Pháp luật về quản lý tài liệu điện tử và thực trạng quản lý tài liệu điện tử khoa học tại viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam

Tóm tắt Pháp luật về quản lý tài liệu điện tử và thực trạng quản lý tài liệu điện tử khoa học tại viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam: ...nhiệm của các cơ quan trong việc ứng dụng và việc đảm bảo ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan nhà nước. Sau Nghị định 64, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 34/2008/CT-TTg ngày 03/12/2008 về việc tăng cường sử dụng hệ thống thư điện tử trong hoạt động của ...ưu giữ để phúc đáp các yêu cầu tuyển chọn, nghiệm thu và thanh lý các hợp đồng và sản phẩm nghiên cứu khoa học. Ngoài các chương trình đề tài cấp bộ, cấp viện, tài liệu hội nghị hội thảo khoa học, các bài viết để đăng tải hàng tháng trên 32 tạp chí chuyên ngành thuộc Viện Hàn lâm Khoa ... liệu điện tử có hiệu quả cần phải có cơ chế chính sách và pháp luật đồng bộ, có sự chuẩn bị về nguồn lực và môi trường làm việc điện tử. Trước hết, cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về tài liệu điện tử để làm cơ sở pháp lý cho triển khai thực hiện chính phủ LÊ THỊ HẢI NAM – PHÁP ...

pdf9 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 268 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Pháp luật về quản lý tài liệu điện tử và thực trạng quản lý tài liệu điện tử khoa học tại viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệu lưu trữ điện tử phải đáp ứng các 
tiêu chuẩn dữ liệu thông tin đầu vào, bảo 
đảm tính kế thừa, tính thống nhất, độ xác 
thực, an toàn và khả năng truy cập, được 
bảo quản và sử dụng theo phương pháp 
chuyên môn, nghiệp vụ riêng biệt. Tài liệu 
được số hóa từ tài liệu lưu trữ trên các vật 
mang tin khác không có giá trị thay thế tài 
liệu đã được số hóa. 
 Luật Giao dịch điện tử đã đề cập đến 
những vấn đề như: nguyên tắc tiến hành 
giao dịch điện tử; thông điệp dữ liệu; chữ 
ký điện tử; hoạt động chứng thực chữ ký 
điện tử và đối tượng tham gia vào quá 
trình giao dịch điện tử; giá trị pháp lý của 
giao dịch điện tử; vấn đề an ninh an toàn, 
bảo vệ bảo mật trong giao dịch điện tử; 
vấn đề lưu trữ thông điệp dữ liệu. 
Dưới các bộ luật là hệ thống các văn bản 
quy phạm pháp luật của chính phủ và các 
bộ ngành có chức năng quản lý nhà nước 
về lĩnh vực thông tin, lưu trữ và công nghệ 
thông tin. 
Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 
của Chính phủ về ứng dụng công nghệ 
thông tin trong hoạt động của cơ quan 
nhà nước đã quy định cụ thể đối với việc 
ứng dụng tin học vào hoạt động quản lý 
của các cơ quan nhà nước, trách nhiệm 
của các cơ quan trong việc ứng dụng và 
việc đảm bảo ứng dụng công nghệ thông 
tin vào hoạt động của các cơ quan nhà 
nước. 
Sau Nghị định 64, Thủ tướng Chính phủ 
ban hành Chỉ thị số 34/2008/CT-TTg ngày 
03/12/2008 về việc tăng cường sử dụng hệ 
thống thư điện tử trong hoạt động của cơ 
quan nhà nước. Ngoài các quy định chung, 
văn bản phải đáp ứng các quy định cụ thể 
tại các điều của Luật Giao dịch điện tử. 
Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 
của Chính phủ quy định về việc cung cấp 
thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên 
trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin 
điện tử của cơ quan nhà nước; 
Ngày 20/9/2011, Bộ Thông tin và Truyền 
thông đã ban hành Thông tư số 24/2011/TT- 
BTTTT, quy định về việc tạo lập, sử dụng 
và lưu trữ dữ liệu đặc tả trên trang thông 
tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của 
cơ quan nhà nước. 
