Phương pháp của Các Mác trong việc phát hiện bản chất của cái đẹp

Tóm tắt Phương pháp của Các Mác trong việc phát hiện bản chất của cái đẹp: ...tất công việc của tập 1 bộ “Tư bản”, C.Mác đã viết như sau: “Điều hay nhất trong cuốn sách của tôi là 1. Tính chất hai mặt của lao động, được nhấn mạnh ngay trong chương đầu, tuỳ theo lao động được biểu hiện ra trong giá trị sử dụng hay trong giá trị trao đổi (toàn bộ nhận thức về các sự...cái đẹp xã hội, và bản chất cái đẹp của chính con người xã hội thuộc vị trí hàng ba của chất lượng cấu tạo chung của hệ thống xã hội như là những chất lượng hệ thống tổng hòa (tổng hợp, toàn thể, toàn bộ và tổng thể thẩm mỹ). Hai là, bản chất xã hội của cái đẹp ở vị trí đặc thù của nó ...on người có cả bản chất chung (bản chất xã hội) và có cả cái bản chất riêng có ở mỗi con người. Chúng ta biết được đặc điểm sức mạnh ở bất cứ con người nào (tức là mỗi cá nhân) là thông qua chính cái bản chất riêng của họ, căn cứ vào năng lực tư duy và cả vào năng lực của tất cả các giác...

pdf11 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 164 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Phương pháp của Các Mác trong việc phát hiện bản chất của cái đẹp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t động của con người. Về mặt lịch sử, sản 
xuất luôn luôn là phương thức xã hội của tồn 
tại vật chất của loài người. Đời sống sản xuất - 
như C.Mác từng khẳng định - cũng là đời sống 
có tính loài. Đó là đời sống đẻ ra đời sống. 
Phương thức hoạt động sinh sống bao hàm toàn 
bộ đặc tính của một chủng nhất định, tính loài 
của nó, và hoạt động tự do, có ý thức là đặc tính 
loài của con người. Bản thân đời sống chỉ biểu 
hiện ra là phương tiện sinh sống. Vì vậy, chính 
trong khi cải biến thế giới vật thể mà con người 
lần đầu tiên đã thực sự tự khẳng định mình là một 
sinh vật có tính loài. Sự sản xuất đó là đời sống 
có tính loài tích cực của con người. Nhờ đời sống 
sản xuất, giới tự nhiên biểu hiện ra là tác phẩm và 
là thực tại của con người. 
Nếu coi các nền tảng nhu cầu vật chất là vị 
trí chất lượng hàng một của lao động, thì loại 
chất lượng hàng hai là chất lượng chức năng, 
quy định sự chuyển dịch vị trí định danh hàng 
một của bản thân sự vật - vật chất sang nhiệm 
vụ chức năng của chúng. 
Dạng thức tồn tại vật chất thuộc bản tính 
vật thể tự nhiên không phải là bản chất ứng cho 
toàn bộ cái đẹp. Cũng như vậy, sản xuất vật 
chất dù quyết định phương thức tồn tại của con 
người, nhưng những đặc điểm chất lượng vật 
chất lại không thể quyết định đối với toàn bộ 
bản chất của cái đẹp. Bản chất thứ hai do con 
người cấp cho thế giới đối tượng một hoạt 
động chức năng cũng không phải là bản chất 
ứng cho toàn bộ cái đẹp. Trong tính đặc thù 
Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53 49 
của nó, bản chất của cái đẹp xã hội nằm ở vị trí 
hàng ba của đặc điểm chất lượng hệ thống, 
thống nhất với bản chất xã hội của con người, 
tức là bản chất tổng hòa, tổng hợp, tổng thể, 
hình thái, quan hệ và dưới dạng đời sống của 
xã hội. 
Như vậy, bản chất hàng ba trong tính đặc 
thù của cái đẹp có thể được xem xét một cách 
tổng thể bởi các quan hệ sống với bản chất 
hàng một và hàng hai, và được xem xét một 
cách tổng thể bởi dạng thức đời sống bao gồm 
cả dạng thức cấu trúc vật thể, cả dạng thức 
chức năng và dạng thức bản thể sống của con 
người trong lý tưởng thẩm mỹ về một bản 
chất hợp nhất giữa cái khách quan và cái chủ 
quan. 
