Ph. Ăngghen bàn về linh hồn và bản chất của linh hồn
Tóm tắt Ph. Ăngghen bàn về linh hồn và bản chất của linh hồn: ...ng lòng, bớt giận không trừng phạt con ng−ời là tập tục phổ biến có trong tất cả các tôn giáo, nhất là ở Ph−ơng Đông. Ph. Ăngghen cho rằng việc tham gia vào các nghi lễ hiến tế, các cuộc lễ r−ớc thần, việc kiêng kị là dấu chỉ cho thấy sự khác nhau giữa tôn giáo của tộc ng−ời này với tô...ể dùng vật tế thần làm động lòng những vị thần bị hành vi của con ng−ời xúc phạm, ý t−ởng cơ bản cách mạng đầu tiên (m−ợn của tr−ờng phái Philông) của đạo Cơ Đốc đối với các tín đồ là một sự hi sinh tự nguyện vĩ đại của một ng−ời trung gian đã vĩnh viễn chuộc tội cho tất cả mọi thời đạ...phủ bị coi đúng ra là 11. Ph. ăngghen, Brunô Bauơ và đạo Cơ Đốc khởi thủy, trong Mác-ăngghen về tôn giáo, Sđd, tr. 399-400. 8 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2013 8 nỗi bất hạnh. Nh−ng rồi đạo Cơ Đốc xuất hiện, nó thực sự chấp nhận sự báo đáp và sự trừng phạt ở thế giới bên kia, đã tạo r...
với ng−ời Hy Lạp chẳng hạn, thì th−ờng là một sự bất hạnh thật sự. Không phải nhu cầu về sự an ủi có tính chất tôn giáo, mà chính là sự lúng túng - nảy sinh ra từ tình trạng hạn chế phổ biến của ng−ời ta lúc đó - không biết linh hồn biến đi đâu - một khi con ng−ời đã thừa nhận sự tồn tại của linh hồn sau khi thân thể chết đi - đã dẫn tới sự t−ởng t−ợng buồn tẻ về sự bất tử của cá nhân con ng−ời”(2). Ph. Ăngghen cho rằng, nếu chỉ quan niệm về sự bất tử của linh hồn không thôi thì không thể dẫn đến hành vi tôn giáo mà chính là con ng−ời suy nghĩ về mối quan hệ giữa con ng−ời đang sống với linh hồn của mình ở thế giới bên ngoài. Từ đó, họ t−ởng t−ợng ra một lực l−ợng siêu nhiên, thần thánh ở thế giới bên kia có thể tác động trở lại đối với cuộc sống của con ng−ời. Đến giai đoạn phát triển cao hơn nữa của t− duy, cùng với sự nhân cách hóa các hiện t−ợng tự nhiên đã hình thành nên các vị thần đầu tiên, rồi từ đa thần giáo dần dần hình thành nhất thần giáo, xuất hiện tôn giáo độc thần. Đó chính là quá trình lịch sử của tôn giáo trong đời sống nhân loại. Ông viết: “Cũng bằng cách hoàn toàn giống nh− thế, sự nhân cách hóa các lực l−ợng tự nhiên làm nảy sinh ra các vị thần đầu tiên, những vị thần này, trong quá trình phát triển về sau của tôn giáo, ngày càng mang một hình dáng những sức mạnh siêu phàm, cho đến lúc, rút cuộc lại, do một quá trình trừu t−ợng hóa - tôi có thể nói là một quá trình ch−ng cất - hoàn toàn tự nhiên trong tiến trình phát triển của trí tuệ, trong đầu óc con ng−ời, từ đông đảo những vị thần có quyền lực ít nhiều bị hạn chế và hạn chế lẫn nhau, nảy sinh ra quan niệm về một vị thần độc tôn của tôn giáo độc thần”(3). Do không giải thích đ−ợc những điều thấy trong giấc mơ, con ng−ời cho rằng hình ảnh mà họ thấy trong giấc mơ là linh hồn tạm thời thoát khỏi thể xác và họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình thấy trong