Phật giáo và khoa học trên báo chí phật giáo Việt Nam trước 1945
Tóm tắt Phật giáo và khoa học trên báo chí phật giáo Việt Nam trước 1945: ...hồn, cũng nghe cũng thấy NGUYỄN THỊ THẢO – PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC TRÊN BÁO CHÍ 64 Lập luận trên tạp chí Viên âm thật sự đã gây hoang mang rất nhiều đối với những người tin có linh hồn bất tử. Bác sĩ Tây y Lê Đình Thám giải thích linh hồn rất có khoa học và ngay cả trong chiêm bao, ông ...còn trong vòng đối đãi, chưa thoát chữ để hiểu nghĩa, chưa vượt sự để thấu lý. Liên Tôn cho rằng ngoài tâm có Phật, Phật ở ngoài tâm, đó là trái với nguyên lý cơ bản của Phật giáo. Từ đó, Thiện Chiếu đã trả lời cho Liên Tôn rằng cái thuyết thưởng phạt của tôn giáo quan niệm ai làm lành... thực có bằng cách cho rằng các giác quan của ta đánh lừa ta. Lâu nay ta bị u mê bởi thành kiến và tập quán, cho nên tin là có thật những điều tai nghe, mắt thấy. Từ đó sư Đôn Hậu viết: “Hiện nay do đâu mà chúng ta biết rằng có sự sự vật vật? Hỏi như vậy chắc ai cũng trả lời rằng: vì chú...
lạc hay Địa ngục ở nơi nào khác. Trong tạp chí Bát nhã âm số 23, Giác Quang đã đưa ra bài luận Phải tin về pháp Tịnh Độ, xác định phương pháp tu Tịnh Độ một cách đúng đắn: “Người không có đức tin thì chẳng hề thưởng thức đặng lối kết quả mĩ mãn. Người chẳng tin thì mỗi mỗi hành vi cử chỉ gì chẳng hề để vào trong ký ức. Than ôi! Như thuyết Tịnh độ đây do đâu mà chẳng tín vậy? Sao là Tịnh độ? Cõi Tịnh độ đây là cõi thế giới Cực lạc ở phương Tây”. Ngay từ Đuốc tuệ số đầu tiên ra ngày 10/12/1935, đã có sự đóng góp của Nguyễn Trọng Thuật. Ông cũng khẳng định tư tưởng cho rằng có cảnh giới Cực lạc của Phật A Di Đà. Với bài Sự tích Đức Phật A Di Đà, ông đã nêu rõ: “A Di Đà là một vị Phật do đức Giáo chủ Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp nói ra, để dạy cho chúng sinh cõi Sa Bà biết tới một đấng đạo sư ở cõi Cực Lạc hằng sẵn lòng tiếp dẫn chúng sinh về nơi thế giới của Ngài.” Trong Đuốc tuệ số 53, ra tháng 01/1937 thì có bài viết kể lại chuyện Phật Thích Ca nói về cảnh Cực lạc rất thú vị: “Từ cõi trần này sang Tây phương, qua biết bao nhiêu cõi đất khác thì đến một cõi thế giới gọi là Cực lạc thế giới. Ở đấy có Phật A Di Đà đang thuyết pháp, còn chúng sinh ở đó thì không chịu khổ sở nào hết, chỉ hưởng sung sướng đủ điều, nên gọi là Cực lạc, cũng gọi là Tịnh độ hay Tịnh thổ”. Với tư tưởng đó, trên tạp chí Từ bi âm số 47, ra ngày 01/02/1933 có Hòa thượng Nguyễn Chánh Tâm đã nói về Bốn mươi tám lời phát nguyện của Phật A Di Đà, nhằm chỉ cho tín đồ con đường tu tập sinh về Cực lạc theo Phật A Di Đà. Những luận giải cho rằng có cõi Cực lạc và Địa ngục quả thật không trái với triết lý Phật giáo, nhưng đó là hiểu về mặt sự, có thể ứng dụng cho những ai mới tìm hiểu Phật pháp, giúp họ nương vào cảnh Cực lạc tuyệt vời đó mà chuyển hóa thân tâm. Hoặc khiến cho con người biết sợ rơi vào cảnh Địa ngục khổ đau mà không dám làm điều ác. Cụ thể như ngay trong cuộc