Bản chất của cái đẹp, do đó, là sự thống 
nhất giữa cái cần thiết của cấu trúc dạng vật 
thể, vật chất tự nhiên hoặc cơ cấu vật chất xã 
hội với cái có ích ở dạng chức năng do con 
người cấp cho vật thể, với bản thể người mang 
đặc trưng tính hệ thống, tính tổng hòa và tính 
tổng thể thẩm mỹ của hệ thống xã hội (đó là 
các dạng cấu trúc tổng thể phổ quát của cái đẹp 
xã hội như: “Chân - Thiện - Mỹ”). 
Quan điểm hệ thống từ đó đưa đến quan 
điểm cấu trúc - chức năng, quan điểm tổng thể 
về bản chất của cái đẹp xã hội và vẻ đẹp của 
con người xã hội. 
Quan điểm phát triển 
Cái đẹp là một phạm trù lịch sử là kết luận 
được rút ra từ quan điểm phát triển. Tính quy 
định của thực tiễn vật chất đối với toàn bộ các 
hoạt động của con người đó là tạo ra bước 
chuyển từ tính “loài” động vật sang tính “loài” 
của con người xã hội. Con người hoạt động có 
tính loài chính là biểu hiện đặc thù và phổ quát. 
Đặc thù là so với bản thân giới tự nhiên nói 
chung và đặc thù phổ quát là trong toàn bộ lĩnh 
vực xã hội. Con người biểu hiện tính loài của 
mình ở hoạt động sản xuất vật chất, ở ý thức và 
sự hợp tác với nhau trong sản xuất xã hội. Mác 
cho rằng con người muốn làm triết học, nghệ 
thuật... trước hết cần phải ăn, uống, ở, mặc. 
Trên nền tảng của nền sản xuất xã hội là sự vận 
động của các hệ thống kinh tế chính trị, sự hình 
thành nhà nước pháp lý và hệ thống tiểu kiến 
trúc thượng tầng trên một cơ sở hạ tầng tương 
ứng với nó. 
C.Mác đã nhìn thấy cái tiền đề đầu tiên của 
quan điểm duy vật lịch sử về những quá trình 
xã hội ở sự phân biệt cái chung và cái đặc thù 
trong các quá trình đó. Với Mác, tri thức về 
thực tiễn vật chất của một nền sản xuất đời 
sống vật chất xã hội mới chỉ là điểm khởi đầu 
cho việc nhận thức toàn bộ các vấn đề về bản 
chất con người, về lịch sử xã hội con người. 
Hay nói một cách khác thì đó mới là tri thức về 
cái chung, cái bản chất chung của xã hội loài 
người, cái tính quy định chung đối với sự tồn 
tại con người. Nằm trong nền tảng của tri thức 
chung về đặc tính “loài” chung của con người 
xã hội. Tuy nhiên, Mác hiểu cái tính quy định 
chung của bản thân nền sản xuất vật chất 
không phải là một trạng thái phi lịch sử (như 
những gì Mác đã phê phán nhà kinh tế học 
Hăng-ri Stoóc-sơ (1766 - 1835) [5]. Đứng từ 
quan điểm hình thái, Mác khẳng định việc sản 
xuất ra của cải vật chất luôn có một hình thái 
phát triển nhất định trong lịch sử, và là một 
hình thái đặc thù của nền sản xuất vật chất. 
Điều này làm nên cái cơ sở mà trên đó mới có 
thể hiểu được các yếu tố tư tưởng của giai cấp 
thống trị, cũng như việc sản xuất tinh thần tự 
do của hình thái xã hội ấy. Ví dụ như luận 
điểm của C.Mác về nền sản xuất tư bản chủ 
nghĩa là thù địch với một số ngành sản xuất 
tinh thần như nghệ thuật và thơ ca [6]. Bên 
cạnh đó, Mác còn nhiều lần nhấn mạnh đến 
tri thức về cái riêng, về cái tính quy định 
riêng, và về đặc tính “loài” nói riêng của lịch 
Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53 
50 
sử xã hội được lao động tác thành nơi con 
người, nơi bản thể của con người được biểu 
hiện ra với tất cả sự phong phú, sinh động và 
cụ thể của nó. Đây là một loạt các đặc trưng 
cố kết nên con người xã hội, và cả trên phương 
diện cá nhân của nó (tính cảm giác chủ quan 
của con người, tính nhân loại của cảm giác, 
tính cá nhân, phong cách tồn tại cá nhân, bản 
chất riêng của con người, bản thể người, 
phương thức tồn tại của đời sống cá nhân, bản 
chất tự do của lao động con người khi đứng đối 
diện với sản phẩm lao động, các lực lượng bản 
chất của con người...) được C.Mác trình bày 
thông qua một loạt các luận điểm quan trọng: 
Khi bàn về bản thể của con người, Mác có 
các luận điểm sau: “Ý thức không bao giờ lại có 
thể là cái gì khác hơn là bản thể có ý thức cả 
(das bewusste Sein), mà bản thể của con người 
(TG nhấn mạnh) lại là quá trình sinh hoạt thực 
tế của họ”7. Trong phần phân tích này có thể 
thấy rõ Mác hiểu bản thể của con người là một 
bản thể có ý thức, có tư duy và phản ánh chính 
điều kiện sinh hoạt thực tế của con người. 