Ngày 22/5/2012, Thủ tướng Chính phủ 
ban hành tiếp Chỉ thị số 15/CT-TTg về việc 
tăng cường sử dụng văn bản điện tử trong 
hoạt động của cơ quan nhà nước. 
LÊ THỊ HẢI NAM – PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ TÀI LIỆU ĐIỆN TỬ 80 
Thực hiện Chỉ thị 15 của Thủ tướng Chính 
phủ, ngày 11/9/2012 Bộ Nội vụ đã ban 
hành Chỉ thị số 02/CT-BNV về việc tăng 
cường sử dụng văn bản điện tử trong hoạt 
động của Bộ(1). 
 Trước đó, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà 
nước đã có văn bản số 139/VTLTNN-
TTTH ngày 04/3/2009 về việc hướng dẫn 
quản lý văn bản đi, văn bản đến và lập hồ 
sơ trong môi trường mạng(2). Nhưng đây 
chỉ là văn bản mang tính hướng dẫn 
nghiệp vụ, vì không phải là văn bản quy 
phạm pháp luật nên tính pháp lý không cao. 
Cũng về vấn đề này, ngày 07/9/2012, Văn 
phòng Chính phủ đã ban hành Công văn 
số 7017/VPCP-HC về việc gửi file điện tử 
hồ sơ trình Chính phủ, Thủ tướng Chính 
phủ. Văn bản này ghi rõ kể từ ngày 
01/10/2012, Văn phòng Chính phủ sẽ 
không tiếp nhận và xử lý những hồ sơ 
không đính kèm văn bản điện tử(3). 
Như vậy, ở Việt Nam tài liệu điện tử, quản 
lý và lưu trữ tài liệu điện tử, trách nhiệm 
của các cơ quan đối với việc ứng dụng 
công nghệ thông tin, đảm bảo an ninh 
trong hoạt động ứng dụng công nghệ 
thông tin và quản lý, lưu trữ tài liệu điện tử 
đã được quy định trong các bộ luật và văn 
bản dưới luật. Giao dịch điện tử đã được 
khẳng định là phương thức truyền nhận tin 
thuận lợi, nhanh chóng và hiệu quả, thông 
điệp dữ liệu điện tử có giá trị pháp lý như 
văn bản giấy. Trách nhiệm của từng cơ 
quan trong việc ban hành văn bản pháp 
luật để hướng dẫn và tổ chức thực hiện, 
phối hợp tổ chức thực hiện, tạo môi trường 
làm việc điện tử, ứng dụng công nghệ 
thông tin, quản lý tài liệu điện tử, lưu trữ tài 
liệu điện tử cũng được quy định rõ trong 
các văn bản pháp luật hiện hành như đã 
nêu trên. 
Như vậy, có thể thấy hệ thống văn bản 
pháp luật hiện hành nhìn chung về cơ bản 
đã tương đối đầy đủ, riêng Chính phủ đã 
có những hoạt động cụ thể để triển khai và 
thực hiện những bước đi ban đầu để thực 
hiện chủ trương về một chính phủ điện tử 
ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự vào cuộc của 
cơ quan chủ quản vẫn còn chậm, thiếu văn 
bản quy định, hướng dẫn cụ thể nội dung 
lưu trữ tài liệu điện tử do Bộ Nội vụ ban 
hành để làm cơ sở cho bộ, ngành và cơ 
quan thuộc chính phủ xây dựng ban hành 
các quy định cụ thể dùng cho quản lý, lưu 
trữ, sử dụng tài liệu điện tử ở từng đơn vị. 
 2.2. Thực trạng quản lý tài liệu điện tử 
khoa học ở Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội 
Việt Nam 
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam là 
cơ quan nghiên cứu khoa học xã hội và 
nhân văn hàng đầu của đất nước, sản 
phẩm chính của Viện là các công trình 
nghiên cứu khoa học, kết quả các hội thảo 
khoa học quốc gia và quốc tế. Yêu cầu 
giao dịch ký kết hợp tác nghiên cứu, đào 
tạo, trao đổi khoa học với các cơ quan, tổ 
chức, viện nghiên cứu và trường đại học ở 
trong và nước ngoài diễn ra thường xuyên. 
