo khoa học, các công trình tư liệu 
khoa học, kết quả các đề tài khoa học, báo cáo điền 
dã, thông tin điều tra cơ bản, 
3 Gồm các tổng luận, tổng quan khoa học, báo cáo 
thường niên của các tổ chức, ngành khoa học, 
4 Gồm các loại hình tài liệu số hoá, chủ yếu là các 
CSDL như các CSDLTM và được lưu giữ trên các đia 
CD-ROM, sau này có thể được tồn tại dưới dạng các 
OPAC, 
5 Hiện tại được xem là các ICP, ISP và IXP: các nhà 
quản trị các mạng thông tin, cổng thông tin,. 
đầy đủ các nguồn thông tin cần thiết. 
Chính việc xác định được đầy đủ các 
nguồn/hệ thống thông tin cần thiết 
trước một nhu cầu cụ thể, mới có thể 
xây dựng được một chiến lược tìm tin 
phù hợp và có độ tin cậy cao. 
Có một hình ảnh rất đắt phản ánh 
vai trò của kiến thức về sự phân bố 
các nguồn/hệ thống thông tin: Người 
đi tìm kiếm thông tin trên Internet 
được ví như một người cầm trên tay 
một ngọn nến nhỏ, để tìm cái mà 
mình cần trong một nhà kho khổng lồ 
không có ánh sáng. Khi đó, anh ta chỉ 
có thể thấy được những gì rất gần với 
ngọn nến mà thôi, và vì thế, chỉ có 
thể tìm được những gì rất gần chỗ 
anh ta đứng tức là anh ta phải biết 
được cái mà mình cần tìm có thể 
đang được cất giữ ở nơi nào. 
Hình ảnh đó có thể mở rộng ra đối 
với các quá trình tìm tin nói chung, 
bởi thực tế, tìm tin trên Internet mới 
chỉ là một nơi mà người dùng tin phải 
tiến hành tìm kiếm thông tin. 
Ðể nâng cao trình độ hiểu biết về 
sự phân bố các nguồn/hệ thống thông 
tin cần tiến hành theo những phương 
thức khác nhau, tuỳ thuộc vào những 
điều kiện cụ thể. Một trong số các 
phương thức đó là việc tạo nên các 
nhóm nguồn/hệ thống thông tin có 
kiên quan mật thiết với nhau theo 
quyền lợi/sự quan tâm của người 
dùng tin. Sử dụng phương thức này, 
trên các website hiện nay rất phổ biến 
tạo ra các đường liên kết (link) đến 
các nhóm website khác. Trong các 
loại sản phẩm thông tin truyền thống, 
các nguyên lý xây dựng chỉ dẫn trích 
dẫn khoa học (Science Citation Index 
SCI) về bản chất cũng là việc tạo nên 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2006 
24 
một tập hợp tài liệu có liên quan mật 
thiết với nhau. 
2.2. Vấn đề kỹ năng khai thác các 
nguồn/hệ thống thông tin 
Việc áp dụng các thành tựu khoa học, 
công nghệ vào các quá trình thông tin 
không ngừng được gia tăng. Ngoài ra, do 
sự phát triển nguồn tin theo những dạng 
thức mới cũng luôn diễn ra. Do đó, thành 
phần và dạng thức của các nguồn/hệ 
thống thông tin không ngừng được đổi 
mới theo những khả năng rất khác biệt 
nhau. Ðiều đó đặt ra thực tế là để có thể 
khai thác được đầy đủ mọi nguồn/hệ 
thống thông tin, người tìm tin cần hiểu rõ 
được các các nguyên tắc, các phương 
pháp tổ chức, quản lý của các nguồn/hệ 
thống thông tin. Ðây là một vấn đề 
không hề đơn giản: Trong bối cảnh 
nguồn tin không ngừng gia tăng, các giải 
pháp công nghệ được sử dụng để quản trị 
chúng cũng luôn biến đổi và rất đa dạng, 
thì việc hiểu rõ khả năng thích ứng của 
nguồn tin với yêu cầu, và sau đó là các 
kỹ năng cần thiết để khai thác ở mức hợp 
lý các nguồn tin là vấn đề luôn đặt ra đối 
với người dùng. 
Như vẫn biết, mỗi nguồn/hệ thống 
thông tin thường sử dụng một/một số 
phương pháp cụ thể để quản trị các bộ 
sưu tập của mình. Cụ thể hơn, trong số 
đó, yếu tố tác động trực tiếp đến người 
dùng tin là ngôn ngữ tư liệu mà hệ thống 
đó sử dụng. Ðặc trưng này được phản 
ánh qua hệ thống từ vựng và các quy 
định về sự liên kết các đơn vị từ vựng để 
biểu diễn các lệnh tìm đối với người 
dùng tin. 