sống hiện tại, nếu ai giết người, hại người thì sẽ bị pháp luật bắt giam, hành phạt; nếu cướp của hay vi phạm pháp luật, cũng sẽ bị trừng trị đúng theo luật nhà nước ban hành và đó chính là địa ngục. Còn nếu ai làm tốt sẽ được ban thưởng, được giàu sang, hạnh phúc, đó là Cực lạc, là Niết bàn ngay trong đời sống. Còn hiểu về lý sâu rộng hơn thì phải thấy được Cực lạc hay Địa ngục là chính ngay tâm người hiện tại. Chỉ cần lắng tâm, dứt hết mọi vọng tưởng là sống với Niết bàn, là Cực lạc. Còn nếu để tâm khổ đau, để mọi buồn phiền lôi cuốn tâm hồn không yên tĩnh thì đó là trạng thái Địa ngục. NGUYỄN THỊ THẢO – PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC TRÊN BÁO CHÍ 69 4. TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO VỀ NGOẠI GIỚI Con người xưa nay vẫn luôn thắc mắc rằng thế giới này có từ khi nào? Câu hỏi ấy chứa đựng một bí ẩn vô cùng to lớn. Từ lâu, những bộ óc vĩ đại của con người không ngừng tìm hiểu nguồn gốc của thế giới, nhưng thực tế, vấn đề nhận thức về thực tại của thế giới bên ngoài, hay thực tại của các đối tượng thế giới bên ngoài, nhìn chung là chưa được giải quyết một cách triệt để. Phật giáo đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam những quan niệm biện chứng với các khái niệm “vô thường”, “vô ngã”, “duyên sanh”. Ở đó cho thấy Phật giáo nhìn sự vật trong sự vận động và biến đổi liên tục, không có gì trụ lại mãi mãi, không có gì tồn tại mãi mãi. Vào giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX, hầu như lúc bấy giờ, các tạp chí Phật học như Từ bi âm, Duy tâm, Viên âm, Đuốc tuệ v.v.. đều nhất trí quan điểm Phật giáo nhìn nhận thế giới quan là “các hành vô thường”, tức là muôn vật đều vận động biến đổi không ngừng. Theo Phật giáo, thế giới vũ trụ được dệt nên bởi những hệ thống trùng trùng duyên khởi. “Cái nầy có thì cái kia có, cái nầy sinh thì cái kia sinh, cái nầy không thì cái kia không, cái nầy diệt thì cái kia diệt”. Đó là nhận định căn bản và sâu sắc của đạo Phật. Vì vậy, thế giới quan mà Đức Phật thuyết minh là thế giới quan nhân duyên. Trong thế giới nhân duyên, không thể có những hiện tượng thường hằng vĩnh cửu. Các pháp do nương nhau mà tồn tại, nương nhau mà hoại diệt. Tất cả đều có sự liên hệ mật thiết với nhau. Không có sự liên hệ ấy, sẽ không có một vật nào được thành lập. Sự liên hệ ấy gọi là nhân duyên. Từ chỗ nhận định ấy mà báo chí Phật giáo lúc bấy giờ hầu như đi đến kết luận “các pháp không có thực tính”. Về vấn đề này, tạp chí Viên âm ra sức chứng minh sự kiện “muôn vật không thực có”. Trong Viên âm số 5, ra tháng 5/1934 có bài viết: “Một vật chi, phải tự nó có tính chất nhất định mới có thể là có được. Nay chúng ta hãy đem những món mắt thấy ra mà xét thử nó là thật có hay là không thật có”. Từ đó, tạp chí Viên âm giải thích những món mắt thấy tuy nhiều, nhưng không ngoài bốn món là sáng và tối, có hình và không hình. Cái sáng nhờ đối với cái tối nên hóa ra cái sáng, cái tối nhờ đối với cái sáng nên hóa