giấc mơ. Bằng những cứ liệu xã hội học ông đã chứng minh cho điều đó: “Mãi đến ngày nay, trong các dân mông muội và ng−ời dã man ở giai đoạn thấp, vẫn còn l−u hành quan niệm cho rằng những hình ảnh con ng−ời xuất hiện trong giấc mơ là những linh hồn đã tạm thời rời khỏi thân xác, cho nên con ng−ời thật phải chịu trách nhiệm về những hành vi của ng−ời đó trong mộng, 2. Ph. ăngghen. Lutvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, trong Mác-ăngghen về tôn giáo, Sđd, tr. 491. 3. Ph. ăngghen, Lutvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Sđd, tr. 491. Nguyễn Phú Lợi. Ph. ăngghen bàn về linh hồn 5 5 những hành vi mà kẻ nằm mơ trông thấy. Đó là điều mà Tuốcnơ đã nhận thấy năm 1884 ở ng−ời Indian ở Guana”(4). Trên cơ sở quan niệm về linh hồn bất tử, suy nghĩ về mối quan hệ giữa linh hồn với thế giới bên ngoài, ng−ời ta quan niệm mối quan hệ giữa sự tồn tại tạm thời của thể xác và sự bất tử của linh hồn sau cái chết mà biểu hiện của nó trong chính nó là những điều ng−ời ta gặp trong giấc mơ. Họ cho rằng, con ng−ời phải chịu trách với chính hành vi của mình. Chính cái quan niệm về sự tồn tại bất tử của linh hồn đã dẫn đến những hành vi tôn giáo nh− việc thờ cúng, tế lễ, kiêng kị, đặc biệt là tục hiến sinh để thần linh không quấy phá cuộc sống của con ng−ời đang sống. Hiến sinh để lấy máu súc vật làm lễ vật dâng lên cho thần để giao tiếp với thần và để cho thần động lòng, bớt giận không trừng phạt con ng−ời là tập tục phổ biến có trong tất cả các tôn giáo, nhất là ở Ph−ơng Đông. Ph. Ăngghen cho rằng việc tham gia vào các nghi lễ hiến tế, các cuộc lễ r−ớc thần, việc kiêng kị là dấu chỉ cho thấy sự khác nhau giữa tôn giáo của tộc ng−ời này với tôn giáo của tộc ng−ời khác. Theo ông, “Trong tất cả các tôn giáo tồn tại tr−ớc đó (tức tr−ớc khi đạo Kitô ra đời - NPL), thì nghi lễ là cái chủ yếu, chỉ có tham gia vào cuộc lễ súc vật tế thần và các cuộc r−ớc thần, còn ở Ph−ơng Đông thì chỉ có tuân theo những tục lệ một cách đầy đủ nhất về cỗ bàn và tắm gội thì ng−ời ta mới có thể chứng minh đ−ợc mình thuộc về một tôn giáo nào. Trong khi ở La Mã và Hy Lạp, mặt này tỏ ra rất thoải mái, thì ở Ph−ơng Đông ng−ời ta giữ rất khắt khe cả một loạt những điều kiêng kị tôn giáo”(5). Quan niệm về linh hồn bất tử và sự tác động, chi phối của các lực l−ợng siêu nhiên đến cuộc sống con ng−ời cùng với sự tác động do điều kiện tự nhiên và xã hội gây nên đau khổ cho con ng−ời, ng−ời ta cho rằng chính những hành vi của họ đã làm cho thần thánh nổi giận mà trừng phạt họ. Từ đó hình thành nên quan niệm về tội lỗi, về sự th−ởng phạt của linh hồn ở kiếp sau. Điều này đã đ−ợc thần học Do Thái giáo và triết học duy tâm Hy Lạp nâng lên thành lí luận về tội tổ tông truyền, về sự cứu rỗi linh hồn. Ph. Ăngghen viết: “Triết học Hy Lạp tầm th−ờng đã dẫn đến học thuyết về một vị Th−ợng đế duy nhất và sự bất tử của linh hồn con ng−ời. Đạo Do Thái cũng vậy, nó bị tầm th−ờng