“... đối với con người, hiện thực khách 
quan cũng đều trở thành hiện thực của những 
lực lượng của con người, tức là hiện thực của 
con người và do đó là hiện thực của những lực 
lượng của chính họ, cho nên đối với họ, hết 
thảy mọi đối tượng đều trở thành sự khách 
quan hóa của bản thân mình, trở thành những 
đối tượng đang thể hiện và thực hiện cái bản 
thể của mình (TG nhấn mạnh), những đối 
tượng của mình, nghĩa là đối tượng của chính 
bản thân mình”8. Ở đây, C.Mác cho rằng con 
người đã đối tượng hóa chính mình trong thế 
giới hiện thực và nhận lại được về mình bản 
thân thế giới hiện thực khách quan như là 
những lực lượng, những đối tượng để con 
_______ 
7 Sđd, tr43 - 44. 
8 Sđd, tr 23. 
người thực hiện chính cái bản thể của mình 
trong đó. 
Bàn về bản chất riêng của con người, Mác 
đưa ra luận điểm: “Đặc điểm sức mạnh của bất 
cứ con người nào cũng chính là cái bản chất 
riêng của họ... không phải chỉ ở trong tư duy 
mà bằng tất cả các giác quan, con người do đó 
đã tồn tại rõ rệt trong thế giới khách quan”9. 
Mác đã rất sâu sắc khi phân tích rằng ở bản 
chất con người có cả bản chất chung (bản chất 
xã hội) và có cả cái bản chất riêng có ở mỗi 
con người. Chúng ta biết được đặc điểm sức 
mạnh ở bất cứ con người nào (tức là mỗi cá 
nhân) là thông qua chính cái bản chất riêng của 
họ, căn cứ vào năng lực tư duy và cả vào năng 
lực của tất cả các giác quan, nhờ đó mà một cá 
nhân trở nên một tồn tại cụ thể, rõ rệt trong thế 
giới khách quan. 
Bàn về lịch sử phát triển nghệ thuật từ quan 
niệm hình thái, Mác viết: “Đối với nghệ thuật, 
người ta biết rằng những thời kỳ hưng thịnh 
nhất định của nghệ thuật hoàn toàn không 
tương ứng (TG nhấn mạnh) với sự phát triển 
chung của xã hội, do đó cũng không tương ứng 
với sự phát triển của cơ sở vật chất của xã 
hội”10. Luận điểm này cho thấy hình thái ý thức 
nghệ thuật phản ánh tồn tại xã hội, song quy 
luật phát triển của nghệ thuật lại không phải là 
một trạng thái chung với cơ sở vật chất của xã 
hội, mà nghệ thuật còn tuân theo các quy luật 
phát triển hình thái của các loại hình, loại thể 
của chính nó (tính đặc thù của hình thái nghệ 
thuật). 
Khi bàn về phương thức tồn tại của đời 
sống cá nhân, Mác còn đưa ra nhận xét: “Xét 
về tính tất yếu, phương thức tồn tại của đời 
sống cá nhân thường là sự biểu hiện hoặc đặc 
thù hơn hoặc phổ biến hơn của đời sống chủng 
_______ 
9 Sđd, tr 24 
10 Sđd, tr33. 
Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53 51 
loại” [7]. Theo đó thì phương thức tồn tại của 
đời sống cá nhân có thể là một tấm gương phản 
chiếu của đời sống chủng loại song lại biểu 
hiện ra không cùng cấp độ chung với đời sống 
chủng loại ở đặc điểm hoặc là điển hình hơn, 
hoặc là phổ biến hơn. 