Những hoạt động trên nếu được thực hiện 
trên môi trường điện tử sẽ rất thuận lợi và 
nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và giảm 
giấy tờ. Do đó, nhu cầu về một môi trường 
làm việc điện tử và giao dịch điện tử ở đây 
là hết sức cần thiết. 
Trong nhiều năm trở lại đây, Viện Hàn lâm 
Khoa học Xã hội Việt Nam đã tích cực ứng 
dụng tin học trong các hoạt động hội thảo, 
trong các giao dịch ký kết hợp tác với các tổ 
LÊ THỊ HẢI NAM – PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ TÀI LIỆU ĐIỆN TỬ 
81
chức nước ngoài. Tài liệu điện tử của Viện 
Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam cũng vì 
thế mà được hình thành và sử dụng trong 
hoạt động thực thi công việc tại đây. Việc 
ứng dụng các trang thiết bị điện tử phục vụ 
cho giao dịch điện tử, chuyển tải, tiếp nhận 
tài liệu điện tử, lưu giữ và quản lý tài liệu 
điện tử phục vụ cho công việc hiện hành 
đều xuất phát từ nhu cầu công việc. 
Ở Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, 
tài liệu nghiên cứu khoa học, đặc biệt là 
các kết quả nghiên cứu khoa học cấp bộ 
đã được Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội 
Việt Nam quan tâm và có quy định phải 
nộp lưu cho Ban Quản lý khoa học để 
phục vụ cho nghiệm thu đánh giá, hết giai 
đoạn hiện hành phải nộp lưu vào Lưu trữ 
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. 
Tuy nhiên, đây mới chỉ là quy định đối với 
tài liệu truyền thống – tài liệu giấy. Hiện 
nay, trong quá trình hoạt động nghiên cứu 
và quản lý nghiên cứu của Viện, tài liệu 
điện tử khoa học đã hình thành và được 
các chủ nhiệm và thư ký của đề tài lưu giữ 
để phúc đáp các yêu cầu tuyển chọn, 
nghiệm thu và thanh lý các hợp đồng và 
sản phẩm nghiên cứu khoa học. Ngoài các 
chương trình đề tài cấp bộ, cấp viện, tài liệu 
hội nghị hội thảo khoa học, các bài viết để 
đăng tải hàng tháng trên 32 tạp chí chuyên 
ngành thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội 
Việt Nam cũng đã được chuyển tải bằng 
phương tiện điện tử và lưu giữ trên các 
phương tiện điện tử trong giai đoạn tài liệu 
đang hiện hành của từng đơn vị. Tất cả đều 
chưa được quản lý, nộp lưu bài bản vì chưa 
có quy định cụ thể của Viện Hàn lâm Khoa 
học Xã hội Việt Nam và các đơn vị trực 
thuộc về vấn đề sử dụng giao dịch điện tử 
và lưu trữ tài liệu điện tử. 
Những phần mềm quản lý hồ sơ tài liệu 
với dạng mở, trong đó có thể kết nối cho 
việc lưu giữ tài liệu điện tử “đi” và “đến” 
cũng được xây dựng để phục vụ nhu cầu 
đính file văn bản tài liệu điện tử dùng trong 
công tác lưu trữ tài liệu điện tử. Bên cạnh 
đó, Trung tâm ứng dụng công nghệ thông 
tin của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt 
Nam đã phối hợp với Phòng lưu trữ chuyển 
tải Danh mục các công trình nghiên cứu 
khoa học lên trang thông tin của Viện Hàn 
lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. 
Tuy nhiên, các công việc như gửi các hồ 
sơ bảo vệ kế hoạch và sản phẩm nghiên 
cứu khoa học các cấp qua mạng đến các 
thành viên hội đồng tuyển chọn, hội đồng 
nghiệm thu; các sản phẩm cuối cùng của 
hoạt động nghiên cứu và hồ sơ khoa học 
giao nộp vào cơ quan lưu trữ của Viện 
Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, cơ 
quan thông tin của Viện Hàn lâm Khoa học 
Xã hội Việt Nam và của Bộ Khoa học Công 
nghệ nhằm tiết kiệm thời gian và giảm giấy 
tờ cho đến nay vẫn còn là một vấn đề bỏ 
ngỏ, chưa thực hiện. 