hóa một cách duy lí do có sự pha trộn và tiếp xúc với những ng−ời không phải là Do Thái và nửa Do Thái, đi đến chỗ coi th−ờng nghi lễ tôn giáo, đi đến chỗ biến vị thần dân tộc Giêhôva tr−ớc đây của ng−ời Do Thái, thành một vị thần duy nhất chân chính, đấng sáng tạo ra trời và đất và đi đến chỗ thừa nhận sự bất tử của linh hồn”(6). Đó chính là cơ sở lí luận đ−a đến sự ra đời của đạo Kitô vào đầu Công nguyên nh− Ph. Ăngghen đã viết: “Vậy là, triết học độc thần tầm th−ờng đã gặp tôn giáo tầm th−ờng, tôn giáo này đã dâng cho nó một vị Th−ợng đế duy nhất d−ới hình thức hoàn toàn đã có sẵn. Và nh− vậy là, ng−ời ta đã chuẩn bị xong miếng đất mà đứng trên đó ng−ời Do Thái cải biến những quan niệm tầm th−ờng đến 4. Ph. ăngghen, Lutvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Sđd, tr. 490. 5. Ph. ăngghen, Brunô Bauơ và đạo Cơ Đốc khởi thủy, trong Mác-ăngghen về tôn giáo, Sđd, tr. 397-398. 6. Ph. ăngghen, Brunô Bauơ và đạo Cơ Đốc khởi thủy, trong Mác-ăngghen về tôn giáo, Sđd, tr. 389. 6 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2013 6 nh−ờng ấy của Philông, để có thể tạo thành đạo Cơ Đốc, nh−ng khi nó đã đ−ợc tạo ra rồi thì đạo Cơ Đốc đã có thể đ−ợc ng−ời Hy Lạp và ng−ời La Mã tiếp nhận trở lại”(7). Để có thể cứu rỗi linh hồn ở kiếp sau, con ng−ời không những phải sống có đạo đức, nhẫn nhục chịu đựng số phận của mình do Chúa đã an bài mà họ còn không ngừng phải sám hối, cầu mong Th−ợng đế cứu giúp. Hơn nữa, họ phải thực hiện nhiều điều kiêng kị, nhất là phải cúng bái, hiến tế súc vật làm tặng phẩm dâng lên cho Chúa để Ngài bớt giận, động lòng th−ơng đối với con ng−ời đang sống. Đó là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo xuất hiện ở đế quốc La Mã vào thời kì đầu Công nguyên nh− Ph. Ăngghen viết: “Tôn giáo do con ng−ời tạo ra, bản thân những ng−ời này cảm thấy nhu cầu cần phải có tôn giáo với họ, hiểu đ−ợc những nhu cầu cần có tôn giáo của quần chúng”(8). Song các tôn giáo đ−ơng thời do quá đề cao về việc kiêng kị, lệ tục của mình nên đã không thỏa mãn đ−ợc đ−ợc câu hỏi đó, thậm chí đó còn là điều kiện để các tôn giáo ấy tự diệt vong. Ông viết: “Những con ng−ời của hai tôn giáo khác nhau - ng−ời Ai Cập, ng−ời Ba T−, ng−ời Do Thái, ng−ời Khan Đay - không thể cùng uống, cùng ăn, không thể cùng làm một việc thông th−ờng nhất, họa chăng chỉ có thể nói chuyện đ−ợc với nhau mà thôi. Sự ngăn cách giữa ng−ời với ng−ời đó là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến diệt vong của Ph−ơng Đông thời cổ”(9). Và chỉ có Kitô giáo mới có đủ khả năng đáp ứng đ−ợc xu h−ớng tâm lí mà những ng−ời nô lệ và những ng−ời bị áp bức đang mong đợi nh− Ph. Ăngghen đã viết: “Kitô bị đóng đinh câu rút ở Giêrusalem nh−ng đã hồi sinh. Ng−ời là “con chiên” bị hi sinh vì tội lỗi của thế gian và máu của Ng−ời chuộc tội tr−ớc Chúa cho tín đồ thuộc tất cả mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ. ở đây chúng ta tìm thấy