Tuy rằng các nhà quản trị và thiết kế 
các hệ thống thông tin luôn hướng đến 
tạo nên sự đơn giản, thân thiện đối với 
người tìm, song do bản chất phức tạp 
và không thể thuần nhất của mọi loại 
nguồn/hệ thống thông tin mà tính 
chất phức tạp của các loại ngôn ngữ 
tư liệu được hệ thống sử dụng luôn là 
trở ngại đối với quá trình tìm tin. 
Trường hợp xảy ra phổ biến khi mà 
bộ sưu tập của hệ thống mang tính cá 
biệt, ví dụ như các tài liệu, tư liệu về 
các khía cạnh địa lý, sinh học, môi 
trường tự nhiên, lịch sử, văn hoá, văn 
học-nghệ thuật, dân tộc, . của các 
cộng đồng, khu vực. Lúc này, rõ 
ràng, đối với người dùng tin, các trở 
ngại về việc hiểu rõ và sử dụng thuần 
thục ngôn ngữ tư liệu của hệ thống là 
không hề đơn giản. Ngoài ra, cũng 
chính ở các bộ sưu tập mang tính đặc 
thù này mà thông thường cấu trúc các 
CSDL do hệ thống tạo lập và phát 
triển cũng có những đặc điểm riêng 
biệt, từ đó dẫn đến cách thức khai 
thác, truy cập các nguồn tin này có 
những đặc điểm cá biệt, tức là muốn 
khai thác được đầy đủ các khả năng 
của chúng, cần sự hiểu biết và các kỹ 
năng đặc biệt, thường không có trong 
các nguồn/hệ thống thông tin khác. 
Các kỹ năng khai thác thông tin 
trong các hệ thống OPAC do Viện 
Thông tin KHXH tạo lập, phản ánh 
các nguồn tài liệu cổ, quý hiếm lưu 
giữ tại Thư viện Trường Viễn Ðông 
Bác cổ trước đây, hệ thống CSDL về 
các tư liệu văn hoá-dân tộc-nhân 
chủng học do Bảo tàng dân tộc học 
Việt Nam tạo lập, cũng như các kỹ 
năng được sử dụng để khai thác ngân 
hàng dữ liệu nhãn hiệu hàng hóa mà 
WIPO tạo lập, các OPAC được phát 
triển trên website 
 luôn đòi hỏi ở 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2006 
25 
người tìm tin các kỹ năng hoàn toàn khác 
biệt nhau, Tương ứng với các trường hợp 
liệt kê trên, đó là việc kiểm soát thông tin 
trong các trường địa danh cổ và hiện tại, 
địa danh hành chính và phi hành chính; 
các trường từ khóa dân tộc địa lý, địa-
văn hóa; việc tìm kiếm thông tin theo các 
biểu trưng, hình ảnh phản ánh các nhãn 
hiệu hàng hoá; kiểu tìm kiếm thông tin 
theo các tên sinh học và tên vùng địa lý 
là nơi cư trú, khu vực sinh thái của các 
loài chim, 
Chỉ khi đó, tức là khi người dùng tin 
nắm rõ và sử dụng một cách thuần thục 
ngôn ngữ tư liệu trong các quá trình tìm 
tin thì các tính năng và năng lực của các 
nguồn thông tin này mới được khai thác, 
khám phá một cách đầy đủ. 
Ðể có được khả năng đó, cần đến 
kiến thức thông tin. 
Các nhà quản trị hệ thống thông tin 
cũng luôn nghĩ đến vấn đề trên và tìm 
mọi khả năng để trợ giúp người dùng tin. 
Chính vì thế, bên cạnh sự gia tăng khối 
lượng và chủng loại trong các nguồn 
tin/hệ thống thông tin, thì hệ thống các 
công cụ trợ giúp người dùng cũng luôn 
thu hút sự quan tâm của các nhà quản trị 
các mạng thông tin. Chính vì thế, đã dần 
hình thành và phổ biến hệ thống mục lục 
các nguồn tin trực tuyến kết hợp với 
nhau Co-operative Online Resource 
Catalog (CORC) trên các website một 
bước phát triển ở mức cao hơn các 
OPAC được khởi xướng bởi OCLC từ 
năm 1998. 
Xét về thành phần cấu tạo, có thể 
thấy CORC bao gồm 3 loại CSDL khác 
nhau: 
• Các OPAC phản ánh nguồn tài 
nguyên thông tin (như sách, 
báo, tạp chí, danh mục,). 