Bản về tính cảm giác chủ quan của con 
người và lịch sử hình thành của năm giác quan, 
Mác lập luận: “Chỉ có thông qua sự phong phú, 
đã được phát triển về mặt vật chất, của bản 
chất con người, thì sự phong phú về tính cảm 
giác chủ quan của con người mới phát triển và 
một phần thậm chí lần đầu tiên mới được sản 
sinh ra: lỗ tai thính âm nhạc, con mắt cảm thấy 
cái đẹp của hình thức, nói tóm lại là những cảm 
giác có khả năng về sự hưởng thụ có tính chất 
người và sự khẳng định mình như những lực 
lượng bản chất của con người (TG nhấn 
mạnh)” [6]. Mác coi phương thức tồn tại của 
đời sống mỗi cá nhân đó chính là quá trình 
hình thành các năng lực chủ quan, là khả năng 
hưởng thụ mang tính chất người, được Mác 
xem như là những lực lượng bản chất của con 
người. 
“Sự hình thành năm giác quan là công việc 
của toàn bộ lịch sử toàn thế giới đã diễn ra từ 
trước đến nay”11. Trong hình thức của xã hội, 
các khí quan xã hội đã hình thành trong vai trò 
của năm giác quan và trở thành một phương 
thức thể hiện sự sống của con người xã hội. 
Lịch sử cụ thể của các quan hệ người bóc 
lột người qua các chế độ xã hội, các phương 
thức sản xuất xã hội, biểu hiện tập trung ở 
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mác đã 
chỉ ra nguồn gốc của chế độ tư hữu về tư liệu 
sản xuất chính là nguyên nhân dẫn đến sự tha 
hóa lao động, sự tha hóa của cái đẹp. Sự tha 
hóa của con người lao động cũng bao gồm cả 
sự tha hóa của cái đẹp trong lao động. 
_______ 
11 Sđd, tr20 
Mối quan hệ giữa tha hóa lao động và chế 
độ tư hữu tư sản được thể hiện thông qua mối 
quan hệ giữa người công nhân bỏ ra sức lao 
động bị bóc lột qua lao động làm công ăn 
lương và nhà tư bản. Chế độ tiền công là biểu 
hiện bên ngoài của sức lao động của người 
công nhân bị nhà tư bản chiếm đoạt về giá trị 
thặng dư. Đây là bản chất của quá trình phân 
hóa giàu nghèo, bần cùng hóa lao động trong 
quá trình tích lũy tư bản và là nguồn gốc tích tụ 
giá trị thặng dư trong sử dụng và bóc lột sức 
lao động làm thuê. Sự tha hóa cái đẹp làm suy 
yếu các chức năng xã hội tổng thể của cái đẹp, 
nhất là ở bản chất hàng ba - bản chất tổng hòa 
(tổng thể, hài hòa) của con người xã hội. Sự tha 
hóa cái đẹp sẽ dẫn đến tình trạng các hoạt động 
thẩm mỹ, sáng tạo cái đẹp sẽ rơi xuống vị trí 
hàng một, bị đồng nhất trực tiếp với các nhu 
cầu vật chất. 
Tha hóa lao động, theo C.Mác, là hiện 
tượng xã hội xuất hiện trong điều kiện chế độ 
tư hữu. Hoạt động lao động vốn là bản chất của 
con người xã hội, là biểu hiện tự do của đời 
sống con người, là sự khẳng định đời sống cá 
nhân, và là phương tiện sinh sống của con 
người, thì nay trở thành hoạt động bất đắc dĩ 
đối với con người. Dưới áp lực của hoạt động 
lao động nay không còn nảy sinh như là hoạt 
động do nhu cầu tất yếu nội tại bên trong con 
người, con người bị hiện tượng tha hóa bủa 
vây: một mặt, tính cá biệt của con người bị tha 
hóa khỏi chính chủ thể người; mặt khác, con 
người trở nên xa lạ với chính những sản phẩm 
lao động của chính mình. Như vậy, tha hóa lao 
động dẫn đến tha hóa cái đẹp (điều kiện cho sự 
khẳng định cái độc đáo riêng của tính cá biệt 
con người, của bản thể của con người). Cái đẹp 
chính là mặt hiện thân của bản thể xã hội của 
con người nay bị tha hóa ra khỏi con người. 