ý t−ởng cơ bản nhờ nó mà đạo Cơ Đốc sơ kì đã có thể phát triển thành tôn giáo thế giới sau này. Tất cả các tôn giáo thủa ấy của ng−ời Xênút và ng−ời Châu Âu đều có cách nhìn nhận chung là có thể dùng vật tế thần làm động lòng những vị thần bị hành vi của con ng−ời xúc phạm, ý t−ởng cơ bản cách mạng đầu tiên (m−ợn của tr−ờng phái Philông) của đạo Cơ Đốc đối với các tín đồ là một sự hi sinh tự nguyện vĩ đại của một ng−ời trung gian đã vĩnh viễn chuộc tội cho tất cả mọi thời đại và mọi ng−ời. Vì thế không cần bất cứ sự hi sinh tiếp nào, đồng thời cũng sụp đổ cả căn cứ cho nhiều nghi thức tôn giáo; nh−ng việc miễn tuân thủ những thứ nghi lễ đã gây khó khăn hoặc cấm giao tiếp với những ng−ời ngoại đạo, là điều kiện hàng đầu đối với tôn giáo thế giới. Tuy vậy, phong tục hiến sinh vật bắt rễ sâu trong phong tục của các dân tộc tới mức đạo Thiên Chúa, thứ tôn giáo đã khôi phục nhiều cái thuộc đa thần thế giới, đã cho là cần thích ứng với tình huống này bằng cách thực hành các việc dâng lễ vật dù chỉ mang tính chất t−ợng tr−ng”(10). Vào thời Cổ đại do sự hà khắc, tàn bạo của chế độ chiếm hữu nô lệ La Mã, nhất 7. Ph. ăngghen, Brunô Bauơ và đạo Cơ Đốc khởi thủy, trong Mác-ăngghen về tôn giáo, Sđd, tr. 389-390. 8. Ph. ăngghen, Brunô Bauơ và đạo Cơ Đốc khởi thủy, trong Mác-ăngghen về tôn giáo, Sđd, tr. 388. 9. Ph. ăngghen, Brunô Bauơ và đạo Cơ Đốc khởi thủy, trong Mác-ăngghen về tôn giáo, Sđd, tr. 397-398. 10. Ph. ăngghen, Bàn về lịch sử đạo Cơ Đốc sơ kì, trong Mác-ăngghen về tôn giáo, Sđd, tr. 557-558. Nguyễn Phú Lợi. Ph. ăngghen bàn về linh hồn 7 7 là sau sự thất bại của cuộc khởi nghĩa nô lệ do Xpactaquýt lãnh đạo, không giải thích đ−ợc những nỗi thống khổ của đời sống hiện thực do điều kiện tự nhiên và xã hội gây ra, con ng−ời cảm thấy nỗi khổ ấy do chính những hành vi của mình gây nên đã xúc phạm đến thần thánh làm cho thần thánh nổi giận trừng phạt họ nên trong xã hội xuất hiện xu h−ớng tâm lí trông chờ vào một đấng cứu thế xuất hiện để cứu giúp con ng−ời thoát khỏi sự khổ hạnh ở trần gian. Kitô giáo xuất hiện với việc Chúa Giêsu tuyên bố tự hiến bản thân mình làm vật phẩm dâng tặng cho Chúa để chuộc tội thay cho nhân loại đã đáp ứng đ−ợc sự mong mỏi của quần chúng lao khổ. Ph. Ăngghen cho rằng: “Đối với tất cả những lời kêu ca về các thời kì khó khăn và về sự cùng khổ chung về mặt vật chất và tinh thần thì ý thức về tội lỗi của đạo Cơ Đốc đã đáp lại: đúng, tình trạng là nh− vậy, không thể làm cách nào khác đ−ợc; trong sự h− hỏng của thế giới, anh là kẻ có tội, tất cả các anh là những kẻ có tội, đúng là sự h− hỏng bên trong của chính anh và của chính các anh! Và tìm đâu ra đ−ợc một ng−ời có thể phủ nhận điều đó chứ? Tội lỗi của tôi! Không một ng−ời nào dám từ chối việc thừa nhận mình có một phần tội lỗi trong cái bất hạnh chung, và việc thừa nhận đó, giờ đây đã trở thành tiền đề của sự cứu vớt linh hồn mà đồng thời đã đ−ợc đạo Cơ Đốc tuyên bố