• Các CSDL phản ánh về các 
CSDL OPAC đó (Vì trên thực 
tế, ngày càng có nhiều CSDL, 
nên để hỗ trợ cho người dùng 
hiểu biết về các CSDL trước 
khi họ truy cập, khai thác, đã 
xuất hiện loại CSDL siêu dữ 
liệu này. Và cũng là vì hướng 
đến sự thuận tiện đối với 
người dùng, người quản trị 
CSDL mà đã xuất hiện các 
tiêu chuẩn siêu dữ liệu, mà 
Doubline Core là tiêu biểu mà 
nhiều người biết đến). Cùng 
với các CSDL này là các 
CSDL dẫn đường có chức 
năng chỉ dẫn đối với người 
dùng con đường hợp lý nhất 
để truy cập đến các ngân hàng 
dữ liệu các CSDL dạng 
pathfinder. 
• Các CSDL về tập hợp các loại 
ngôn ngữ tư liệu mà hệ thống 
sử dụng. Lần đầu tiên, OCLC 
đưa ra CSDL quản trị DDC, và 
gọi là Web Dewey. Sau này, 
đối với các hệ thống khác, cần 
hiểu một cách đầy đủ về các 
CSDL phản ánh ngôn ngữ tư 
liệu, như CSDL quản trị 
thesaurus, quản trị các loại 
bảng phân loại được sử dụng 
cũng như quản trị hệ thống đề 
mục chủ đề tức là mọi loại 
ngôn ngữ tư liệu mà một hệ 
thống thông tin cụ thể sử dụng 
để định chỉ số cho các loại đối 
tượng của mình. Trở lại ví dụ 
nêu trên, thuộc nhóm này là 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2006 
26 
các loại CSDL quản trị các các từ 
khoá là tên địa lý, tên các cộng 
đồng tộc người, tên thương mại 
của các sản phẩm, tên sinh học, 
tên vùng sinh thái, 
2.3. Vấn đề lựa chọn thông tin và hành 
vi khai thác sử dụng thông tin 
Như đã biết, ngày càng có nhiều 
thông tin xuất hiện. Ðương nhiên, các 
thông tin phù hợp luôn được người dùng 
tin cần đến, song đã xuất hiện hiện tượng 
dư thừa thông tin, theo nghĩa, lượng 
thông tin tỏ ra phù hợp với mỗi người sẽ 
ngày càng lớn, và trong số đó, lại thường 
xuất hiện hiện tượng nhiễu tin, tức là sự 
trà trộn của nhiều thông tin về hình thức 
dường như là phù hợp, song trên thực tế 
lại không phù hợp. Ngoài ra, trà trộn vào 
các thông tin có thể truy cập được lại có 
cả các thông tin chính xác và không 
chính xác, các thông tin đúng các thông 
tin sai, các thông tin được cập nhật và 
các thông tin đã lỗi thời, Nói rộng ra, 
trong số các thông tin luôn sẵn sàng cho 
phép mỗi người có thể khai thác, sử 
dụng, có cả những thông tin mà việc sử 
dụng nó giúp con người đáp ứng được 
các nhu cầu sống, học tập, làm việc của 
mình, cũng như có cả những thông tin 
kìm hãm hay tiềm ẩn sự nguy hại cho 
quá trình phát triển nói chung. Luôn tồn 
tại những thông tin mà việc sử dụng nó 
giúp hoàn thiện nhân cách con người, 
bên cạnh các loại thông tin mà việc sử 
dụng nó sẽ làm phương hại đến các quan 
hệ cùng tồn tại và phát triển, đến thuần 
phong mỹ tục, đến các giá trị đạo đức và 
giá trị xã hội của cộng đồng. 
Vì thế rất cần đến khả năng lựa chọn 
thông tin ở mỗi con người. 
Việc khai thác, sử dụng thông tin 
mang lại cho con người sự hiểu biết, 
quyền lợi và nhiều khi cả quyền lực. 
Ðó là bản chất hay một đặc điểm cơ 
bản của xã hội ngày nay - xã hội đang 
hướng đến xã hội thông tin, xã hội 
đang chứa đựng trong đó một nền 
kinh tế dựa trên thông tin và tri thức. 
Vì mục đích phát triển bền vững 
của mỗi cộng đồng, quốc gia, mà 
thông tin được xem xét như một loại 
hàng hoá đặc biệt. Vì thế, đã hình 
thành các chính sách thông tin cho 
mỗi quốc gia, qua đó kích thích việc 
tạo lập và khai thác, sử dụng thông 
tin trên các phạm vi thông qua sự 
phát triển cơ sở hạ tầng thông tin 
quốc gia và thị trường thông tin trên 
phạm vi quốc gia. 
