Phương pháp của Các Mác trong việc phát hiện bản chất của cái đẹp
Tóm tắt Phương pháp của Các Mác trong việc phát hiện bản chất của cái đẹp: ...tất công việc của tập 1 bộ “Tư bản”, C.Mác đã viết như sau: “Điều hay nhất trong cuốn sách của tôi là 1. Tính chất hai mặt của lao động, được nhấn mạnh ngay trong chương đầu, tuỳ theo lao động được biểu hiện ra trong giá trị sử dụng hay trong giá trị trao đổi (toàn bộ nhận thức về các sự...cái đẹp xã hội, và bản chất cái đẹp của chính con người xã hội thuộc vị trí hàng ba của chất lượng cấu tạo chung của hệ thống xã hội như là những chất lượng hệ thống tổng hòa (tổng hợp, toàn thể, toàn bộ và tổng thể thẩm mỹ). Hai là, bản chất xã hội của cái đẹp ở vị trí đặc thù của nó ...on người có cả bản chất chung (bản chất xã hội) và có cả cái bản chất riêng có ở mỗi con người. Chúng ta biết được đặc điểm sức mạnh ở bất cứ con người nào (tức là mỗi cá nhân) là thông qua chính cái bản chất riêng của họ, căn cứ vào năng lực tư duy và cả vào năng lực của tất cả các giác...
t động của con người. Về mặt lịch sử, sản xuất luôn luôn là phương thức xã hội của tồn tại vật chất của loài người. Đời sống sản xuất - như C.Mác từng khẳng định - cũng là đời sống có tính loài. Đó là đời sống đẻ ra đời sống. Phương thức hoạt động sinh sống bao hàm toàn bộ đặc tính của một chủng nhất định, tính loài của nó, và hoạt động tự do, có ý thức là đặc tính loài của con người. Bản thân đời sống chỉ biểu hiện ra là phương tiện sinh sống. Vì vậy, chính trong khi cải biến thế giới vật thể mà con người lần đầu tiên đã thực sự tự khẳng định mình là một sinh vật có tính loài. Sự sản xuất đó là đời sống có tính loài tích cực của con người. Nhờ đời sống sản xuất, giới tự nhiên biểu hiện ra là tác phẩm và là thực tại của con người. Nếu coi các nền tảng nhu cầu vật chất là vị trí chất lượng hàng một của lao động, thì loại chất lượng hàng hai là chất lượng chức năng, quy định sự chuyển dịch vị trí định danh hàng một của bản thân sự vật - vật chất sang nhiệm vụ chức năng của chúng. Dạng thức tồn tại vật chất thuộc bản tính vật thể tự nhiên không phải là bản chất ứng cho toàn bộ cái đẹp. Cũng như vậy, sản xuất vật chất dù quyết định phương thức tồn tại của con người, nhưng những đặc điểm chất lượng vật chất lại không thể quyết định đối với toàn bộ bản chất của cái đẹp. Bản chất thứ hai do con người cấp cho thế giới đối tượng một hoạt động chức năng cũng không phải là bản chất ứng cho toàn bộ cái đẹp. Trong tính đặc thù Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53 49 của nó, bản chất của cái đẹp xã hội nằm ở vị trí hàng ba của đặc điểm chất lượng hệ thống, thống nhất với bản chất xã hội của con người, tức là bản chất tổng hòa, tổng hợp, tổng thể, hình thái, quan hệ và dưới dạng đời sống của xã hội. Như vậy, bản chất hàng ba trong tính đặc thù của cái đẹp có thể được xem xét một cách tổng thể bởi các quan hệ sống với bản chất hàng một và hàng hai, và được xem xét một cách tổng thể bởi dạng thức đời sống bao gồm cả dạng thức cấu trúc vật thể, cả dạng thức chức năng và dạng thức bản thể sống của con người trong lý tưởng thẩm mỹ về một bản chất hợp nhất giữa cái khách quan và cái chủ quan. Bản chất của cái đẹp, do đó, là sự thống nhất giữa cái cần thiết của cấu trúc dạng vật thể, vật chất tự nhiên hoặc cơ cấu vật chất xã hội với cái có ích ở dạng chức năng do con người cấp cho vật thể, với bản thể người mang đặc trưng tính