ra. Việc cứu vớt linh hồn đó đã đ−ợc ng−ời ta bịa ra khéo tới mức một thành viên của bất kì một tổ chức tôn giáo cũ nào cũng có thể dễ dàng hiểu đ−ợc điều đó. Tất cả các tôn giáo cũ đó đều có một quan niệm cố hữu là cần có thể hi sinh để chuộc lại tội lỗi, một sự hi sinh có thể làm cho Chúa bị xúc động mà bớt giận. Cái quan niệm cần có một kẻ trung gian tự nguyện hi sinh mình để vĩnh viễn chuộc mọi tội lỗi của nhân loại thì sao lại không thể tìm đ−ợc ở đây một miếng đất thuận lợi? Nh− vậy là cái quan niệm cảm giác phổ biến của ng−ời ta cho rằng trong sự h− hỏng chung thì chính con ng−ời có tội, đạo Cơ Đốc đ−ợc thể hiện rõ ràng trong ý thức về tội lỗi của mỗi một ng−ời; đồng thời qua cái chết đầy hi sinh của ng−ời sáng lập ra nó, đạo Cơ Đốc đã tạo ra một hình thức dễ hiểu về sự cứu vớt nội tâm ra khỏi thế giới h− hỏng, về sự an ủi trong ý thức mà tất cả mọi ng−ời đã khát khao tìm đến. Nh− vậy là, đạo Cơ Đốc lại chứng minh đ−ợc rằng nó có thể trở thành tôn giáo thế giới - hơn nữa trở thành tôn giáo phù hợp với thế giới đó”(11). Sự xuất hiện của đạo Kitô đã đáp trả đ−ợc sự mong mỏi của những ng−ời nô lệ và những ng−ời bị áp bức ở đế quốc La Mã vào đầu Công nguyên làm cho nó trở thành một tôn giáo thế giới. Trong tác phẩm Bàn về lịch sử đạo Cơ Đốc sơ kì, Ph. Ăngghen viết: “Sự tiếp tục tồn tại của linh hồn sau khi thể xác chết đã dần dần trở thành một yếu tố tín ng−ỡng đ−ợc mọi ng−ời thừa nhận ở khắp nơi trong thế giới La Mã. Hệt nh− vậy, niềm tin vào sự đền đáp hoặc trừng phạt đối với linh hồn ng−ời chết về những hành vi đã làm trên thế gian cũng ngày càng đ−ợc nhiều ng−ời chấp nhận. Vả lại tình hình việc đền đáp khá khả nghi; thế giới cổ đại cho chủ nghĩa duy vật tự phát quá nhiều nên nó đánh giá đời sống trần gian cao vô hạn so với đời sống ở cõi âm. ở ng−ời Hy Lạp, đời sống âm phủ bị coi đúng ra là 11. Ph. ăngghen, Brunô Bauơ và đạo Cơ Đốc khởi thủy, trong Mác-ăngghen về tôn giáo, Sđd, tr. 399-400. 8 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2013 8 nỗi bất hạnh. Nh−ng rồi đạo Cơ Đốc xuất hiện, nó thực sự chấp nhận sự báo đáp và sự trừng phạt ở thế giới bên kia, đã tạo ra thiên đ−ờng và địa ngục, và đã tìm đ−ợc lối thoát đ−a những ng−ời đau khổ và ng−ời bất hạnh từ đời sống thống khổ trên trần gian lên thiên đ−ờng vĩnh cửu. Và trong thực tế, chỉ có bằng hi vọng vào sự đền đáp ở thế giới bên kia mới có thể nâng từ sự từ bỏ thế giới theo phái khắc kỉ của Philông và chủ nghĩa cấm dục lên thành một trong những nguyên tắc đạo đức cơ bản của tôn giáo thế giới, mới có khả năng cuốn hút quần chúng nhân dân bị áp bức”(12). Tâm lí về sự bất tử của linh hồn và sự th−ởng phạt ở kiếp sau đã đ−ợc đạo Kitô tiếp thu và nâng lên một tầm cao mới bằng việc Chúa Giêsu tự hiến dâng bản thân mình làm vật phẩm tặng cho Chúa để chuộc lỗi thay cho nhân loại. Điều đó đã đáp ứng đ−ợc yêu cầu tôn giáo của quần chúng mà không tôn giáo đ−ơng thời nào có thể