ra cái tối. Cái có hình nhờ đối với cái không hình mà hóa ra có hình, cái không hình nhờ đối với cái có hình mà hóa ra không hình. Xét cho kỹ, không có vật gì mà riêng phần nó có tính chất nhất định. Rồi tạp chí Viên âm kết luận muôn vật trên đời là không thật có. Tạp chí Viên âm số 6, ra tháng 5 năm 1934 cũng luận rằng dầu sự vật gì, xét cho cùng tột chỉ thấy có các nhân duyên mà không thấy thực có một sự vật nào. Nhưng các nhân duyên kia cũng chỉ là sự vật, cũng chỉ vì nhân duyên hòa hợp mà thành, chứ cũng không thật nữa. Tạp chí còn dẫn chứng đoạn kinh Lăng nghiêm: “Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sanh, nhân duyên biệt ly, hư vọng đoạn diệt”. Nếu lập luận như vậy thì quả là tạp chí Viên âm đã đi theo đúng tư tưởng triết lý Phật giáo cho rằng vạn pháp duyên sanh mà không phải thực có. Vì duyên sanh nên chúng vô thường, không trường tồn vĩnh cửu. NGUYỄN THỊ THẢO – PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC TRÊN BÁO CHÍ 70 Song song với quan điểm này, còn có sư Thích Đôn Hậu luận giải trong tạp chí Viên âm ra ngày 27/8/1937 về đề tài Đâu là con đường hạnh phúc. Sư Đôn Hậu tuy đồng ý với Lê Đình Thám về những kiến giải trên, nhưng lập luận có phần xác thực và chi tiết hơn. Sư chứng minh mọi sự vật không thực có bằng cách cho rằng các giác quan của ta đánh lừa ta. Lâu nay ta bị u mê bởi thành kiến và tập quán, cho nên tin là có thật những điều tai nghe, mắt thấy. Từ đó sư Đôn Hậu viết: “Hiện nay do đâu mà chúng ta biết rằng có sự sự vật vật? Hỏi như vậy chắc ai cũng trả lời rằng: vì chúng ta hiện thấy, hiện nghe, hiện cảm xúc, nên biết ngay rằng có sự sự vật vật. Nhưng nếu nói hiện thấy thì sao chúng ta hiện thấy những bóng trong gương lại không cho là thực có. Nếu nói là hiện nghe thì sao khi nghe tiếng vù vù trong lỗ tai mà không cho là thực có. Nếu nói rằng hiện cảm xúc thì sao đồng một vật, khi tay ta mới cầm nước đá trở rờ bàn ghế đều thấy ấm cả, còn khi tay ta mới nhúng nước nóng, trở rờ bàn ghế đều thấy lạnh cả. Cho đến cảm giác nơi lỗ mũi, nơi cái lưỡi cũng không nhất định. Vậy chúng ta còn nương vào đâu mà cho rằng thực có sự vật?”. Sư Đôn Hậu còn chứng minh rằng muôn sự muôn vật, sự vật gì cũng có thể chia chẻ ra các nguyên nhân, các bộ phận, cho nên sự vật gì cũng chỉ có danh từ chứ không có thực thể. Ví như một quyển sách, do cái bìa, tờ giấy, mực và do nhân công tạo thành, nhưng bìa là bìa chứ không phải là sách, nhân công là nhân công chứ không phải là sách và trừ các cái ấy ra, thì không có cái gì đáng gọi là sách cả. Vậy quyển sách cũng chỉ là một danh từ mà không có thực thể, cho đến cái bìa cũng vậy. Cái bìa là do nhiều bộ phận nhóm hợp lại mà thành, xé ra từng mảnh thì không có phần nào đáng gọi là bìa cả. Cho đến thân thể của ta cũng vậy, thân thể do các tế bào nhóm hợp tạo thành, chỉ có danh từ mà không có thực. Quả thật, những lập luận trên của Viên âm rất đúng với triết lý “nhân duyên giả hợp” của Phật giáo. Đây chính là quan