hệ thống, tính tổng hòa và tính tổng thể thẩm mỹ của hệ thống xã hội (đó là các dạng cấu trúc tổng thể phổ quát của cái đẹp xã hội như: “Chân - Thiện - Mỹ”). Quan điểm hệ thống từ đó đưa đến quan điểm cấu trúc - chức năng, quan điểm tổng thể về bản chất của cái đẹp xã hội và vẻ đẹp của con người xã hội. Quan điểm phát triển Cái đẹp là một phạm trù lịch sử là kết luận được rút ra từ quan điểm phát triển. Tính quy định của thực tiễn vật chất đối với toàn bộ các hoạt động của con người đó là tạo ra bước chuyển từ tính “loài” động vật sang tính “loài” của con người xã hội. Con người hoạt động có tính loài chính là biểu hiện đặc thù và phổ quát. Đặc thù là so với bản thân giới tự nhiên nói chung và đặc thù phổ quát là trong toàn bộ lĩnh vực xã hội. Con người biểu hiện tính loài của mình ở hoạt động sản xuất vật chất, ở ý thức và sự hợp tác với nhau trong sản xuất xã hội. Mác cho rằng con người muốn làm triết học, nghệ thuật... trước hết cần phải ăn, uống, ở, mặc. Trên nền tảng của nền sản xuất xã hội là sự vận động của các hệ thống kinh tế chính trị, sự hình thành nhà nước pháp lý và hệ thống tiểu kiến trúc thượng tầng trên một cơ sở hạ tầng tương ứng với nó. C.Mác đã nhìn thấy cái tiền đề đầu tiên của quan điểm duy vật lịch sử về những quá trình xã hội ở sự phân biệt cái chung và cái đặc thù trong các quá trình đó. Với Mác, tri thức về thực tiễn vật chất của một nền sản xuất đời sống vật chất xã hội mới chỉ là điểm khởi đầu cho việc nhận thức toàn bộ các vấn đề về bản chất con người, về lịch sử xã hội con người. Hay nói một cách khác thì đó mới là tri thức về cái chung, cái bản chất chung của xã hội loài người, cái tính quy định chung đối với sự tồn tại con người. Nằm trong nền tảng của tri thức chung về đặc tính “loài” chung của con người xã hội. Tuy nhiên, Mác hiểu cái tính quy định chung của bản thân nền sản xuất vật chất không phải là một trạng thái phi lịch sử (như những gì Mác đã phê phán nhà kinh tế học Hăng-ri Stoóc-sơ (1766 - 1835) [5]. Đứng từ quan điểm hình thái, Mác khẳng định việc sản xuất ra của cải vật chất luôn có một hình thái phát triển nhất định trong lịch sử, và là một hình thái đặc thù của nền sản xuất vật chất. Điều này làm nên cái cơ sở mà trên đó mới có thể hiểu được các yếu tố tư tưởng của giai cấp thống trị, cũng như việc sản xuất tinh thần tự do của hình thái xã hội ấy. Ví dụ như luận điểm của C.Mác về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là thù địch với một số ngành sản xuất tinh thần như nghệ thuật và thơ ca [6]. Bên cạnh đó, Mác còn nhiều lần nhấn mạnh đến tri thức về cái riêng, về cái tính quy định riêng, và về đặc tính “loài” nói riêng của lịch Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53 50 sử xã hội được lao động tác thành nơi con người, nơi bản thể của con người được biểu hiện ra với tất cả sự phong phú, sinh động và cụ thể của nó. Đây là một loạt các đặc trưng cố kết nên con người xã hội, và cả trên phương diện cá nhân của nó (tính cảm giác chủ quan của con người, tính nhân loại của cảm giác, tính cá nhân, phong cách tồn tại cá nhân, bản chất riêng của con người, bản thể người, phương thức tồn tại của đời sống cá nhân, bản chất tự do của lao động con người khi đứng đối diện với sản phẩm lao động, các lực lượng bản chất của con người...) được C.Mác trình bày thông qua một loạt các luận điểm quan trọng: Khi bàn về bản thể của con người, Mác có các luận điểm sau: “Ý