Con người lao động sáng tạo ra các vật phẩm 
đẹp song họ lại không được hưởng thụ những 
Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53 
52 
giá trị ấy của đời sống. Đây chính là những 
biểu hiện của tấn bi kịch của con người bị tha 
hóa khỏi bản chất xã hội của chính mình (tha 
hóa cái đẹp). Do chỗ, cái đẹp chính là một hình 
thái giá trị kết tinh của lao động tự do sáng tạo 
mang bản chất xã hội. Lao động chính là thực 
thể của mọi giá trị. 
Sự tha hóa của cái đẹp, do đó là sự tha hóa 
của chính con người trong lao động về phương 
diện bản thể của con người. Những giá trị, 
những khả năng hưởng thụ có tính chất người, 
những lực lượng bản chất của con người bị suy 
thoái cùng với tha hóa lao động. Tha hóa cái 
đẹp cũng chính là sự suy yếu, suy giảm các 
chức năng hoạt động sáng tạo nói chung và 
sáng tạo thẩm mỹ nói riêng. Khái niệm “con 
người hàng hóa” là khái niệm đắt giá nhất mà 
C.Mác đã đưa ra để chứng minh cho sự tha hóa 
của con người lao động trong điều kiện của nền 
sản xuất tư bản chủ nghĩa. “Nền sản xuất sản 
sinh ra con người - C.Mác viết - không những 
chỉ với tính cách là hàng hóa, không những chỉ 
với tính cách là con người hàng hóa, con người 
với sự quy định của hàng hóa; nó sản xuất ra 
con người theo sự quy định ấy, như là một thực 
thể mất tính chất người cả về mặt tinh thần lẫn 
thể xác - Tính vô đạo đức, sự biến chất, sự đần 
độn của cả công nhân lẫn nhà tư bản. - Sản 
phẩm của nền sản xuất đó là hàng hóa có một ý 
thức và có một hoạt động độc lập... là con 
người hàng hóa...” [6]. 
Như vậy, theo Mác nguồn gốc của sự tích 
tụ tư bản là bóc lột lao động làm thuê. Các quy 
luật giá trị và giá cả hàng hóa đã nhất loạt tác 
động chi phối lên toàn bộ các lĩnh vực của đời 
sống tinh thần, đời sống thân thể của các cá nhân 
và của toàn xã hội. Từ đó Mác đi đến tư tưởng 
giải phóng con người khỏi sự tha hóa lao động và 
tha hóa cái đẹp. Giá trị nhân văn, nhân đạo trong 
tư tưởng của Mác về giải phóng con người, giải 
phóng cái đẹp đã cho thấy lý luận xã hội của chủ 
nghĩa Mác trên phương diện thẩm mỹ đã thống 
nhất quá trình phân tích bản chất tổng hòa (tổng 
thể, hài hòa) của cái đẹp với bản chất tổng hòa 
(toàn bộ) các quan hệ xã hội của con người. 
Quan niệm duy vật về lịch sử được C.Mác 
xây dựng trên cơ sở học thuyết về hình thái kinh 
tế - xã hội, trên cơ sở quan điểm hình thái. C.Mác 
đã luận chứng cho quá trình phát triển lịch sử của 
loài người như là một quá trình lịch sử tự nhiên. 
Lịch sử loài người là lịch sử của các chế độ xã 
hội thay thế lẫn nhau. Nhờ có học thuyết về các 
hình thái mà những hình thức lịch sử của đời 
sống xã hội trở thành những hình thức mang tính 
hệ thống. Những cấu trúc chức năng của xã hội, 
và các hình thái lịch sử - cụ thể của các hiện 
tượng xã hội cũng đều trở thành có tính hệ 
thống12. 