Từ thực trạng nêu trên có thể thấy Viện 
Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã 
hình thành tài liệu điện tử và thực hiện một 
số giao dịch điện tử xuất phát từ nhu cầu 
công việc nội tại của Viện. Tuy chưa phổ 
biến, nhưng việc truyền nhận tài liệu điện 
tử để giải quyết công việc cơ quan, đơn vị 
đã được thực hiện nhưng đang ở tình 
trạng “tự phát”, nghĩa là mỗi chuyên viên ở 
cơ quan đơn vị đã thực hiện lưu giữ và 
quản lý tài liệu điện tử để phúc đáp yêu 
cầu công việc hiện hành đối với mảng 
công việc mình được phân công, mà chưa 
có các quy định quản lý hiện hành của 
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. 
LÊ THỊ HẢI NAM – PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ TÀI LIỆU ĐIỆN TỬ 82 
Do vậy, việc lưu giữ, quản lý trên đây mới 
chỉ xuất phát từ nhu cầu thiết yếu do công 
việc mà chưa xuất phát từ yêu cầu quy 
định hiện hành của nhà nước và của cơ 
quan, bởi đến nay vẫn chưa có văn bản 
của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt 
Nam quy định cụ thể về tài liệu lưu trữ điện 
tử và quản lý tài liệu điện tử ở Viện Hàn 
lâm Khoa học Xã hội Việt Nam và các đơn 
vị trực thuộc. 
Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân 
Mặc dù đã có những văn bản pháp luật 
quy định, hướng dẫn về giao dịch điện tử, 
ứng dụng tin học trong quản lý thông tin, 
lập hồ sơ trong môi trường mạng nhưng 
việc ứng dụng vào Viện Hàn lâm Khoa học 
Xã hội Việt Nam đối với các nội dung này 
còn rất chậm. 
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam 
và các đơn vị trực thuộc chưa xây dựng 
được môi trường làm việc điện tử để chính 
thức thực hiện giao dịch, chuyển nhận, lưu 
trữ tài liệu điện tử. Mặc dù nhu cầu thực 
hiện giao dịch điện tử tại Viện là rất lớn. 
 Nguyên nhân của những vấn đề nêu trên 
là do Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt 
Nam chưa có quy định cụ thể về việc quản 
lý, lưu trữ tài liệu điện tử nên chưa thực 
hiện lưu trữ tài liệu điện tử ở cấp Viện Hàn 
lâm Khoa học Xã hội Việt Nam và cấp đơn 
vị trực thuộc. Tài liệu lưu trữ điện tử mặc 
dù đã hình thành, giao dịch điện tử đã thực 
hiện ở một số mảng việc trong cơ quan 
nhưng tài liệu điện tử chưa được tổ chức 
lưu trữ, quản lý. 
Mặt khác, văn bản pháp luật hiện hành của 
nhà nước về quản lý tài liệu lưu trữ điện tử 
còn thiếu, chưa có văn bản quy định, 
hướng dẫn cụ thể về quản lý tài liệu lưu 
trữ điện tử để làm cơ sở cho triển khai 
thực hiện việc lưu trữ tài liệu điện tử trong 
từng cơ quan tổ chức và toàn hệ thống 
chính trị. Luật Lưu trữ cũng chỉ mới quy 
định những điều rất chung về tài liệu lưu 
trữ điện tử, Chính phủ cũng đã chỉ đạo các 
bộ ngành liên quan để cụ thể hóa các nội 
dung pháp luật hiện hành nhưng thực tiễn 
vẫn thiếu các hướng dẫn cụ thể chi tiết của 
Bộ Nội vụ, cơ quan quản lý nhà nước về 
hoạt động văn thư lưu trữ - lĩnh vực 
chuyển nhận lưu tài liệu điện tử. Do đó, 
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam 
đến nay vẫn chưa chủ động triển khai thực 
hiện giao dịch điện tử và quản lý tài liệu 
điện tử, còn chờ các quy định, văn bản 
hướng dẫn cụ thể của Bộ Nội vụ về vấn đề 
lưu trữ tài liệu điện tử.
