Phương thức thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen (Channa striata)
Tóm tắt Phương thức thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen (Channa striata): ... so với đối chứng (64,7%). Theo Walford và Lam (1993) cá bột có hoạt tính men tiêu hóa thấp ở những ngày đầu ăn thức ăn ngoài và tăng dần trong suốt giai đoạn ấu trùng trước khi chuyển sang giai đoạn khác. Vì vậy ở hầu hết các loài cá bột, khi bắt đầu ăn thức ăn ngoài, chúng đòi hỏi có thời ...hông phải từ việc sử dụng thức ăn chế biến. Kết quả nghiên cứu thể hiện việc thay thế thức ăn tự nhiên bằng thức ăn chế biến trong những ngày đầu ăn ngoài sẽ không mang lại kết quả khả quan. Bên Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 388 cạnh đó trong thờ...dịch cá thủy phân có tác dụng như chất kích thích bắt mồi hiệu quả đồng thời cải thiện đáng kể đến tăng trưởng của cá. Thí nghiệm này có tỉ lệ ăn nhau khá thấp dao động trong khoảng (6,67- 22,33%). Kết quả này là do thí nghiệm đã sử dụng thời điểm tập ăn (17 ngày tuổi) và phương thức tập ăn...
iện tượng ăn nhau giữa các cá thể trong đàn. Ngược lại tập ăn ở giai đoạn sớm đồng thời với phương thức chuyển đổi nhanh sẽ càng làm gia tăng tỉ lệ ăn nhau. 3.1.2 Tăng trưởng Tăng trưởng của cá đạt cao nhất ở nghiệm thức tập ăn lúc 10 ngày tuổi-20% TĂCB/ngày (3,18 g; 0,091 g/ngày và 12,4%/ngày) và cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Các nghiệm thức còn lại (kể cả nghiệm thức đối chứng) đều có tăng trọng và tăng trưởng DWG khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) với nhau (Bảng 1). Kết quả này cho thấy tăng trưởng của cá bột khi sử dụng thức ăn chế biến không bị ảnh hưởng so với sử dụng cá tạp. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 387 Bảng 1: Tăng trưởng về khối lượng của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến ở các thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau trước và sau 5 tuần thí nghiệm Nghiệm thức Wi (g) Wf (g) WG (g) DWG (g/ngày) SGR (%/ngày) Đối chứng 0,04 1,36±0,47b 1,32±0,47b 0,038±0,01b 9,97±0,92b 10 ngày tuổi-10% TĂCB 0,04 1,43±0,66b 1,39±0,66b 0,04±0,02b 10,04±1,23b 10 ngày tuổi-20% TĂCB 0,04 3,22±1,27a 3,18±1,27a 0,091±0,04a 12,4±1,13a 17 ngày tuổi-10% TĂCB 0,04 1,17±0,07b 1,13±0,07b 0,032±0b 9,64±0,17bc 17 ngày tuổi-20% TĂCB 0,04 0,73±0,18b 0,69±0,18b 0,02±0,01b 8,24±0,68c 24 ngày tuổi-10% TĂCB 0,04 1,25±0,3b 1,21±0,3b 0,035±0,01b 9,79±0,67b 24 ngày tuổi-20% TĂCB 0,04 1,26±0,07b 1,22±0,07b 0,035±0b 9,85±0,17b Ghi chú: Các giá trị trên cùng một cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn. So với một số nghiên cứu khác, tăng trưởng SGR của cá lóc đen trong thí nghiệm cao hơn so với thí nghiệm của Bùi Minh Tâm et al. (2004) trên cùng đối tượng đã có SGR là 6,1%/ngày khi tập ăn ở 15 ngày tuổi và cũng cao hơn so với cá móp (Centropomus parallelus) khi tập ăn từ ngày tuổi thứ 35 nhưng SGR chỉ đạt 5,53%/ngày (Alves et al., 2006). Qua các kết quả về tăng trưởng, tỉ lệ sống và tỉ lệ ăn nhau có thể thấy rằng nghiệm thức 10 ngày tuổi-20% TĂCB/ngày có thời điểm tập ăn sớm nhất và tỉ lệ thay thế TĂCB/ngày cao đã có tỉ lệ sống thấp nhất và tỉ lệ ăn nhau cao nhất nhưng lại có tăng trưởng cao nhất và cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Nghiệm thức 10 ngày tuổi-20% TĂCB/ngày với tỉ lệ sống chỉ 2,33% và thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại đã cho thấy cá lóc đen bột