điểm thứ nhất của thuyết duy thức Phật giáo cho rằng “vạn pháp không thực có”, mọi vật đều do “nhân duyên giả hợp” nên chúng luôn vô thường, không tồn tại vĩnh cửu. Tuy nhiên, với báo chí Phật giáo, để lý giải rõ hơn về vạn vật và con người, họ đã dựa vào Duy thức luận của Phật giáo, còn nhận định con người qua thuyết “vô ngã”, tức là không có cái tôi chân thực. Đây là đặc điểm thứ hai của thuyết duy thức. Sư Đôn Hậu lại lý giải rõ hơn về tính vô ngã của con người. Sư nói rằng khi ta thấy, ấy là cảm giác của con mắt; ta nghe, ấy là cảm giác của tai; ta biết nóng, lạnh, trơn, nhám, cứng, mềm là cảm giác của thân thể; ta biết phân biệt sự này, vật khác, đó là cảm giác của ý chí. Tách rời các thứ cảm giác đó ra thì có gì tồn tại thiết thực đâu mà gọi là thực ngã. Lại nếu ta nhận cái cảm giác nơi con mắt là ngã, là ta, thế thì những cảm giác khác không phải là ngã, là ta sao? Hoặc nếu tất cả các cảm giác đều là ngã thì hóa ra có nhiều cái ngã quá. Vậy cái ngã nào mới thật là mình, mới thật là ngã? Qua đó, sư kết luận: “Cái ngã (cái ta) cũng chỉ là một cái tên thôi, như cái bộ sa lông, trừ các bàn ghế ra thì không còn gì thực thể nữa”. NGUYỄN THỊ THẢO – PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC TRÊN BÁO CHÍ 71 Đồng với luận điểm này, Đuốc tuệ số 2, ra ngày 17/12/1935 cũng tham gia bài viết Bàn về nghĩa Vô ngã, nhưng nghiêng về vận dụng thực tế hơn. Đuốc tuệ nhận định: “Tuy biết rõ thế giới là ảo, bản chất của thế giới là không, song Phật giáo dạy cho tín đồ không được cố chấp. Chấp thế giới là có thật, hay chấp thế giới là không thật, đều không đúng. Nếu chấp là thật thì sẽ khổ vì sinh, lão, bệnh, tử; vì tranh giành do chấp có cái ta và những sở hữu của ta, từ đó phát sinh xung đột, chiến tranh. Thiên tai, nhân họa xảy ra cũng vì nhận thức vô minh lầm lạc”. Qua đó, Đuốc tuệ giải thích thế giới vô cùng phong phú là công dụng của tâm thức, miễn biết đó là ảo và đừng quá cố chấp. Thế giới ảo của máy vi tính cũng có vô số công dụng to lớn mà hiện nay chúng ta đang thấy. Như vậy ảo không phải là vô dụng mà ảo, biến hóa mới đích thực là công dụng. Vì thế, không thể phủ nhận rằng cái vô thỉ vô minh và nhất niệm vô minh đã đem lại vô lượng vô biên công dụng, nhưng cũng không nên cố chấp chúng để dẫn đến tranh giành, xung đột và chiến tranh, đau khổ một cách mê muội, bởi vì chúng chỉ là ảo mà thôi. Các lý giải của những tạp chí trên quả là không đi sai lệch triết lý Phật giáo. Chúng ta thử nghiệm lại thân mình có phải là tạm bợ hay không? Nếu thân chắc chắn chân thật thì không bao giờ hoại. Từ đó có thể hiểu thân người là do duyên hợp, nên khi thiếu duyên thì nó sanh ra bệnh tật rồi đi đến bại hoại, đó là lẽ thật, không còn gì nghi ngờ nữa. Do vậy, Đức Phật nói thân này vô ngã, bởi vô ngã nên không có chủ thể, bởi không có chủ thể nên tùy duyên mà thành, tùy duyên mà hoại, không phải lúc nào cũng nguyên vẹn. Một luận điểm nữa của duy thức Phật giáo là cho rằng “vạn pháp duy thức”. Và