Cùng với đó là trình độ của đội ngũ cán bộ 
làm công tác văn thư, lưu trữ còn hạn chế, 
nên thiếu tham mưu trong thực hiện quản 
lý tài liệu lưu trữ điện tử. Nhận thức của 
lãnh đạo quản lý các cấp và cán bộ, viên 
chức chưa đầy đủ về tài liệu điện tử và lưu 
trữ tài liệu điện tử cũng là bước cản trong 
thực thi chính phủ điện tử và lưu trữ tài liệu 
điện tử hiện nay. 
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ 
TÀI LIỆU ĐIỆN TỬ HIỆN NAY 
Từ thực trạng pháp luật hiện hành nói trên 
và qua thực tế của Viện Hàn lâm Khoa học 
Xã hội Việt Nam cho thấy, để quản lý và 
lưu trữ tài liệu điện tử có hiệu quả cần phải 
có cơ chế chính sách và pháp luật đồng bộ, 
có sự chuẩn bị về nguồn lực và môi trường 
làm việc điện tử. 
Trước hết, cần phải hoàn thiện hệ thống 
pháp luật về tài liệu điện tử để làm cơ sở 
pháp lý cho triển khai thực hiện chính phủ 
LÊ THỊ HẢI NAM – PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ TÀI LIỆU ĐIỆN TỬ 
83
điện tử và lưu trữ tài liệu điện tử. Cụ thể là, 
Bộ Nội vụ cần phải xây dựng và ban hành 
quy định về quản lý tài liệu điện tử để làm 
cơ sở cho các bộ, ngành, cơ quan xây 
dựng các quy định cụ thể của từng cơ 
quan, đơn vị về nội dung quản lý lưu trữ tài 
liệu điện tử. Từ quy định này các cơ quan 
đơn vị phải cụ thể hóa thành quy định của 
đơn vị để phù hợp với điều kiện của cơ 
quan mình cho dễ thực hiện. 
Để làm được vấn đề này thì các quy định 
cụ thể trong văn bản hiện hành phải đảm 
bảo được sự tham gia của lưu trữ vào toàn 
bộ vòng đời tài liệu từ việc thiết lập hệ 
thống điện tử tạo ra và lưu giữ tài liệu lưu 
trữ điện tử, để bảo đảm cho việc tạo lập và 
giữ lại những tài liệu thực sự xác thực, 
đáng tin cậy và có thể lưu trữ được. Trong 
môi trường điện tử, xác định giá trị tài liệu 
phải được tiến hành ngay từ những giai 
đoạn đầu của vòng đời tài liệu, thường là 
trước khi bất kỳ một tài liệu nào được tạo 
lập. Vì vậy, lưu trữ phải quản lý quá trình 
xác định giá trị và thực hiện sự kiểm soát 
đối với tài liệu lưu trữ điện tử. 
Thứ hai, cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán 
bộ viên chức, công chức thực thi công vụ 
phải nhận thức đúng và đầy đủ về chính 
phủ điện tử, tài liệu điện tử, quản lý tài liệu 
điện tử và chức trách của từng cá nhân, tổ 
chức đối với vấn đề này. 
Cần thiết phải tổ chức tuyên truyền, phổ 
biến các quy định pháp luật về giao dịch 
điện tử, lưu trữ tài liệu điện tử, để cán bộ, 
công chức viên chức họat động trong bộ 
máy công quyền nắm rõ hơn và hiểu đúng 
về tài liệu điện tử và trách nhiệm quản lý 
lưu giữ tài liệu điện tử. Đảm bảo cho những 
cơ quan, tổ chức hay cá nhân sản sinh ra 
tài liệu sẽ tạo ra và giữ lại được những tài 
liệu thực sự xác thực, đáng tin cậy. 