không thể sử dụng tốt thức ăn chế biến ở thời điểm 10 ngày tuổi. Cá lóc đen với đặc tính là loài cá dữ nên trong điều kiện thức ăn không thích hợp, cá bột ở nghiệm thức 10 ngày tuổi-20% TĂCB/ngày đã thể hiện tính ăn nhau rất cao (93,3%). Ngoài ra, khi con mồi là những cá thể nhỏ trong quần đàn thì sẽ dễ bị phát hiện và kích thích thị giác hơn so với thức ăn được cung cấp, đồng thời chúng cũng mang lại cho cá săn mồi nhiều năng lượng hơn/con mồi (Quin và Fast, 1996). Như vậy ở nghiệm thức 10 ngày tuổi- 20% TĂCB/ngày cá bột tuy có tốc độ tăng trưởng cao nhất nhưng lại có tỉ lệ sống thấp nhất và tỉ lệ ăn nhau cao nhất, điều này cho thấy sự tăng trưởng của cá bột ở nghiệm thức này chủ yếu là do sự ăn lẫn nhau chứ không phải từ việc sử dụng thức ăn chế biến. Kết quả nghiên cứu thể hiện việc thay thế thức ăn tự nhiên bằng thức ăn chế biến trong những ngày đầu ăn ngoài sẽ không mang lại kết quả khả quan. Bên Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 388 cạnh đó trong thời gian cho ăn kết hợp việc tăng dần TĂCB/ngày với tỉ lệ thấp (10% TĂCB/ngày) sẽ giúp cá bột thích nghi với thức ăn chế biến tốt hơn. Cá lóc đen bột trong thí nghiệm có thể sử dụng thức ăn chế biến ở thời điểm 17 ngày tuổi với phương thức thay thế 10% TĂCB/ngày mà không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống và tăng trưởng của cá. Thời điểm này là sớm hơn so với báo cáo của Quin et al. (1997) cũng trên cá lóc đen là 30 ngày tuổi. Tuy nhiên khi so sánh với các loài cá nước ngọt khác, cá lóc đen có thời điểm tập ăn muộn hơn so với cá lóc bông (Channa micropeltes) và cá kết (Micronema bleekeri) là 7 ngày tuổi (Nguyễn Thị Ngọc Lan, 2004; Nguyễn Văn Triều và ctv., 2008), trên cá trê phi (Clarias gariepinus) và cá trê vàng (Clarias macrocephalus) là 4 ngày tuổi (Verreth và Tongeren, 1989; Fermin và Bolivar, 1991; Olurin và Oluwo, 2010) và cá basa (Pangasius bocourti) là 5 ngày tuổi (Le Thanh Hung et al., 2002). Điều này cho thấy cá lóc đen phát triển chức năng hệ tiêu hóa muộn hơn so với các loài trên, đây là một trong những lý do giải thích tại sao loài này có thời điểm tập ăn muộn hơn so với một số loài cá nước ngọt khác. 3.2 Ảnh hưởng của các chất dẫn dụ khác nhau lên hiệu quả sử dụng thức ăn chế biến của cá lóc đen giai đoạn bột 3.2.1 Tỉ lệ sống Sau 4 tuần thí nghiệm, nghiệm thức đối chứng (không bổ sung chất dẫn dụ) có tỉ lệ sống thấp nhất (61%) và thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại (Hình 4). Ở các nghiệm thức có bổ sung chất dẫn dụ (dịch cá thủy phân, dầu gan mực và dịch trùn quế) lần lượt có tỉ lệ sống 79,3%, 73,7% và 71,3%, giữa các nghiệm thức này không có sự khác biệt (p>0,05) với nhau và cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng. Trong đó nghiệm thức bổ sung dịch cá cho tỉ lệ sống cao nhất (79,3%). Kết quả thí nghiệm cho thấy việc bổ sung chất dẫn dụ vào thức ăn đã cải thiện tỉ lệ sống của cá bột. Các nghiên cứu trước đây cho rằng thức ăn nhân tạo không kích thích cá bắt mồi vì không kích thích thị giác cá (Appelbaum và Damme, 1988). Cá rất khó bắt mồi là thức ăn nhân tạo nên không ăn đủ lượng thức ăn cần thiết (Person Le Ruy et al., 1993). Quan sát cá sử dụng thức ăn trong thời gian thí nghiệm cho thấy ở các nghiệm thức được bổ sung chất dẫn dụ cá chủ động bắt mồi rất nhanh đã hạn chế sự hòa tan của thức ăn chế biến trong khi cho cá ăn và tăng lượng thức ăn cá ăn vào, điều này thể hiện rõ ở nghiệm thức có bổ sung dịch cá thủy phân. Trái lại, ở nghiệm thức đối chứng thì cá bắt mồi chậm và yếu hơn. Kết quả này tương tự trên cá hồi (Salmo salar), chất dẫn dụ đã cải thiện được tình trạng giảm ăn khi chuyển cá từ môi trường nước ngọt sang nước mặn (Toften et al., 2003). Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 389 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 Đối chứng Dịch cá Dầu mực Dịch trùn quế Nghiệm thức Tỉ lệ số ng - SR (% ) b a a a Hình 4: Tỉ lệ sống (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến có bổ sung các chất dẫn dụ khác nhau sau 4 tuần thí nghiệm. Ở các nghiệm thức sử dụng chất dẫn dụ thì dịch cá thủy phân cho tỉ lệ sống cao nhất (79,3%). Theo Kotzamanis et al., (2007) việc bổ sung protein thủy phân vào khẩu phần ăn ngoài việc đóng vai trò như chất dẫn dụ, protein thủy phân cũng bổ sung thêm các acid amin thiết yếu cho cá bột nhất là ở giai đoạn tập ăn thức ăn nhân tạo, các acid amin này có thể thay thế các acid amin có trong thức ăn tươi sống của loài. Một số nghiên cứu khác đã chứng minh rằng việc đưa dịch cá thủy phân vào thức ăn nhân tạo còn được xem là phương pháp khắc phục khả năng tiêu hoá kém của cá bột (Dabrowski, 1984; Govoni et al., 1986). Kết quả của thí nghiệm tương tự với các nghiên cứu trên cá bơn (Solea solea) (Day et al., 2008) và cá chẽm (Dicentrarchus labrax) (Kotzamanis et al., 2007) đều có tỉ lệ sống được cải thiện khi bổ sung dịch cá thủy phân vào khẩu phần ăn của cá. 3.2.2 Tăng trưởng Bảng 2 : Tăng trưởng về khối lượng của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến có bổ sung các chất dẫn dụ khác nhau trước và sau 4 tuần thí nghiệm Nghiệm thức Wi (g) Wf (g) WG (g) DWG (g/ngày) SGR (%/ngày) Đối chứng 0,16 1,15±0,04d 0,99±0,04d 0,035±0,001d 7,03±0,11d Dịch cá thủy phân 0,16 1,98±0,03a 1,82±0,03a 0,065±0,001a 8,98±0,05a Dầu gan mực 0,16 1,76±0,03b 1,60±0,03b 0,057±0,001b 8,56±0,06b Dịch trùn quế 0,16 1,67±0,03c 1,51±0,03c 0,054±0,001c 8,38±0,07c Ghi chú: Các giá trị trên cùng một cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 390 Kết quả về tăng trưởng cho thấy nghiệm thức đối chứng có tăng trọng (WG) và tăng trưởng SGR thấp nhất (lần lượt là 0,99 g và 7,03%/ngày) và thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Bên cạnh đó, các nghiệm thức có bổ sung chất dẫn dụ có tăng trọng và SGR khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với nhau. Nghiệm thức bổ sung dịch cá có tăng trưởng cao nhất (1,82 g và 8,98%/ngày) và cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Như vậy việc bổ sung chất dẫn dụ vào thức ăn cũng góp phần cải thiện tăng trưởng của cá bột. Một vài nghiên cứu trước đã chứng minh chất dẫn dụ có tác dụng nâng cao vị ngon của thức ăn, chính vì vậy lượng thức ăn cá sử dụng tăng lên từ đó đã có tác động tích cực đến tăng trưởng của cá (Oliva-Teles et al., 1999; Takii et al., 1986; Gomes et al., 1997). Kết quả thí nghiệm cũng cho thấy dịch cá thủy phân có khả năng cải thiện tăng trưởng tốt nhất (1,82 g và 8,98%/ngày). Dịch cá thủy phân ngoài việc cải thiện khả năng tiêu thụ thức ăn còn cải thiện mùi của thức ăn (Berge và Storebakken, 1996). Bên cạnh đó hàm lượng các acid amin trong thức ăn có bổ sung dịch cá cao hơn so với thức ăn không bổ sung, từ đó việc sử dụng protein sẽ hiệu quả hơn và cá tăng trưởng nhanh hơn (Refstiea et al., 2004). Báo cáo trên nhiều loài cá khác như cá hồi (Salmon