Phương thức thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen (Channa striata)

Tóm tắt Phương thức thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen (Channa striata): ... so với đối chứng (64,7%). Theo Walford và Lam (1993) cá bột có hoạt tính men tiêu hóa thấp ở những ngày đầu ăn thức ăn ngoài và tăng dần trong suốt giai đoạn ấu trùng trước khi chuyển sang giai đoạn khác. Vì vậy ở hầu hết các loài cá bột, khi bắt đầu ăn thức ăn ngoài, chúng đòi hỏi có thời ...hông phải từ việc sử dụng thức ăn chế biến. Kết quả nghiên cứu thể hiện việc thay thế thức ăn tự nhiên bằng thức ăn chế biến trong những ngày đầu ăn ngoài sẽ không mang lại kết quả khả quan. Bên Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 388 cạnh đó trong thờ...dịch cá thủy phân có tác dụng như chất kích thích bắt mồi hiệu quả đồng thời cải thiện đáng kể đến tăng trưởng của cá. Thí nghiệm này có tỉ lệ ăn nhau khá thấp dao động trong khoảng (6,67- 22,33%). Kết quả này là do thí nghiệm đã sử dụng thời điểm tập ăn (17 ngày tuổi) và phương thức tập ăn...

pdf14 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 302 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Phương thức thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen (Channa striata), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện tượng ăn nhau giữa các cá thể 
trong đàn. Ngược lại tập ăn ở giai đoạn sớm đồng thời với phương thức chuyển 
đổi nhanh sẽ càng làm gia tăng tỉ lệ ăn nhau. 
3.1.2 Tăng trưởng 
Tăng trưởng của cá đạt cao nhất ở nghiệm thức tập ăn lúc 10 ngày tuổi-20% 
TĂCB/ngày (3,18 g; 0,091 g/ngày và 12,4%/ngày) và cao hơn có ý nghĩa 
(p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Các nghiệm thức còn lại (kể cả 
nghiệm thức đối chứng) đều có tăng trọng và tăng trưởng DWG khác biệt 
không có ý nghĩa (p>0,05) với nhau (Bảng 1). Kết quả này cho thấy tăng 
trưởng của cá bột khi sử dụng thức ăn chế biến không bị ảnh hưởng so với sử 
dụng cá tạp. 
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 
 387
Bảng 1: Tăng trưởng về khối lượng của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến ở 
các thời điểm và phương thức tập ăn khác nhau trước và sau 5 tuần thí 
nghiệm 
Nghiệm thức Wi (g) Wf (g) WG (g) DWG 
(g/ngày) 
SGR 
(%/ngày) 
Đối chứng 0,04 1,36±0,47b 1,32±0,47b 0,038±0,01b 9,97±0,92b 
10 ngày tuổi-10% TĂCB 0,04 1,43±0,66b 1,39±0,66b 0,04±0,02b 10,04±1,23b
10 ngày tuổi-20% TĂCB 0,04 3,22±1,27a 3,18±1,27a 0,091±0,04a 12,4±1,13a 
17 ngày tuổi-10% TĂCB 0,04 1,17±0,07b 1,13±0,07b 0,032±0b 9,64±0,17bc
17 ngày tuổi-20% TĂCB 0,04 0,73±0,18b 0,69±0,18b 0,02±0,01b 8,24±0,68c 
24 ngày tuổi-10% TĂCB 0,04 1,25±0,3b 1,21±0,3b 0,035±0,01b 9,79±0,67b 
24 ngày tuổi-20% TĂCB 0,04 1,26±0,07b 1,22±0,07b 0,035±0b 9,85±0,17b 
Ghi chú: Các giá trị trên cùng một cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống 
kê (p>0,05). Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn. 
So với một số nghiên cứu khác, tăng trưởng SGR của cá lóc đen trong thí 
nghiệm cao hơn so với thí nghiệm của Bùi Minh Tâm et al. (2004) trên cùng 
đối tượng đã có SGR là 6,1%/ngày khi tập ăn ở 15 ngày tuổi và cũng cao hơn 
so với cá móp (Centropomus parallelus) khi tập ăn từ ngày tuổi thứ 35 nhưng 
SGR chỉ đạt 5,53%/ngày (Alves et al., 2006). 