Phương pháp biện chứng duy vật của chủ 
nghĩa Mác khi đi vào phân tích lĩnh vực của cái 
đặc thù (cái đẹp), đã được Mác triển khai bằng 
một loạt các phương pháp tiếp cận quan trọng, 
xuất phát từ sự phân tích bản chất các hiện 
tượng xã hội một cách có hệ thống. Mác trước 
hết đã phân tích mặt hình thái của lao động, 
mặt chất lượng của hệ thống, mặt cấu trúc chức 
năng, trên quan điểm phát triển, lịch sử - cụ 
thể, về tính quy định của nền tảng sản xuất vật 
chất đối với quá trình hình thành bản chất tổng 
thể, tổng hòa của cái đẹp, của chính con người 
xã hội, và do đó đã phân tích bản chất của cái 
đẹp ở những hệ thống hiện thực, thực tiễn. Giá 
trị của phương pháp phân tích khoa học này 
nằm trong ý nghĩa phương pháp luận về đối 
tượng nghiên cứu là cái đặc thù, đến ngày nay 
vẫn còn nguyên vẹn giá trị của nó. Bản chất 
tổng hòa các giá trị xã hội và tự nhiên của cái 
đẹp luôn thể hiện tính điển hình của nó trong 
sự hài hòa thống nhất và cả trong những xung 
đột sâu xa nơi bản chất xã hội và cá nhân của 
con người xét trên toàn bộ cuộc vận động lịch 
sử của cái đẹp qua các hình thái kinh tế xã hội. 
_______ 
12 Sđd, tr81. 
Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53 53 
Tài liệu tham khảo 
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị 
Quốc Gia, Hà Nội, 1995, t.42, tr.137. 
[2] C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà 
Nội, 1978, t.1, tr.429. 
[3] C.Mác, Ph.Ăngghen, Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà 
Nội, 1982, tIII, tr.669. 
[4] C.Mác, Tư bản. Phê phán khoa học kinh tế chính trị, 
Nxb Sự thật, 1973, quyển thứ nhất, t.I, tr. 85-86. 
[5] C.Mác: Các học thuyết về giá trị thặng dư (quyển 
IV của bộ Tư bản) Nxb Sự thật, Hà Nội, 1965, 
ph.I, tr.385, 549. 
[6] C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin: Về văn học và 
nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr 20, 23, 
24, 33, 43 - 44, 69, 70, 76, 81. 
[7] V.P.Cu-dơ-min: Nguyên lý tính hệ thống trong lý 
luận và phương pháp luận của C.Mác, Nxb Sự 
thật, Hà Nội, 1986, tr.23, 75, 165, 167. 
The Method of Karl Marx in Discovering 
the Nature of the Beauty 
Đỗ Thị Minh Thảo 
VNU University of Social Sciences and Humanities, 
336 Nguyễn Trãi Road, Thanh Xuân Dist., Hanoi, Vietnam 
Abstract: Nowadays, when scientific knowledge has become the direct productive forces, 
 knowledge of economy has long been considered as the common foundation for social development. 
In fact, the rate of success of the intellectual elite of characteristic economy has always played the 
role as the creative factor of the countless trade names of commodities in the modern social life. 
Meanwhile, the rate of failure can be found right in the intellectual elite of general economy, if it is not 
to be operated to become the intellectual elite of characteristic economy. Therefore, from the story 
about the intellectual elite of characteristic economy, we can be able to withdraw the lessons from the 
philosophy-aethetics heritage of Karl Max in which the history of the beauty (belonging to 
the characteristic intellectual elite) has got access to the accompaniment with the economic issue (the 
general foundation for the development of social life). 
This is of clearly methodological significance in the awareness of historical materialism against the 
limitations in the awareness of economic materialism (When economy was considered to be the only 
decisive factor in social history). For a long time, the beauty has been considered the measurement of 
human quality, the measurement of the human beings in the world of objects. It always plays the role 
of new economic springboard, because after all, the economy is nothing if it does not aim towards the 
goal for human beings, the goal to build the ever more beautiful human society. 
Karl Marx is one of the greatest masters of mankind who used the methodology of the general to 
discover and access the methodology of the peculiarity. Moreover, Karl Marx also 
established the beauty as a category of economic leverage through the argument that human beings are 
also built according to the rules of the beauty. 
Through the category of the beauty, we can totally be able to explain better the human nature and 
human society from both origins; society and humanity. 
Keywords: The characteristic knowledge of economy, the beauty belongs to the characteristic 
intellectual elite, economic materialism, the methodology of the paculiarity, the beauty is the new 
springboard of economy. 

File đính kèm:

  • pdfphuong_phap_cua_cac_mac_trong_viec_phat_hien_ban_chat_cua_ca.pdf
Ebook liên quan