salar) (Berge và Storebakken, 1996; Refstiea et al., 2004; Espe et al., 1999), cá bơn (Scophthalamus maximus) (Oliva-Teles et al., 1999), cá tuyết (Gadus morhua) (Aksnes et al., 2006), cá chẽm (Dicentrarchus labrax) (Kotzamanis et al., 2007) và cá mú Nhật Bản (Lateolabrax japonicus) (Liang et al., 2006) cũng chứng minh dịch cá thủy phân có tác dụng như chất kích thích bắt mồi hiệu quả đồng thời cải thiện đáng kể đến tăng trưởng của cá. Thí nghiệm này có tỉ lệ ăn nhau khá thấp dao động trong khoảng (6,67- 22,33%). Kết quả này là do thí nghiệm đã sử dụng thời điểm tập ăn (17 ngày tuổi) và phương thức tập ăn (10% TĂCB/ngày) thích hợp nên cá bột đã có thể sử dụng tốt thức ăn chế biến được cung cấp. Sau 4 tuần thí nghiệm, tỉ lệ ăn nhau cao nhất ở nghiệm thức không sử dụng chất dẫn dụ (đối chứng) là 22,33% và cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Ở các nghiệm thức bổ sung chất dẫn dụ thì nghiệm thức dịch cá thủy phân cho tỉ lệ ăn nhau thấp nhất (6,67%), khác nhau không có ý nghĩa (p>0,05) so với sử dụng dầu mực (11,33%), nhưng thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với nghiệm thức dịch trùn quế (14%). Tỉ lệ ăn nhau khác nhau không có ý nghĩa (p>0,05) giữa 2 nghiệm thức dầu mực và dịch trùn quế. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 391 0 5 10 15 20 25 30 Đối chứng Dịch cá Dầu mực Dịch trùn quế Nghiệm thức Tỉ lệ ă n nh au (% ) a c bc b Hình 5: Tỉ lệ ăn nhau (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến có bổ sung các chất dẫn dụ khác nhau sau 4 tuần thí nghiệm Cá lóc là loài cá dữ, nếu thức ăn không hấp dẫn được cá thì chúng sẽ tấn công những cá thể nhỏ hơn trong quần đàn. Kết quả thí nghiệm cho thấy việc bổ sung chất dẫn dụ đã hạn chế được hiện tượng ăn nhau trong quần đàn, trong đó dịch cá thủy phân thể hiện khả năng nâng cao tính hấp dẫn của thức ăn tốt nhất. Theo Papatryphon và Soares (2000), chất dẫn dụ đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn sử dụng thức ăn nhân tạo cho cá bột và trong khẩu phần ăn có vị ngon kém. Sử dụng chất dẫn dụ có thể làm tăng vị ngon của thức ăn khi thức ăn không thể kích thích khả năng bắt mồi của cá (Xue và Cui, 2001). Một số báo cáo khác cũng có kết luận tương tự như trên cá chẽm (Dicentrarchus labrax) dịch cá thủy phân đã tạo điều kiện cho quá trình tập ăn của cá được dễ dàng hơn (Cahu et al., 1999), trên cá vàng (Carassius auratus gibelio) (Xue và Cui, 2001) và trên cá hồi (Salmo salar) (Toften et al., 1995) dầu gan mực có tác dụng kích thích khả năng bắt mồi mạnh mẽ. 4 KẾT LUẬN Thức ăn chế biến có thể sử dụng ương cá lóc đen từ ngày tuổi thứ 17. Tập ăn cho cá bột bằng cách cho ăn kết hợp với tỉ lệ tăng dần 10% TĂCB/ngày cho hiệu quả cao hơn so với tỉ lệ 20% TĂCB/ngày. Thức ăn chế biến có bổ sung các chất dẫn dụ sẽ cải thiện tỉ lệ sống và tăng trưởng cho cá bột, trong đó dịch cá thủy phân là chất dẫn dụ hiệu quả nhất trong thời gian tập ăn thức ăn chế biến của cá lóc đen bột. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 392 TÀI LIỆU THAM KHẢO Aksnes, A., B. Hope, O. Hostmark and S. Albrektsen, 2006. Inclusion of size fractionated fish hydrolysate in high plant protein diets for Atlantic cod, Gadus morhua. Aquaculture, 261: 1102-1110. Alves Jr., T. T, V. R. Cerqueira and J. A. Brown, 2006. Early weaning of fatsnook (Centropomus parallelus Poey 1864) larvae. Aquaculture, 253: 334-342. Appelbaum, S and P. Van Damme, 1988. The feasibility of using exclusively artificial fry feed for the rearing of Israeli Clarias gariepinus (Burchell, 1822) larvae and fry. J. Appl. Ichthyol, 4: 105-110. Berge, G. M. and T. Storebakken, 1996. Fish protein hydrolyzate in starter diets for Atlantic salmon (Salmo salar) fry. Aquaculture, 145: 205-212. Bui Minh Tam, A. B. Abol-Munafi, M. A. Ambak and P. Ismail, 2004. Effect of different diets on growth and survival rates of snakehead (Channa striata, Bloch 1797) larvae. Korean J Biol Sci, 8: 313-317. Cahu, C. L., J.L. Z. Infante, P. Quazuguel and M.M. L. Gall, 1999. Protein hydrolysate vs. fish meal in compound diets for 10-day old sea bass Dicentrarchus labrax larvae. Aquaculture, 171: 109-119. Cuvier-Péres, A. and P. Kestemont, 2002. Development of sovme digestive enzymes in Eurasian perch larvae Perca fluviatilis. Fish Physiology and Biochemistry, 24 : 279-285. Dabrowski, K., 1984. The feeding of fish larvae: present state of the art and perspectives. Reprod. Nutr. Dév, 24: 807-833. Day, O.J., B.R. Howell and D.A. Jones, 2008. The effect of dietary hydrolyzed fish protein concentrate on the survival and growth of juvenile Dover sole, Solea solea (L.), during and after weaning. Aquaculture Research, 28: 911- 921. Espe, M., H. Sveier, I. Hogoy and E. Lied, 1999. Nutrient absorption and growth of Atlantic salmon (Salmo salar L.) fed fish protein concentrate. Aquaculture, 174: 119–137 Fermin, A.C. and M.E.C. Bolivar, 1991. Larvae rearing of the Philippine freshwater catfish, Clarias macrocephalus (alternative Gunther) fed live zooplankton and artificial diet: a preliminary study. Bamidgeh, 43: 87-94. Fernandez-Diaz, C. and M. Yufera, 1997. Detecting growth in gilthead seabream Sparus aurata L. larvae fed microcapsules. Aquaculture, 134: 269-278. Gomes, E., J. Dias and S.J. Kaushik, 1997. Improvement of feed intake through supplementation with an attractant mix in European sea bass fed plant protein rich diets. Aquat. Living Resour, 10: 385–389. Govoni, J.J., G.W. Boehlert, and Y. Watanabe, 1986. The physiology of digestion in fish larvae. Environmental Biology of Fishes, 16: 59–77. Kestemont, P., X. Xueliang, N. Hamza, J. Maboudou and I. I. Toko, 2007. Effect of weaning age and diet on pikeperch larviculture. Aquaculture, 264: 197 – 204. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 393 Kotzamanis, Y. P., E. Gisbert, F. J. Gatesoupe, J. Z. Infante and C. Cahu, 2007. Effects of different dietary levels of fish protein hydrolysates on growth, digestive enzymes, gut microbiota, and resistance to Vibrio anguillarum in European sea bass (Dicentrarchus labrax) larvae. Comparative Biochemistry and Physiology, part A 147: 205–214 Le Thanh Hung, Nguyen Anh Tuan, P. Cacot and J. Lazard, 2002. Larval rearing of the Asian Catfish, Pangasius bocourti (Siluroidei, Pangasiidae): alternative feeds and weaning time. Aquaculture, 212: 115–127. Liang, M., J. Wang, Q. Chang and K. Mai, 2006. Effects of different levels of fish protein hydrolysate in the diet on the nonspecific immunity of Japanese sea bass, Lateolabrax japonicus (Cuvieret Valenciennes, 1928). Aquaculture Research, 37: 102–106. Nguyễn Thị Ngọc Lan, 2004. Nghiên cứu sử dụng thức ăn chế biến để ương nuôi cá lóc bông (Channa micropeltes). Luận văn Thạc sĩ. Khoa Thủy sản. Đại học Cần Thơ. Nguyễn Văn Triều, Dương Nhật Long và Nguyễn Anh Tuấn, 