thảo mãn đ−ợc nhu cầu ấy. Trong tác phẩm Sách Khải thị, Ph. Ăngghen cho rằng: “Cơ Đốc giáo đ−ợc giới thiệu d−ới một hình thức sơ khai nhất trong các hình thức còn l−u lại đến thời đại chúng ta. Chỉ một giáo lí ngự trị: các tín đồ đ−ợc cứu sống bởi sự hi sinh của Kitô. Nh−ng nh− thế nào và vì sao thì điều đó hoàn toàn không thể xác định đ−ợc. ở đây không có gì cả, ngoài t− t−ởng của đạo Do Thái và đa thần giáo cổ x−a cho rằng, nên cầu xin Chúa hoặc các thần rủ lòng th−ơng bằng những đồ cúng lễ, - t− t−ởng này đã đ−ợc cải biến thành t− t−ởng đặc thù của Cơ Đốc giáo (về thực chất nó cũng biến Cơ Đốc giáo thành một tôn giáo phổ biến) chính là ở chỗ, cái chết của Kitô là một đồ tế thần vĩ đại, một khi đem dâng cúng rồi thì có sức mạnh vĩnh cửu”(13). Quan niệm về sự bất tử của linh hồn và sự th−ởng phạt ở đời sau càng trở nên phổ biến khi nó đ−ợc triết học Hy La, nhất là tr−ờng phái triết học khắc kỉ nâng lên thành lí luận về sự cứu rỗi linh hồn. Kitô giáo đã tiếp thu t− t−ởng đó đồng thời dung hòa nó với các quan điểm của tôn giáo của Ph−ơng Đông, đặc biệt qua cuộc tử nạn vĩ đại của Chúa Giêsu, để trở thành một tôn giáo có thể đáp ứng đ−ợc với nhu cầu đang cần có tôn giáo trong đế quốc La Mã cổ đại. Ph Ăngghen viết: “Việc dung hòa những quan điểm Ph−ơng Đông và Ph−ơng Tây đó đã chứa đựng tất cả những quan niệm của đạo Cơ Đốc: tội tổ tông của con ng−ời; tiếng nói của Th−ợng đế và con ng−ời; sự sám hối không phải bằng cách tế các súc vật mà bằng cách hiến dâng trái tim của riêng mình cho Th−ợng đế; cuối cùng, còn một nét cơ bản nữa là triết học mới của tôn giáo đảo lộn trật tự tr−ớc đây của sự vật, tuyển mộ những môn đồ của mình trong những ng−ời nghèo khổ, những ng−ời bất hạnh, những ng−ời nô lệ và những ng−ời bị ruồng bỏ; và khinh miệt những kẻ giàu có, những kẻ có thế lực, những kẻ có đặc quyền - do đó cũng là khinh miệt sự h−ởng lạc trần gian và cấm dục”(14). Ph. Ăngghen cho rằng quan niệm về linh hồn xuất hiện vào thời kì rất sơ khai của nhân loại khi con ng−ời hoàn toàn ch−a biết về bản thân mình, không lí giải đ−ợc những điều họ thấy trong giấc mơ và sự lúng túng, sợ hãi tr−ớc cái 12. Ph. ăngghen, Bàn về lịch sử đạo Cơ Đốc sơ kì, trong Mác-Ăngghen về tôn giáo, Sđd, tr. 567-568. 13. Ph. ăngghen, Sách Khải thị, trong Mác-ăngghen về tôn giáo, Sđd, tr. 469-470. 14. Ph. ăngghen, Brunô Bauơ và đạo Cơ Đốc khởi thủy, trong Mác-ăngghen về tôn giáo, Sđd, tr. 387. Nguyễn Phú Lợi. Ph. ăngghen bàn về linh hồn 9 9 chết. Lúc đầu quan niệm đó hoàn toàn không phải là sự an ủi mang tính chất tôn giáo mà chỉ đ−ợc con ng−ời xem đó là một định mệnh không thể c−ỡng lại đ−ợc. Đến giai đoạn phát triển cao hơn của t− duy, do những điều kiện tự nhiên và xã hội gây ra ng−ời ta dần dần hình thành nên lí thuyết về tội lỗi và sự cứu rỗi linh hồn ở kiếp sau. Đó là cơ sở nhận thức đ−a đến sự ra đời của tôn giáo. Điều đó đã đ−ợc Kitô giáo dựa vào thần học Do Thái và triết