để lý giải cho thuyết này, báo chí Phật giáo đã đề cập rất nhiều đến những khái niệm “có” và “không”. Trong lịch sử tư tưởng và lịch sử văn học nước ta, thuyết “có” và “không” của Phật giáo đã từng là đề tài thú vị cho nhiều bài thơ của các nhà sư, đồng thời cũng là chủ đề cho không ít những chuyện khôi hài của các nhà Nho. Còn đối với quần chúng Phật tử, thì xem đây là một thuyết rất kỳ diệu. Trong Đuốc tuệ số 47, ra tháng 11/1936, ông phó bảng Bùi Kỷ cho rằng Phật tổ lập ra thuyết “không” chính là tôn chỉ độc nhất vô nhị của đạo Phật, cửa Phật thường được gọi là “Không môn”. Dù giải thích được như vậy, nhưng ông chốt lại rất mơ hồ: “Song chữ không rộng quá, cao quá và lại tinh vi quá, vì rộng quá mà coi như lờ mờ, cao quá mà coi như huyền bí, thành ra một chữ “không” mà sinh ra nhiều hoài nghi, để cho nhiều người muốn hỏi mà khó giải đáp, muốn biết mà khó sưu tầm, đến nỗi càng nghĩ lại càng quẫn, càng nói lại càng vẫn, càng biện luận lại càng cùng”. Tuy nhiên, tạp chí Viên âm thì muốn tỏ ra hiểu thấu vấn đề quan trọng này, nên đã luận giải trong số 6, ra tháng 5/1934: “Trong thế gian, cái chi thấy được, nghe được gọi là có, trái lại gọi là không. Như cái ghế cái bàn thì cho là có, còn khoảng không khí ở giữa thì gọi là không. Nhưng xét kỹ thì không khí nào phải thực là không. Trái lại, những cái người ta cho là có, như bàn ghế, nếu trừ các món cảm giác như mắt thấy vuông tròn, thân chạm vào biết NGUYỄN THỊ THẢO – PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC TRÊN BÁO CHÍ 72 ”. Đó là tạp chí Viên âm luận “có” và “không” theo cái có cái không ở thế gian. Còn cái có cái không theo đại thừa Phật giáo thì sao? Viên âm giải thích Đại thừa cho rằng muôn vật vẫn là tuyệt đối mà cũng vẫn là đối đãi. Ở chỗ tuyệt đối thì không còn có cái gì cả, mà ra nơi đối đãi thì vẫn hiện đủ muôn sự muôn vật. Tuy tuyệt đối là không, nhưng ở trong đối đãi vẫn in tuồng là có. Muôn sự muôn vật trong đối đãi mà vẫn thường tuyệt đối, trong tuyệt đối mà vẫn thường đối đãi. Tức là nơi có mà không có, tức cái có là cái không, thực duy một cái thể bằng lực như nhau, bản nhiên ra ngoài phạm vi cả cái không cái có. Bậc đại thừa đạo Phật xem biết như vậy, nên một bên vẫn soi thấu cái tướng tuyệt đối của các pháp mà diệt trừ nguồn gốc phiền não mê lầm, còn một bên vẫn xét ra tướng đối đãi của các pháp mà độ chúng sinh đồng được chứng quả. Như vậy, theo đại thừa Phật giáo, cái “có” cái “không” là điều cần thiết cho sự tu hành cứu khổ, liên quan với thuyết giải thoát. Trên tạp chí Viên âm số 6, ra tháng 5/1934, Trí Độ lý giải theo Bát nhã tâm kinh rằng vì hiểu biết “sắc chẳng khác không, sắc tức là không” nên chẳng tham nhiễm sắc, thanh, hương, vị không còn các điều dục vọng, thoát khỏi cảnh giới phàm phu. Vì hiểu biết “không chẳng khác sắc, không tức là sắc”, nên vẫn trong diệt định mà hiện đủ oai nghi, nên chẳng đắm cảnh Niết bàn mà hóa độ muôn loài, thoát khỏi cảnh giới nhị thừa. Luận giải đó của Trí Độ cho