thức không bao giờ lại có thể là cái gì khác hơn là bản thể có ý thức cả (das bewusste Sein), mà bản thể của con người (TG nhấn mạnh) lại là quá trình sinh hoạt thực tế của họ”7. Trong phần phân tích này có thể thấy rõ Mác hiểu bản thể của con người là một bản thể có ý thức, có tư duy và phản ánh chính điều kiện sinh hoạt thực tế của con người. “... đối với con người, hiện thực khách quan cũng đều trở thành hiện thực của những lực lượng của con người, tức là hiện thực của con người và do đó là hiện thực của những lực lượng của chính họ, cho nên đối với họ, hết thảy mọi đối tượng đều trở thành sự khách quan hóa của bản thân mình, trở thành những đối tượng đang thể hiện và thực hiện cái bản thể của mình (TG nhấn mạnh), những đối tượng của mình, nghĩa là đối tượng của chính bản thân mình”8. Ở đây, C.Mác cho rằng con người đã đối tượng hóa chính mình trong thế giới hiện thực và nhận lại được về mình bản thân thế giới hiện thực khách quan như là những lực lượng, những đối tượng để con _______ 7 Sđd, tr43 - 44. 8 Sđd, tr 23. người thực hiện chính cái bản thể của mình trong đó. Bàn về bản chất riêng của con người, Mác đưa ra luận điểm: “Đặc điểm sức mạnh của bất cứ con người nào cũng chính là cái bản chất riêng của họ... không phải chỉ ở trong tư duy mà bằng tất cả các giác quan, con người do đó đã tồn tại rõ rệt trong thế giới khách quan”9. Mác đã rất sâu sắc khi phân tích rằng ở bản chất con người có cả bản chất chung (bản chất xã hội) và có cả cái bản chất riêng có ở mỗi con người. Chúng ta biết được đặc điểm sức mạnh ở bất cứ con người nào (tức là mỗi cá nhân) là thông qua chính cái bản chất riêng của họ, căn cứ vào năng lực tư duy và cả vào năng lực của tất cả các giác quan, nhờ đó mà một cá nhân trở nên một tồn tại cụ thể, rõ rệt trong thế giới khách quan. Bàn về lịch sử phát triển nghệ thuật từ quan niệm hình thái, Mác viết: “Đối với nghệ thuật, người ta biết rằng những thời kỳ hưng thịnh nhất định của nghệ thuật hoàn toàn không tương ứng (TG nhấn mạnh) với sự phát triển chung của xã hội, do đó cũng không tương ứng với sự phát triển của cơ sở vật chất của xã hội”10. Luận điểm này cho thấy hình thái ý thức nghệ thuật phản ánh tồn tại xã hội, song quy luật phát triển của nghệ thuật lại không phải là một trạng thái chung với cơ sở vật chất của xã hội, mà nghệ thuật còn tuân theo các quy luật phát triển hình thái của các loại hình, loại thể của chính nó (tính đặc thù của hình thái nghệ thuật). Khi bàn về phương thức tồn tại của đời sống cá nhân, Mác còn đưa ra nhận xét: “Xét về tính tất yếu, phương thức tồn tại của đời sống cá nhân thường là sự biểu hiện hoặc đặc thù hơn hoặc phổ biến hơn của đời sống chủng _______ 9 Sđd, tr 24 10 Sđd, tr33. Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53 51 loại” [7]. Theo đó thì phương thức tồn tại của đời sống cá nhân có thể là một tấm gương phản chiếu của đời sống chủng loại song lại biểu hiện ra không cùng cấp độ chung với đời sống chủng loại ở đặc điểm hoặc là điển hình hơn, hoặc là phổ biến hơn. Bản về tính cảm giác chủ quan của con người và lịch sử hình thành của năm giác quan, Mác lập luận: “Chỉ có thông qua sự phong phú, đã được phát triển về mặt vật chất, của bản chất con người, thì sự phong phú về tính cảm giác chủ quan của con người mới phát triển và một phần thậm chí lần đầu tiên mới được sản sinh ra: lỗ tai thính âm nhạc, con mắt cảm thấy cái đẹp của hình thức, nói tóm