Phạm trù lễ của khổng tử và ý nghĩa của nó
Tóm tắt Phạm trù lễ của khổng tử và ý nghĩa của nó: ...n dưới cho phân minh. Phải có lễ để phân định rõ ràng, khiến cho vạn vật không xáo trộn, mỗi vật đều thực hiện đúng vai trò vị trí của mình. Có lễ thì “kẻ tiểu nhân nghèo thì quá thúc ước bắt chước, khi giàu thì lại kiêu ngạo. Thúc ước quá thì (dễ) sinh ra trộm cắp, kiêu ngạo quá thì (dễ) xẩy ra làm... cấm những suy nghĩ lệc lạc của con người khi nó chưa hình thành ra. Lễ khiến con người ngày ngày tiếp xúc với những điều thiên, tránh xa những tội lỗi. Như vậy xét kỹ những nội dung đã bàn trên của phạm trù lễ của Khổng Tử chúng ta thấy, tác dụng của lễ bao hàm tất cả các hành vi con người và các..., không có Lễ thì không có tiết độ, ý nghĩa để thờ trời đất thần linh, không có Lễ thì không thể phân biệt đâu là tình trai gái, cha con, anh em hoặc những giao tình xa gần, hôn nhân. Bậc quân tử vì thế mà phải tôn kính Lễ”[8, tr 220] Ý nghĩa của lễ trong lĩnh vực chính trị, xã hội. Khổng Tử rất ch...
PHẠM TRÙ LỄ CỦA KHỔNG TỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ Ths. Võ Văn Dũng Có thể khẳng định rằng phạm trù “lễ” là một trong những phạm trù đạo đức có ý nghĩa phổ biến trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Trung Quốc, “lễ” được xem là một trong năm đức cơ bản nhất của con người. Phạm trù “lễ” gắn liền với việc giáo hóa đạo đức cho con người. Tuy nhiên bộ kinh lễ lại ra đời muộn nhất so với tất cả các kinh điển của Nho gia. Niên đại xuất hiện của bộ kinh này cũng hết sức mù mờ, do vậy sự truy tìm niên đại của nó cũng hết sức khó khăn. Tuy Kinh lễ chính thức xuất hiện muộn hơn so với những bộ kinh khác nhưng có thể khẳng định rằng phạm trù “lễ” được xuất hiện vào đầu thời kỳ nhà Hạ khoảng 2205 – 1766 TCN, sau đó “lễ” trở nên hưng thịnh nhất vào thời kỳ đầu nhà Chu khoảng thế kỷ XI TCN, nhưng lễ trở thành một phạm trù thực sự thì lại gắn liền với vai trò của Khổng Tử. Nội dung của Kinh Lễ đã có từ lâu, chỉ có phần ghi chép là hơi muộn màng. Thời gian Kinh Lễ được ghi chép thành sách rất dài có thể kể từ thời Chiến Quốc đến giữa thời Tây Hán. Sự ra đời của phạm trù “lễ” có hai nguyên nhân chính. Thứ nhất: “lễ” ra đời mục đích là tế tự, thuận theo đạo của trời đất để lý giải đạo của con người. Thứ hai: Quá trình phát triển của xã hội đòi hỏi phải có “lễ” để giáo hóa nhân tính con người, từ đó đặt ra chuẩn mực đạo đức chung cho toàn xã hội. Con người cần có “lễ” để làm quy tắc, chuẩn mực để phân định giới hạn thiện, ác. Phạm trù lễ đối với việc tu dưỡng tính tình. Khổng Tử rất coi trọng tình cảm của con người, ông cho rằng tất cả đều do tình cảm mà sinh ra. Vì thế thánh nhân phải dạy cho con người những đạo lý tốt đẹp nhất. Mục đích là để hình thành cho con người có những tình cảm tốt, tức là gây thành cái gốc của đạo nhân tồn tại trong mỗi cá thể của xã hội. Với chủ trương dùng lễ để giáo hóa tính tình, làm cho xã hội có chung một quan niệm đạo đức, tập quán để làm việc thiện, việc phải, mà vẫn tự nhiên không mang tính gò bó. Mục đích cuối cùng là để đưa xã hội từ vô đạo trở về với có đạo. Khổng Tử nói rằng “cung kính quá lễ thành ra lao nhọc thân hình; cẩn thận quá lễ thành ra nhát gan; dũng cảm quá lễ thành ra loạn nghịch; ngay thẳng quá lễ thành ra gắt gỏng, cấp bách”[2, tr 121]. Như vậy lễ theo Khổng Tử là cốt để giữ chừng mực cho những hành vi của con người trong xã hội, chính vì thế nên “Đạo đức nhân nghĩa mà thiếu lễ thì ắt không thành. Giáo huấn để chính đính phong tục mà thiếu lễ ắt không đầy đủ, ngay cả những việc phân tranh cãi cọ, không có lễ không thể giải quyết được.”