ta thấy chữ “Không” trong kinh Bát Nhã rất thù thắng. Tuy nhiên, chúng ta đừng lầm chữ “Không” này là ý nghĩa trống rỗng, không có gì hết. Không là đối với Có. Chữ Không đây là ngay nơi sự vật hiện tiền mắt thấy, tay sờ mó được, song chủ thể nó là không, không cố định. Như vậy dù mắt thấy, tay sờ mó được mà nói là Không, đó là không chủ thể, không cố định. Bát Nhã nói Không vì nó do nhân duyên sinh nên không chủ thể. Cho nên chữ Không trong kinh Bát Nhã còn gọi là tánh Không. Hệ thống Bát Nhã gọi đó là tự tánh Không. Tức là không có chủ thể, không tự tánh nhưng sự vật vẫn có giả tướng của nó khi đủ duyên tụ hội. Từ luận điểm cho rằng mọi sự vật và cả con người đều theo lý vô thường, vô ngã và duyên sanh, duy thức Phật giáo đi đến kết luận “vạn pháp duy thức”. Với triết lý này, tạp chí Viên âm luận giải rằng: “Hiện nay chúng ta thấy in tuồng có thân (ngã), có cảnh (vật), thân ấy, cảnh ấy chẳng khác gì thân cảnh trong chiêm bao. Vậy nó cũng do cái thức tâm biến hiện, chỉ vì chúng ta chưa tỉnh dậy nên chưa nhận rõ đó thôi”. Vậy là Viên âm cho rằng thức tâm là gốc của vạn vật, đó là ý nghĩa vạn pháp duy thức. Tạp chí Viên âm đã giải thích tiếp: “Có người nghĩ rằng cảnh chiêm bao do thức tâm biến hiện là một việc dễ hiểu, vì nó chỉ trong một lúc thôi, chớ cảnh vật giữa này, lúc nào ngủ dậy cũng thấy y như ngày trước, sao gọi là không thực có? Tôi xin đáp lại rằng, lắm khi trong giấc chiêm bao, thấy đến 40 năm, 50 năm, trong khi ấy cũng có thức có ngủ, mà cảnh chiêm bao không thay đổi, duy tỉnh dậy, không chiêm bao nữa mới biết là đã chiêm bao. Vậy NGUYỄN THỊ THẢO – PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC TRÊN BÁO CHÍ 73 Tạp chí Viên âm còn dẫn chứng thêm rằng nóng lạnh, cứng mềm, ngọt mặn, thơm thối, dài ngắn, xanh đỏ các sự vật ấy đều do sự phân biệt của ta mới có, do thức tâm mà có, nên gọi là “vạn pháp duy thức”, nghĩa là sự sự vật vật đều do thức tâm biến hiện, “vật, ngã” đều là những tưởng tượng của thức tâm. Trên tạp chí Bát nhã âm số 14 có bài viết của Pháp Bửu, cho thấy tác giả cũng đồng quan điểm nhận thức vạn pháp đều do thức tâm biến hiện, ông đã lập luận rất rõ ràng, sắc bén, giúp con người có cái nhìn sâu sắc hơn về sự kiện này và đồng thời giúp con người thoát khổ qua bài viết Vạn pháp duy tâm: “Vì muốn tất cả chúng sinh ra khỏi biển ái, sông mê, bước lên bờ giác, thẳng tới đạo Bồ đề mà an trụ nơi cõi bất sanh bất diệt. Do tại cớ sao mà chúng sinh chìm đắm trong nẻo luân hồi không khi nào thoát khỏi? Vì mắc tâm mê vọng đành chịu trong cảnh phù ba túy mộng, mà chôn lấp thể giác chơn như của chúng ta. Như nay chúng ta muốn tìm cái bổn giác chơn như trở lại, chúng ta phải dứt lòng vọng hoặc đi. Nếu mà không trừ dứt nó, thì nẻo luân hồi không bao giờ ra khỏi”. Quan điểm “vạn pháp duy thức” ấy của thuyết duy thức rất được các nhà Phật học bảo vệ. Vì Phật giáo cho rằng “vạn pháp duy thức” là để xác minh vạn vật vô thường, là giả huyễn, không đáng để quyến luyến, vọng