Với sự trợ giúp của các phương 
tiện tin học và truyền thông, với 
những ưu đãi mà chính sách thông tin 
mang lại, hiện nay, con người với 
những thao tác đơn giản, một chi phí 
hợp lý, có thể khai thác, truy cập 
được rất nhiều nguồn thông tin tại 
mọi nơi và vào mọi lúc. Từ đó có thể 
thấy từ phía người dùng tin trực tiếp, 
cần xác định rõ một mặt, trách nhiệm 
của mình đối với các thông tin mà 
mình khai thác, sử dụng, bao gồm cả 
trách nhiệm về kinh tế và các trách 
nhiệm tinh thần khác. 
Trước đây, các cơ quan thông tin 
thư viện xác định quyền sở hữu của 
mình đối với các bộ sưu tập. Ngày 
nay, khi mà các nguồn tin số hoá 
được luân chuyển, khai thác và dĩ 
nhiên được quản lý trên các mạng 
thông tin, thì quyền đó được thể hiện 
dưới dạng quyền cho phép người 
dùng tin khai thác, truy cập thông tin 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2006 
27 
với những điều kiện và mức độ khác 
nhau. Vì thế, người dùng tin luôn cần 
hiểu rõ những ưu đãi mà mình được 
hưởng cũng như những nội dung chính 
của bản quyền trong khai thác, sử dụng 
thông tin. Hiện nay, khi Việt Nam trở 
thành thành viên của Hiệp hội các nước 
tham gia công ước Bernne, thành viên 
của các tổ chức như WIPO cũng như các 
hiệp định song phương, đa phương khác, 
thì các vấn đề về bản quyền lại càng trở 
thành một vấn đề mà người dùng tin cần 
đặc biệt quan tâm. Nếu vấn đề bản quyền 
không được giải quyết và tôn trọng một 
cách căn bản thì mọi động lực đối với 
việc tạo lập nội dung thông tin, mọi lao 
động sáng tạo của các nhà khoa học, các 
tác giả, sớm muộn cũng sẽ bị triệt tiêu. 
Ðây cũng là một khía cạnh cần được 
quan tâm của kiến thức thông tin. Biểu 
hiện của kiến thức thông tin ở khía cạnh 
này chính là một thái độ sử dụng hợp lý 
(fair use) của người dùng tin 
3. Kiến thức thông tin, bản thân nó không 
phải là vấn đề mới. Song trong bối cảnh 
hiện nay, khi mà thông tin được sử 
dụng như một nguồn lực của mọi quá 
trình phát triển, kiến thức thông tin 
lại có vai trò rất quan trọng. Kiến 
thức thông tin vừa là phương tiện để 
con người tận dụng được mọi lợi thế 
mà xã hội dành cho họ, đồng thời lại 
là chỉ số quan trọng phản ánh trình độ 
và khả năng thích ứng của mỗi cá 
nhân, cộng đồng trong xu thế phát 
triển hiện nay. Trong xã hội hiện nay, 
con người cần biết cách vận dụng sự 
hiểu biết, tri thức có sẵn để giải quyết 
các nhiệm vụ mà thực tiễn đặt ra. Ðó 
là tri thức về việc sử dụng tri thức - 
meta-knowledge. Muốn vậy, trước 
hết, con người cần biết cách tìm kiếm 
các thông tin phản ánh các tri thức 
đó, tức là biết cách khai thác, sử dụng 
các nguồn/hệ thống thông tin và biết 
rõ trách nhiệm đối với việc khai thác 
sử dụng thông tin. Ðó là nội dung của 
kiến thức thông tin. 
Danh mục tài liệu tham khảo chính 
1. Các báo cáo khoa học trình bày tại Hội thảo Tăng cường công tác đào tạo chuyên 
môn nghiệp vụ thông tin thư viện do Trung tâm Thông tin Tư liệu KHCN Quóc 
gia tổ chức tại Cát Bà, Hải Phòng ngày 8 và 9 tháng 7 năm 2003. 
2. Handbook of Special Librarianship and Information Work: 7th edi./ Edited by A. 
Scammell.- London: ASLIB. 1998. 
3. Scales B.J., Lindsay E.B. Qualitative Assessment of Student Attitudes toward 
Information Literacy.// Portal Libraries and the acdemy. 2005. Vol. 5. Number 4. 
October. pp. 513 526. 

File đính kèm:

  • pdfnoi_dung_kien_thuc_thong_tin_information_literacy.pdf