[8, tr 37] Ông chủ trương người quân tử phải biết làm cho sáng cái lễ, phải biết cung kính tuân theo tiết độ của lễ. Trong xã hội phải lấy lễ làm nòng cốt, nếu không có lễ để làm tiêu chuẩn cho hành vi thì không thể phân định trên dưới. Trên quan điểm dùng lễ để tu dưỡng tính tính tình chúng ta thấy Khổng Tử hướng con người tới một đạo lý tốt đẹp. Lễ trong trật tự xã hội. Trong trật tự xã hội tồn tại thứ bậc, do vậy phải phân định rõ ràng trật tự xã hội trên dưới cho phân minh. Phải có lễ để phân định rõ ràng, khiến cho vạn vật không xáo trộn, mỗi vật đều thực hiện đúng vai trò vị trí của mình. Có lễ thì “kẻ tiểu nhân nghèo thì quá thúc ước bắt chước, khi giàu thì lại kiêu ngạo. Thúc ước quá thì (dễ) sinh ra trộm cắp, kiêu ngạo quá thì (dễ) xẩy ra làm loạn”[8, tr 241]. Muốn cho xã hội thoát khỏi loạn lạc, xã hội phồn vinh, thịnh trị “khiến cho dân giàu nhưng không đủ kiêu ngạo, nghèo nhưng không đến nổi quá tiết kiệm thăt buộc, quý nhưng không phạm đến bậc trên, nhờ vậy loạn tự hết”[8, tr 141]. Như vậy lễ đươc xem là chuẩn mực đạo đức chung của con người. Trên quan điểm con người vốn thiện. Khổng Tử cho rằng người ta sinh ra thích an tĩnh, nhưng trong quá trình tồn tại con người bị môi trường xung quanh làm cho động. Con người khi mới sinh ra như một tờ giấy không có vết tích của sự yêu và ghét, thế nhưng sau đó môi trường sống bắt đầu vẽ lên tờ giấy kia sự yêu và ghét. Quá trình đó làm cho yêu và ghét hình thành trong mỗi con người. Về bản chất thì yêu và ghét không có tiết độ bên trong nhưng bên ngoài thì chịu sự tác động của môi trường sống làm cho mê muội dẫn đến không làm chủ được bản thân mình. Nếu con người làm chủ được bản thân không để cho sự mê muội làm chủ bản thân thì còn biết phân biệt phải trá. Còn nếu chỉ làm theo sự ham muốn của bản thân thì thiên lý ắt bị tiêu diệt. Khổng Tử luôn lấy tính cảm của con người làm trọng. Theo ông tình cảm của con người rất khó nắm bắt, do vậy phải hướng tình cảm của con người tới những giá trị đạo đức cao cả, nếu không hướng tới được những giá trị đạo đức đó thì sẽ trở nên hư hỏng. Trên quan điểm đó chúng ta có thể hiểu con người thường tình hễ có thừa thì xa xỉ, khi thiếu thốn thì dè sẻn, nếu không ngăn cấm hành vi thì dẫn đến dâm đãng. Cái tình của con người không bộc lộ ra bên ngoài mà nó được ẩn khuất bên trong nên rất khó nắm bắt. Việc sử dụng lễ để giáo hóa con người đã đem lại nhiều thành quả tốt đẹp. Sự giáo hóa của lễ rất như có phép mầu nhiệm, ngăn cấm những suy nghĩ lệc lạc của con người khi nó chưa hình thành ra. Lễ khiến con người ngày ngày tiếp xúc với những điều thiên, tránh xa những tội lỗi. Như vậy xét kỹ những nội dung đã bàn trên của phạm trù lễ của Khổng Tử chúng ta thấy, tác dụng của lễ bao hàm tất cả các hành vi con người và các thiết chế của toàn xã hội. Nghĩa rộng của chữ lễ bao hàm cả pháp luật, thế nhưng tư tưởng của Khổng Tử lại thiên về cái quy củ mục đích là giáo hóa, trong lúc đó pháp luật lại thiên về cấm. Trong một số hoàn cảnh nhất định chúng ta thấy dùng lễ vẫn còn phù hợp, dùng lễ có thể ngăn cấm ngững việc chưa xẩy ra, trong lúc đó dùng hình là cái ngăn ngừa việc đã xẩy ra. Ý nghĩa của lễ trong phương diện đạo đức. Quá trình diễn tiến lịch sử, phạm trù lễ đã có sự biến đổi, nhưng dù biến đổi đến đâu đi nữa thì lễ cũng mang trong mình nó những giá trị đạo đức nhất định. Khổng Tử cho rằng, công dụng căn bản của lễ không có gì khác hơn là chính nền đạo đức. Ðạo nhân, đạo nghĩa, đạo tín, là những đức tính căn bản của lễ. Một người thiếu lễ, không thể là người quân tử “lễ là việc làm của con người, không có lễ, không có gì đứng vững được”[1, tr 336]. Do vậy trung, hiếu thực ra chỉ là những quy tắc tất yếu xây dựng trên nhân, nghĩa, và tín, trong khi lễ là một phương thế biểu hiện những đức tính trên. Lễ mang tính chất như một cái thước đo lường, cái thước