tưởng. Và khi con người hết vọng tưởng thì mới hết chịu cảnh luân hồi sanh tử khổ đau. Như thế có thể nói duy thức Phật giáo rất triệt để, bởi nhìn nhận từ trời đất, vạn vật cho đến con người đều không thật có. Nhìn chung, tư tưởng về ngoại giới của Phật giáo thể hiện tập trung ở nội dung của ba phạm trù: Vô ngã, Vô thường và Duyên, rồi dẫn đến kết luận “vạn pháp duy thức”. Như vậy, thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô thường và Duyên, triết học Phật giáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman sáng tạo ra con người và thế giới. Phật giáo cho rằng sự vật và con người được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần. Các sự vật hiện tượng thế giới nằm trong quá trình liên hệ, vận động, biến đổi không ngừng và nguyên nhân của sự vận động, biến đổi nằm trong các sự vật. Đó là quan điểm biện chứng về thế giới, tuy còn mộc mạc, chất phác nhưng rất đáng trân trọng. Qua những lập luận trên báo chí về Thượng đế, linh hồn, Cực lạc và Địa ngục, ta thấy tư tưởng Phật giáo lúc bấy giờ có hướng giải thích theo nguyên lý khoa học. Nhưng đến với thuyết duy thức, về cái nhìn của Phật giáo đối với ngoại giới thì có phần cách xa khoa học. Bởi vì điều kiện đầu tiên để có khoa học là chấp nhận tính chất khách quan của thế giới, của vạn vật, là khẳng định rằng vạn vật, thế giới tồn tại độc lập với ý thức của con người. Mặc dầu vậy, có thể nói, ở Việt Nam trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, các cuộc tranh luận về Phật giáo với khoa học với khuynh hướng muốn dung hòa Phật giáo với khoa học là điểm tiến bộ vượt bậc của Phật giáo trên con đường phát triển của mình. Đó cũng là điều hiếm thấy xưa nay trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Điều ấy có ý nghĩa quan trọng về mặt triết học và cả về mặt chính trị trên con đường tiến bộ của đất nước ta. TÀI LIỆU THAM KHẢO NGUYỄN THỊ THẢO – PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC TRÊN BÁO CHÍ 74 (Tiếp theo trang 73) 1. Minh Chi. 2003. Thuyết tái sinh, Phật học (Xem tiếp trang 85) cơ bản. Hà Nội: Nxb. Tôn giáo. 2. Nguyễn Lang. 1994. Việt Nam Phật giáo sử luận. Tái bản. Tập 1, 2&3, Hà Nội: Nxb. Văn học. 3. Tạp chí Phật giáo: Bát nhã âm (Bà Rịa, 1936-1943), Từ bi âm (Sài Gòn, 1932-1943), Viên âm (Huế, 1934-1944), Quan âm (Hà Nội, 1941-1942), Phật pháp chỉ Niết bàn (Sài Gòn, 1941), Tam bảo (Nam Định, 1937-1938), Bồ đề (Sóc Trăng, 1936), Tiến hóa (Hội Phật học Kiêm Tế - Rạch Giá, 1938-1939), Duy tâm Phật học, (Trà Vinh, 1935-1941), Pháp âm Phật học (Chợ Lớn, 1937-1938), Tiếng chuông sớm (Hà Nội, 1935-1936), Đuốc tuệ (chùa Quán Sứ, Hà Nội, 1935-1941) 4. Thích Thanh Từ. 1990. Phật giáo những vấn đề triết học. Trung tâm Tư liệu Phật học. 5. Thiện Chiếu. 2000. Lời Di cảo của sư Thiện Chiếu và thế nào là đạo Phật. Chùa Pháp Hoa. TPHCM. 6. Trần Văn Giàu. 1988. Triết học và tư tưởng. TPHCM: Nxb. TPHCM.
File đính kèm:
- phat_giao_va_khoa_hoc_tren_bao_chi_phat_giao_viet_nam_truoc.pdf