Thứ ba, phải tạo được điều kiện cơ sở vật 
chất, môi trường làm việc điện tử. Đó là 
việc cung cấp và quản lý những công nghệ 
thông tin mà tài liệu cần phải được đảm 
bảo, khung cấu trúc để quản lý tài liệu điện 
tử. Đảm bảo được các hệ thống thông tin 
điện tử được thiết kế, phát triển (xây dựng) 
và thực thi (áp dụng) đáp ứng yêu cầu về 
bảo quản và tiếp cận khai thác, nhằm đảm 
bảo rằng tài liệu lưu trữ điện tử luôn ở 
trạng thái sẵn sàng, có thể tiếp cận khai 
thác và có thể đọc và sử dụng được. 
Thứ tư, quản lý tài liệu điện tử và giao dịch 
điện tử trong hoạt động của các cơ quan 
nhà nước nói chung và Viện Hàn lâm Khoa 
học Xã hội Việt Nam nói riêng mới chỉ là 
bước đi khởi đầu trong một môi trường mà 
pháp luật chưa thực sự đầy đủ, đa số cán 
bộ công chức và viên chức chưa thực sự 
sẵn sàng và chưa trang bị đầy đủ kiến 
thức cho môi trường làm việc mới - môi 
trường điện tử. Rất nhiều vấn đề đang đặt 
ra như quản lý an toàn thông điệp dữ liệu 
và chữ ký điện tử; phương thức giao dịch 
truyền thống và tài liệu giấy có thể tồn tại 
song hành hay sẽ bị thay thế hoàn toàn 
bởi tài liệu điện tử và giao dịch điện tử; lưu 
giữ lâu dài tài liệu điện tử khi mà khoa học 
và công nghệ ngày càng phát triển và luôn 
đổi mới Đó là những vấn đề đang và sẽ 
đặt ra mà các nhà quản lý về lưu trữ ở Việt 
Nam cần phải nghiên cứu kỹ để có những 
định hướng trong tương lai đối với việc 
quản lý tài liệu điện tử. 
Vì vậy, để thực hiện chính phủ điện tử nói 
chung và lưu trữ tài liệu điện tử nói riêng, 
đặc biệt là quản lý tài liệu điện tử về hoạt 
động khoa học càng cần phải xác định đây 
LÊ THỊ HẢI NAM – PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ TÀI LIỆU ĐIỆN TỬ 84 
là một công việc quan trọng, cần phải bắt 
đầu từ nhận thức, từ pháp luật và nhiều 
yếu tố khác nữa mới có thể tạo được môi 
trường làm việc điện tử thực sự. 
Trong điều kiện hiện nay để có thể xây 
dựng được chính phủ điện tử, lưu trữ 
được tài liệu điện tử có giá trị thì hơn ai hết 
những người làm công tác lưu trữ và bộ 
ngành chủ quản về lưu trữ, mà cụ thể là 
Bộ Nội vụ, cần phải có chiến lược và lộ 
trình cụ thể và phải là lực lượng tiên phong 
thì chính phủ điện tử và lưu trữ tài liệu điện 
tử mới có thể thành công. 
Bài học về kinh nghiệm quản lý tài liệu 
điện tử tại Cộng hòa Liên bang Nga tại Hội 
thảo do Trường Đại học Nội vụ Hà Nội chủ 
trì tại thành phố Đà Nẵng ngày 25/11/2012 
đã cho thấy vai trò, ý nghĩa về tài liệu điện 
tử và việc quản lý tài liệu điện tử ở Cộng 
hòa Liên bang Nga đã được Luật hóa và 
chi phối bởi các văn bản pháp quy của 
Chính phủ và các chính sách cụ thể(4). Đây 
là một gợi mở của các nước tiên tiến mà 
Việt Nam, một quốc gia đi sau cần tham 
khảo trong thời gian tới. Đặc biệt, cần có 
những định chế về chuyển đổi công tác 
văn bản không giấy (phi giấy tờ) sang tài 
liệu điện tử của cơ quan hành chính nhà 
nước, quy định về hệ thống chu chuyển 
văn bản điện tử trong hệ thống các cơ 
quan hành chính nhà nước. 