lại là những cảm giác có khả năng về sự hưởng thụ có tính chất người và sự khẳng định mình như những lực lượng bản chất của con người (TG nhấn mạnh)” [6]. Mác coi phương thức tồn tại của đời sống mỗi cá nhân đó chính là quá trình hình thành các năng lực chủ quan, là khả năng hưởng thụ mang tính chất người, được Mác xem như là những lực lượng bản chất của con người. “Sự hình thành năm giác quan là công việc của toàn bộ lịch sử toàn thế giới đã diễn ra từ trước đến nay”11. Trong hình thức của xã hội, các khí quan xã hội đã hình thành trong vai trò của năm giác quan và trở thành một phương thức thể hiện sự sống của con người xã hội. Lịch sử cụ thể của các quan hệ người bóc lột người qua các chế độ xã hội, các phương thức sản xuất xã hội, biểu hiện tập trung ở phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mác đã chỉ ra nguồn gốc của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chính là nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa lao động, sự tha hóa của cái đẹp. Sự tha hóa của con người lao động cũng bao gồm cả sự tha hóa của cái đẹp trong lao động. _______ 11 Sđd, tr20 Mối quan hệ giữa tha hóa lao động và chế độ tư hữu tư sản được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa người công nhân bỏ ra sức lao động bị bóc lột qua lao động làm công ăn lương và nhà tư bản. Chế độ tiền công là biểu hiện bên ngoài của sức lao động của người công nhân bị nhà tư bản chiếm đoạt về giá trị thặng dư. Đây là bản chất của quá trình phân hóa giàu nghèo, bần cùng hóa lao động trong quá trình tích lũy tư bản và là nguồn gốc tích tụ giá trị thặng dư trong sử dụng và bóc lột sức lao động làm thuê. Sự tha hóa cái đẹp làm suy yếu các chức năng xã hội tổng thể của cái đẹp, nhất là ở bản chất hàng ba - bản chất tổng hòa (tổng thể, hài hòa) của con người xã hội. Sự tha hóa cái đẹp sẽ dẫn đến tình trạng các hoạt động thẩm mỹ, sáng tạo cái đẹp sẽ rơi xuống vị trí hàng một, bị đồng nhất trực tiếp với các nhu cầu vật chất. Tha hóa lao động, theo C.Mác, là hiện tượng xã hội xuất hiện trong điều kiện chế độ tư hữu. Hoạt động lao động vốn là bản chất của con người xã hội, là biểu hiện tự do của đời sống con người, là sự khẳng định đời sống cá nhân, và là phương tiện sinh sống của con người, thì nay trở thành hoạt động bất đắc dĩ đối với con người. Dưới áp lực của hoạt động lao động nay không còn nảy sinh như là hoạt động do nhu cầu tất yếu nội tại bên trong con người, con người bị hiện tượng tha hóa bủa vây: một mặt, tính cá biệt của con người bị tha hóa khỏi chính chủ thể người; mặt khác, con người trở nên xa lạ với chính những sản phẩm lao động của chính mình. Như vậy, tha hóa lao động dẫn đến tha hóa cái đẹp (điều kiện cho sự khẳng định cái độc đáo riêng của tính cá biệt con người, của bản thể của con người). Cái đẹp chính là mặt hiện thân của bản thể xã hội của con người nay bị tha hóa ra khỏi con người. Con người lao động sáng tạo ra các vật phẩm đẹp song họ lại không được hưởng thụ những Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53 52 giá trị ấy của đời sống. Đây chính là những biểu hiện của tấn bi kịch của con người bị tha hóa khỏi bản chất xã hội của chính mình (tha hóa cái đẹp). Do chỗ, cái đẹp chính là một hình thái giá trị kết tinh của lao động tự do sáng tạo mang bản chất xã hội. Lao động chính là thực thể của mọi giá trị. Sự tha hóa của cái đẹp, do đó là sự tha hóa của chính con người trong lao