phát xuất từ nội tâm nhưng có thể đo được con người nhờ vào hình thức ở bên ngoài. Nói cách khác, nếu nhân là cái bản chất của đạo đức, thì nghĩa là cái thước đo, là cái mức, cái hình mà chỉ theo đó ta mới nhận ra được nhân. Khổng Tử cho rằng “Phi lễ phi thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động: sắc chi không hạp lễ thì mình đừng ngó, tiếng chi chẵng hạp lễ thì mình đừng nghe, lời chi chẳng hạp lễ thì mình đừng nói, việc chi chẳng hạp lễ thì mình đừng làm”[2, tr 181]. Như vậy công dụng của lễ tồn tại trong tất cả những giá trị đạo đức của xã hội lúc bấy giờ “dân chúng do lễ mà sinh sống, vì vậy lễ rất lớn, không có Lễ thì không có tiết độ, ý nghĩa để thờ trời đất thần linh, không có Lễ thì không thể phân biệt đâu là tình trai gái, cha con, anh em hoặc những giao tình xa gần, hôn nhân. Bậc quân tử vì thế mà phải tôn kính Lễ”[8, tr 220] Ý nghĩa của lễ trong lĩnh vực chính trị, xã hội. Khổng Tử rất chú trọng đến lễ, xem lễ như là những quy phạm đạo đức, làm cho quốc gia ổn định, dân chúng có lợi. Điều chỉnh hành vi của dân, cho nên nhà cầm quyền phải dùng lễ để dạy phép tắc cho dân. Trong một xã hội không có “lễ” tất yếu sẽ sinh ra loạn lạc, tranh quyền, đoạt vị. Trên quan điểm đó Khổng Tử cho rằng lẽ làm cho cha nhân từ, con hiếu thảo, anh thương yêu em kính cẩn, chồng hòa hợp vợ nhu thuận. Lễ có công dụng trong các mối quan hệ, đặc biệt là quan hệ vua tôi. Ông cho rằng nếu nhà cầm quyền dùng lễ để cai trị khi hạ lệnh “bề tôi nghe theo, thuyết phục ở chổ có lễ thì xã tắc được bảo vệ giữ gìn vậy”[1, tr337]. Để bình ổn xã tắc theo ông nhà cầm quyền phải dùng lễ, nếu nhà cầm quyền dùng lễ để trị dân thì tự nhiên dân sẽ tự cảm hóa và thịnh trị. “Lễ sở dĩ gìn giữ được nước là do thi hành chính lệnh, không làm mất dân của nước”[1, tr 337]. Mục đích của lễ là để tu dưỡng đạo đức, con người có đạo đức là người luôn biết tự sửa mình để trở thành một con người lý tưởng. Khổng Tử chủ trương là con người nhất định phải biết lễ, như vậy đối với người học trước hết phải học lễ trước, khi đã biết lễ rồi thì sẽ biết cung kính người trên, nhường nhin người ở dưới. Người giàu không ức hiếp kẻ nghèo, người nghèo không vì thấy của cải mà phạm tội. Khi con người biết phân biệt lớn nhỏ, biết phân biệt thân sơ quý tiện thì xã hội sẽ thịnh trị. Một đất nước thịnh trị là một nước dùng lễ để cai trị. Lễ có công dụng làm bền cái gốc của nước, là uy thế của ngưới cai trị khi thi hành công việc. Nhận thức được tầm quan trọng của lễ nên Không Tử chủ trương nếu như con cháu của các bậc thân vương, sĩ, đại phu nếu không biết lễ thì phải làm thứ dân; tuy con cháu của thứ nhân mà hiểu lễ nghĩa thì có thể trở thành khanh tướng, sĩ, đại phu. Nhà vua xem lễ như một chuẩn mực để kiểm tra những hành vi của quan lại. Lễ không chỉ dành cho riêng ai mà nó dành cho tất cả con người trong xã hội được biểu hiện trong các mối quan hệ ngũ luân. Lễ trở thành mực thước để . Như vậy lễ được xem như cán cân công lý để cân sự nặng nhẹ, như dây mực để đo sự cong thẳng. mục đích của Khổng Tử làm sáng lễ là để làm rõ các mối quan hệ trong xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO Doãn Chính (2009), Từ điển triết học Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đoàn Trung Còn (dịch giả), (2006), Tứ thư, Nxb. Thuận Hóa. Đường Đắc Dương (2003), Cội nguồn văn hóa Trung Hoa, Nxb. Hội nhà văn. Nguyễn Hiến Lê (1991), Khổng Tử, Nxb. Văn hóa, Hà Nội. Khổng Tử (2007), Kinh thi, Quyển 1, Nxb. Văn học. Khổng Tử (2007), Kinh thi, Quyển 2, Nxb. Văn học. Khổng Tử (2004), Kinh thư, Nxb. Văn hóa- Thông tin, Hà Nội, (Trần Lê Sáng - Phạm Kì Nam dịch). Khổng Tử (2007), Kinh lễ, Nxb. Văn học.
File đính kèm:
- pham_tru_le_cua_khong_tu_va_y_nghia_cua_no.doc