Qua các kết quả về tăng trưởng, tỉ lệ sống và tỉ lệ ăn nhau có thể thấy rằng 
nghiệm thức 10 ngày tuổi-20% TĂCB/ngày có thời điểm tập ăn sớm nhất và tỉ 
lệ thay thế TĂCB/ngày cao đã có tỉ lệ sống thấp nhất và tỉ lệ ăn nhau cao nhất 
nhưng lại có tăng trưởng cao nhất và cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các 
nghiệm thức còn lại. Nghiệm thức 10 ngày tuổi-20% TĂCB/ngày với tỉ lệ sống 
chỉ 2,33% và thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại đã 
cho thấy cá lóc đen bột không thể sử dụng tốt thức ăn chế biến ở thời điểm 10 
ngày tuổi. Cá lóc đen với đặc tính là loài cá dữ nên trong điều kiện thức ăn 
không thích hợp, cá bột ở nghiệm thức 10 ngày tuổi-20% TĂCB/ngày đã thể 
hiện tính ăn nhau rất cao (93,3%). Ngoài ra, khi con mồi là những cá thể nhỏ 
trong quần đàn thì sẽ dễ bị phát hiện và kích thích thị giác hơn so với thức ăn 
được cung cấp, đồng thời chúng cũng mang lại cho cá săn mồi nhiều năng 
lượng hơn/con mồi (Quin và Fast, 1996). Như vậy ở nghiệm thức 10 ngày tuổi-
20% TĂCB/ngày cá bột tuy có tốc độ tăng trưởng cao nhất nhưng lại có tỉ lệ 
sống thấp nhất và tỉ lệ ăn nhau cao nhất, điều này cho thấy sự tăng trưởng của 
cá bột ở nghiệm thức này chủ yếu là do sự ăn lẫn nhau chứ không phải từ việc 
sử dụng thức ăn chế biến. 
Kết quả nghiên cứu thể hiện việc thay thế thức ăn tự nhiên bằng thức ăn chế 
biến trong những ngày đầu ăn ngoài sẽ không mang lại kết quả khả quan. Bên 
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 
 388
cạnh đó trong thời gian cho ăn kết hợp việc tăng dần TĂCB/ngày với tỉ lệ thấp 
(10% TĂCB/ngày) sẽ giúp cá bột thích nghi với thức ăn chế biến tốt hơn. Cá 
lóc đen bột trong thí nghiệm có thể sử dụng thức ăn chế biến ở thời điểm 17 
ngày tuổi với phương thức thay thế 10% TĂCB/ngày mà không ảnh hưởng đến 
tỉ lệ sống và tăng trưởng của cá. Thời điểm này là sớm hơn so với báo cáo của 
Quin et al. (1997) cũng trên cá lóc đen là 30 ngày tuổi. Tuy nhiên khi so sánh 
với các loài cá nước ngọt khác, cá lóc đen có thời điểm tập ăn muộn hơn so với 
cá lóc bông (Channa micropeltes) và cá kết (Micronema bleekeri) là 7 ngày 
tuổi (Nguyễn Thị Ngọc Lan, 2004; Nguyễn Văn Triều và ctv., 2008), trên cá trê 
phi (Clarias gariepinus) và cá trê vàng (Clarias macrocephalus) là 4 ngày tuổi 
(Verreth và Tongeren, 1989; Fermin và Bolivar, 1991; Olurin và Oluwo, 2010) 
và cá basa (Pangasius bocourti) là 5 ngày tuổi (Le Thanh Hung et al., 2002). 
Điều này cho thấy cá lóc đen phát triển chức năng hệ tiêu hóa muộn hơn so với 
các loài trên, đây là một trong những lý do giải thích tại sao loài này có thời 
điểm tập ăn muộn hơn so với một số loài cá nước ngọt khác. 
3.2 Ảnh hưởng của các chất dẫn dụ khác nhau lên hiệu quả sử dụng thức 
ăn chế biến của cá lóc đen giai đoạn bột 
3.2.1 Tỉ lệ sống 
Sau 4 tuần thí nghiệm, nghiệm thức đối chứng (không bổ sung chất dẫn dụ) có 
tỉ lệ sống thấp nhất (61%) và thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các 
nghiệm thức còn lại (Hình 4). 