động về phương diện bản thể của con người. Những giá trị, những khả năng hưởng thụ có tính chất người, những lực lượng bản chất của con người bị suy thoái cùng với tha hóa lao động. Tha hóa cái đẹp cũng chính là sự suy yếu, suy giảm các chức năng hoạt động sáng tạo nói chung và sáng tạo thẩm mỹ nói riêng. Khái niệm “con người hàng hóa” là khái niệm đắt giá nhất mà C.Mác đã đưa ra để chứng minh cho sự tha hóa của con người lao động trong điều kiện của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. “Nền sản xuất sản sinh ra con người - C.Mác viết - không những chỉ với tính cách là hàng hóa, không những chỉ với tính cách là con người hàng hóa, con người với sự quy định của hàng hóa; nó sản xuất ra con người theo sự quy định ấy, như là một thực thể mất tính chất người cả về mặt tinh thần lẫn thể xác - Tính vô đạo đức, sự biến chất, sự đần độn của cả công nhân lẫn nhà tư bản. - Sản phẩm của nền sản xuất đó là hàng hóa có một ý thức và có một hoạt động độc lập... là con người hàng hóa...” [6]. Như vậy, theo Mác nguồn gốc của sự tích tụ tư bản là bóc lột lao động làm thuê. Các quy luật giá trị và giá cả hàng hóa đã nhất loạt tác động chi phối lên toàn bộ các lĩnh vực của đời sống tinh thần, đời sống thân thể của các cá nhân và của toàn xã hội. Từ đó Mác đi đến tư tưởng giải phóng con người khỏi sự tha hóa lao động và tha hóa cái đẹp. Giá trị nhân văn, nhân đạo trong tư tưởng của Mác về giải phóng con người, giải phóng cái đẹp đã cho thấy lý luận xã hội của chủ nghĩa Mác trên phương diện thẩm mỹ đã thống nhất quá trình phân tích bản chất tổng hòa (tổng thể, hài hòa) của cái đẹp với bản chất tổng hòa (toàn bộ) các quan hệ xã hội của con người. Quan niệm duy vật về lịch sử được C.Mác xây dựng trên cơ sở học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, trên cơ sở quan điểm hình thái. C.Mác đã luận chứng cho quá trình phát triển lịch sử của loài người như là một quá trình lịch sử tự nhiên. Lịch sử loài người là lịch sử của các chế độ xã hội thay thế lẫn nhau. Nhờ có học thuyết về các hình thái mà những hình thức lịch sử của đời sống xã hội trở thành những hình thức mang tính hệ thống. Những cấu trúc chức năng của xã hội, và các hình thái lịch sử - cụ thể của các hiện tượng xã hội cũng đều trở thành có tính hệ thống12. Phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác khi đi vào phân tích lĩnh vực của cái đặc thù (cái đẹp), đã được Mác triển khai bằng một loạt các phương pháp tiếp cận quan trọng, xuất phát từ sự phân tích bản chất các hiện tượng xã hội một cách có hệ thống. Mác trước hết đã phân tích mặt hình thái của lao động, mặt chất lượng của hệ thống, mặt cấu trúc chức năng, trên quan điểm phát triển, lịch sử - cụ thể, về tính quy định của nền tảng sản xuất vật chất đối với quá trình hình thành bản chất tổng thể, tổng hòa của cái đẹp, của chính con người xã hội, và do đó đã phân tích bản chất của cái đẹp ở những hệ thống hiện thực, thực tiễn. Giá trị của phương pháp phân tích khoa học này nằm trong ý nghĩa phương pháp luận về đối tượng nghiên cứu là cái đặc thù, đến ngày nay vẫn còn nguyên vẹn giá trị của nó. Bản chất tổng hòa các giá trị xã hội và tự nhiên của cái đẹp luôn thể hiện tính điển hình của nó trong sự hài hòa thống nhất và cả trong những xung đột sâu xa nơi bản chất xã hội và cá nhân của con người xét trên toàn bộ cuộc vận động lịch sử của cái đẹp qua các hình thái kinh tế xã hội. _______ 12 Sđd, tr81. Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53 53 Tài liệu tham khảo [1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 1995, t.42, tr.137. [2] C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, t.1, tr.429. [3] C.Mác, Ph.Ăngghen, Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982, tIII, tr.669. [4] C.Mác, Tư bản. Phê phán khoa học kinh tế chính trị, Nxb Sự thật, 1973, quyển thứ nhất, t.I, tr. 85-86. [5] C.Mác: Các học thuyết về giá trị thặng dư (quyển IV của bộ Tư bản) Nxb Sự thật, Hà Nội, 1965, ph.I, tr.385, 549. [6] C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin: Về văn học và nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr 20, 23, 24, 33, 43 - 44, 69, 70, 76, 81. [7] V.P.Cu-dơ-min: Nguyên lý tính hệ thống trong lý luận và phương pháp luận của C.Mác, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.23, 75, 165, 167. The Method of Karl Marx in Discovering the Nature of the Beauty Đỗ Thị Minh Thảo VNU University of Social Sciences and Humanities, 336 Nguyễn Trãi Road, Thanh Xuân Dist., Hanoi, Vietnam Abstract: Nowadays, when scientific knowledge has become the direct productive forces, knowledge of economy has long been considered as the common foundation for social development. In fact, the rate of success of the intellectual elite of characteristic economy has always played the role as the creative factor of the countless trade names of commodities in the modern social life. Meanwhile, the rate of failure can be found right in the intellectual elite of general economy, if it is not to be operated to become the intellectual elite of characteristic economy. Therefore, from the story about the intellectual elite of characteristic economy, we can be able to withdraw the lessons from the philosophy-aethetics heritage of Karl Max in which the history of the beauty (belonging to the characteristic intellectual elite) has got access to the accompaniment with the economic issue (the general foundation for the development of social life). This is of clearly methodological significance in the awareness of historical materialism against the limitations in the awareness of economic materialism (When economy was considered to be the only decisive factor in social history). For a long time, the beauty has been considered the measurement of human quality, the measurement of the human beings in the world of objects. It always plays the role of new economic springboard, because after all, the economy is nothing if it does not aim towards the goal for human beings, the goal to build the ever more beautiful human society. Karl Marx is one of the greatest masters of mankind who used the methodology of the general to discover and access the methodology of the peculiarity. Moreover, Karl Marx also established the beauty as a category of economic leverage through the argument that human beings are also built according to the rules of the beauty. Through the category of the beauty, we can totally be able to explain better the human nature and human society from both origins; society and humanity. Keywords: The characteristic knowledge of economy, the beauty belongs to the characteristic intellectual elite, economic materialism, the methodology of the paculiarity, the beauty is the new springboard of economy.
File đính kèm:
- phuong_phap_cua_cac_mac_trong_viec_phat_hien_ban_chat_cua_ca.pdf