học duy tâm Hy La nâng lên thành lí luận về sự cứu rỗi linh hồn, nhất là với việc Chúa Giêsu chịu chết để dâng hiến bản thân mình làm vật phẩm cho Chúa để chuộc tội thay cho nhân loại. Chính vì vậy, nó đã trở thành một tôn giáo mang tính thế giới. Chính Ăngghen đã chỉ ra rằng: “Đạo Cơ Đốc không biết rằng những nghi lễ đã gây ra sự ngăn cách, thậm chí không biết đến cả các cuộc lễ giết súc vật tế thần và các cuộc lễ r−ớc thần của thời cổ điển. Nh− vậy là khi phủ định tất cả các tôn giáo và những nghi lễ chung cho tất cả các tôn giáo và khi đối xử không phân biệt với tất cả các dân tộc, chính đạo Cơ Đốc đã trở thành một tôn giáo thế giới đầu tiên có thể tồn tại đ−ợc. Đạo Do Thái với vị thần mới, vạn năng của mình cũng đang tìm cách trở thành tôn giáo thế giới. Nh−ng, những ng−ời con của Israel lúc nào cũng tỏ ra là ng−ời quý phái giữa các tín đồ và những ng−ời đã chịu làm lễ cắt đầu quy, và ngay cả đạo Cơ Đốc lúc đầu cũng phải giải thoát mình ra khỏi cái quan niệm (quan niệm này vẫn còn thống trị trong cái gọi là Khải thị của Iôan) về sự −u việt của những con chiên, đạo Cơ Đốc là những ng−ời Do Thái tr−ớc khi nó trở thành tôn giáo thế giới thực sự”(15). Quan niệm về linh hồn và sự bất tử của linh hồn là cơ sở quan trọng của nhận thức tôn giáo, bản chất của linh hồn chẳng qua chỉ là sản phẩm của sự t−ởng t−ợng của con ng−ời mà thôi nh− Ph. ănghen đã chỉ rõ: “Theo bản chất của nó, tôn giáo là sự rút hết toàn bộ nội dung của con ng−ời và giới tự nhiên, là việc chuyển nội dung đó sang cái bóng ma Th−ợng đế ở bên kia thế giới, Th−ợng đế này, sau đó, do lòng nhân từ, lại trả về cho con ng−ời và giới tự nhiên một chút ân huệ của mình. Khi mà lòng tin vào cái bóng ma ở bên kia thế giới ấy còn mãnh liệt và sôi nổi thì bằng con đ−ờng vòng nh− vậy con ng−ời chỉ có thể đạt đ−ợc đôi chút nội dung nào đó”(16) và “Kẻ nào xem toàn bộ tồn tại của mình, toàn bộ cuộc đời của mình nh− là ng−ỡng cửa để b−ớc vào Thiên đ−ờng, thì kẻ đó không thể quan tâm tới những công việc trần gian đúng nh− nhà n−ớc đòi hỏi ở những công dân của mình”(17). Tóm lại, những quan điểm về linh hồn và bản chất của linh hồn của Ph. Ăngghen vẫn còn nguyên giá trị thời đại để chúng ta nghiên cứu, ứng xử với tôn giáo. Trong điều kiện hiện tại của n−ớc ta hiện nay, khi mà những cơ sở hiện thực cho sự tồn tại của tôn giáo vẫn ch−a mất đi thì tôn giáo vẫn tiếp tục tồn tại, đúng nh− Đảng ta đã chỉ rõ: “Tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một phận nhân dân, đã và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở n−ớc ta”./. 15. Ph. ăngghen, Brunô Bauơ và đạo Cơ Đốc khởi thủy, trong Mác-ăngghen về tôn giáo, Sđd, tr. 398. 16. Ph. ăngghen, Tình cảnh n−ớc Anh, trong Mác- ăngghen về tôn giáo, Sđd, tr. 162-163. 17. Ph. ăngghen. Những bức th− từ Vúp Pơtan, trong Mác-ăngghen về tôn giáo, Sđd, tr. 141-142.
File đính kèm:
- ph_angghen_ban_ve_linh_hon_va_ban_chat_cua_linh_hon.pdf