Trên bình diện là một cơ quan thuộc chính 
phủ, trước mắt, Viện Hàn lâm Khoa học Xã 
hội Việt Nam cần phải chủ động, tích cực 
trong việc tạo dựng các cơ sở pháp lý và 
môi trường làm việc điện tử ở ngay chính 
cơ quan, đơn vị mình, triển khai xây dựng 
hệ thống chu chuyển văn bản tài liệu điện 
tử, ứng dụng một số nội dung như chuyển, 
nhận văn bản hành chính, tài liệu hồ sơ 
khoa học trong môi trường mạng, phát huy 
vai trò của Trung tâm Ứng dụng Công 
nghệ thông tin thuộc Viện Hàn lâm Khoa 
học Xã hội Việt Nam trong thực hiện, chủ 
trương chính phủ điện tử, giao dịch điện tử 
và lưu trữ tài liệu điện tử. ‰ 
CHÚ THÍCH 
(1) Phòng lưu trữ, Viện Khoa học Xã hội Việt 
Nam, Tập lưu văn bản đến năm 2005, 2006, 
2007, 2008, 2009, 2011, 2012. 
(2)  
s/View.aspx?CategoriesID=4&DocumentID=697. 
(3)  
nhphu/hethongvanban?class_id=2&_page=1&
mode=detail&document_id=163703. 
(4) V.Ph. Iankovaia, Kinh nghiệm quản lý tài liệu 
điện tử tại Liên bang Nga, Hội thảo khoa học 
“Quản lý tài liệu điện tử và lưu trữ điện tử - 
Thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế”, 
Thành phố Đà Nẵng ngày 25/11/2012. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Nội vụ. 2012. Chỉ thị số 02/CT-BNV ngày 
11/9/2012 về việc tăng cường sử dụng văn 
bản điện tử trong hoạt động của Bộ Nội vụ. 
2. Bộ Thông tin và Truyền thông. 2011. Thông 
tư số 24/2011/TT-BTTTT ngày 20/9/2011, quy 
định về việc tạo lập, sử dụng và lưu trữ dữ 
liệu đặc tả trên trang thông tin điện tử hoặc 
cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước. 
3. Chính phủ. 2007. Nghị định số 64/2007/ 
NĐ-CP ngày 10/4/2007 về ứng dụng công 
nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan 
nhà nước. 
4. Chính phủ. 2011. Nghị định số 
43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 quy định về 
việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực 
(xem tiếp trang 46)
LÊ THỊ HẢI NAM – PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ TÀI LIỆU ĐIỆN TỬ 
85 
(Tiếp theo trang 84) 
tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng 
thông tin điện tử của cơ quan nhà nước. 
9. Quốc hội. 2011. Luật Lưu trữ, 
chinhphu/hethongvanban. 4. Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước. 2009. 
Công văn số 139/VTLTNN-TTTH ngày 
04/3/2009 về việc hướng dẫn quản lý văn 
bản đi, văn bản đến và lập hồ sơ trong môi 
trường mạng. 
6. Quốc hội. 2005. Luật Giao dịch điện tử 
chinhphu/hethongvanban. 
7. Quốc hội. 2006. Luật Công nghệ Thông tin, 
chinhphu/hethongvanban. 
8. Quốc hội. 2006. Luật Giao dịch điện tử. 
chinhphu/hethongvanban. 
10. Thủ tướng Chính phủ. 2008. Chỉ thị số 
34/2008/CT-TTg ngày 03/12/2008 về việc 
tăng cường sử dụng hệ thống thư điện tử 
trong hoạt động của cơ quan nhà nước. 
11. Thủ tướng Chính phủ. 2012. Chỉ thị số 
15/CT-TTg ngày 22/5/2012, về việc tăng 
cường sử dụng văn bản điện tử trong hoạt 
động của cơ quan nhà nước. 
12. Văn phòng Chính phủ. 2012. Công văn 
số 7017/VPCP-HC ngày 07/9/2012 về việc 
gửi file điện tử hồ sơ trình Chính phủ, Thủ 
tướng Chính phủ, Tập lưu văn bản đến năm 
2012, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 

File đính kèm:

  • pdfphap_luat_ve_quan_ly_tai_lieu_dien_tu_va_thuc_trang_quan_ly.pdf