2008. Nghiên cứu ương giống cá kết (Micronema bleekeri) bằng các loại thức ăn khác nhau. Tạp chí khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, 2008 (2): 67-75. Oliva-Teles, A., A.L. Cerqueira and P. Gonc-alves, 1999. The utilization of diets containing high levels of fish protein hydrolysate by turbot (Scophthalamus maximus) juveniles. Aquaculture, 179: 195-201. Olurin, K.B. and A.B. Oluwo, 2010. Growth and Survival of African Catfish (Clarias gariepinus) Larvae Fed Decapsulated Artemia, Live Daphnia, or Commercial Starter Diet. The Israeli Journal of Aquaculture-Bamidgeh, 62: 50-55 Papatryphon, E and J. H. Soares, 2000. The effect of dietary feeding stimulants on growth performance of striped bass, Morone saxatilis, fed-a-plant feedstuff- based diet. Aquaculture, 185: 329-338 Person Le Ruyet, J., J.C. Alexandre, L. Thebaud and C. Mugnier, 1993. Marine fish larvae: feeding formulated diets or live preys? J. World Aquac. Soc., 24: 211-224. Phan Hồng Cương, 2009. Tình hình sử dụng cá tạp và khả năng sử dụng bột đậu nành trong phối chế thức ăn chế biến nuôi cá lóc (Channa striata). Luận văn Thạc sĩ. Khoa Thủy sản. Đại học Cần Thơ. Qin, J.G., A.W. Fast., D.DeAnda. and R.P. Weidenbach, 1997. Growth and survival of larval snakehead (Channa striatus) fed different diets. Aquaculture, 148: 105-113. Quin, J.G. and A.W.Fast, 1996. Size and feed dependent cannibalism with juvenile snakehead Channa striatus. Aquaculture, 144: 313-320 Refstiea, S., J. J. Ollic and H. Standald, 2004. Feed intake, growth, and protein utilisation by post-smolt Atlantic salmon (Salmo salar) in response to graded levels of fish protein hydrolysate in the diet. Aquaculture, 239: 331-349. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 394 Takii, K., S. Shimeno and M. Takeda, 1986. The effect of feeding stimulants in diet on some hepatic enzyme activities of eel. Bulletin of the Japanese Society of Scientific Fisheries, 52: 2131-2134. Toften, H, A. M. Arnesen and M. Jobling, 2003. Feed intake, growth and ionoregulation in Atlantic salmon (Salmo salar L.) smolts in relation to dietaryaddition of a feeding stimulant and time of seawater transfer. Aquaculture, 217: 647-662. Toften, H., E.H. Jorgensen and M. Jobling, 1995. The study of feeding preference using radiography: oxytetracy cline as a feeding deterrent and squid extract as a feeding stimulant in diets for salmon. Aquaculture Nutrition, 1: 145-149. Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương Thùy, 2008. Khả năng sử dụng thức ăn chế biến của cá còm (Chitala chitala) giai đoạn bột lên giống. Tạp chí Khoa học 2008, 1:134-140. Trường Đại học Cần Thơ. Verreth, J. and M.V. Tongeren, 1989. Weaning time in Clarias gariepinus (Burchell) larvae. Aquaculture, 83: 81-88. Victor., R and B. O. Akapocha, 1992. The biology of snakehead, Channa obscura (Gunther), in a Nigerian pond under monoculture. Aquaculture, 101: 17-24 Walford, J. and T. J. Lam, 1993. Deveplopment of digestive tract and proteolytic enzyme activity in seabass (Lates calcarifer). Aquaculture, 109: 187-205. Xue. M and Y. Cui, 2001. Effect of several feeding stimulants on diet preference by juvenile gibel carp (Carassius auratus gibelio), fed diets with or without partial replacement of fish meal by meat and bone meal. Aquaculture, 198: 281–292.
File đính kèm:
- phuong_thuc_thay_the_thuc_an_che_bien_trong_uong_ca_loc_den.pdf