Ở các nghiệm thức có bổ sung chất dẫn dụ (dịch cá thủy phân, dầu gan mực và 
dịch trùn quế) lần lượt có tỉ lệ sống 79,3%, 73,7% và 71,3%, giữa các nghiệm 
thức này không có sự khác biệt (p>0,05) với nhau và cao hơn có ý nghĩa 
(p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng. Trong đó nghiệm thức bổ sung dịch cá 
cho tỉ lệ sống cao nhất (79,3%). Kết quả thí nghiệm cho thấy việc bổ sung chất 
dẫn dụ vào thức ăn đã cải thiện tỉ lệ sống của cá bột. 
Các nghiên cứu trước đây cho rằng thức ăn nhân tạo không kích thích cá bắt 
mồi vì không kích thích thị giác cá (Appelbaum và Damme, 1988). Cá rất khó 
bắt mồi là thức ăn nhân tạo nên không ăn đủ lượng thức ăn cần thiết (Person Le 
Ruy et al., 1993). Quan sát cá sử dụng thức ăn trong thời gian thí nghiệm cho 
thấy ở các nghiệm thức được bổ sung chất dẫn dụ cá chủ động bắt mồi rất 
nhanh đã hạn chế sự hòa tan của thức ăn chế biến trong khi cho cá ăn và tăng 
lượng thức ăn cá ăn vào, điều này thể hiện rõ ở nghiệm thức có bổ sung dịch cá 
thủy phân. Trái lại, ở nghiệm thức đối chứng thì cá bắt mồi chậm và yếu hơn. 
Kết quả này tương tự trên cá hồi (Salmo salar), chất dẫn dụ đã cải thiện được 
tình trạng giảm ăn khi chuyển cá từ môi trường nước ngọt sang nước mặn 
(Toften et al., 2003). 
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 
 389
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Đối chứng Dịch cá Dầu mực Dịch trùn quế
Nghiệm thức
Tỉ
 lệ
 số
ng
 - 
SR
 (%
) b
a
a
a
Hình 4: Tỉ lệ sống (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến có bổ sung các 
chất dẫn dụ khác nhau sau 4 tuần thí nghiệm. 
Ở các nghiệm thức sử dụng chất dẫn dụ thì dịch cá thủy phân cho tỉ lệ sống cao 
nhất (79,3%). Theo Kotzamanis et al., (2007) việc bổ sung protein thủy phân 
vào khẩu phần ăn ngoài việc đóng vai trò như chất dẫn dụ, protein thủy phân 
cũng bổ sung thêm các acid amin thiết yếu cho cá bột nhất là ở giai đoạn tập ăn 
thức ăn nhân tạo, các acid amin này có thể thay thế các acid amin có trong thức 
ăn tươi sống của loài. Một số nghiên cứu khác đã chứng minh rằng việc đưa 
dịch cá thủy phân vào thức ăn nhân tạo còn được xem là phương pháp khắc 
phục khả năng tiêu hoá kém của cá bột (Dabrowski, 1984; Govoni et al., 1986). 
Kết quả của thí nghiệm tương tự với các nghiên cứu trên cá bơn (Solea solea) 
(Day et al., 2008) và cá chẽm (Dicentrarchus labrax) (Kotzamanis et al., 2007) 
đều có tỉ lệ sống được cải thiện khi bổ sung dịch cá thủy phân vào khẩu phần 
ăn của cá. 
3.2.2 Tăng trưởng 
Bảng 2 : Tăng trưởng về khối lượng của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến 
có bổ sung các chất dẫn dụ khác nhau trước và sau 4 tuần thí nghiệm 
Nghiệm thức Wi (g) Wf (g) WG (g) DWG (g/ngày) SGR 
(%/ngày) 
Đối chứng 0,16 1,15±0,04d 0,99±0,04d 0,035±0,001d 7,03±0,11d 
Dịch cá thủy phân 0,16 1,98±0,03a 1,82±0,03a 0,065±0,001a 8,98±0,05a 
Dầu gan mực 0,16 1,76±0,03b 1,60±0,03b 0,057±0,001b 8,56±0,06b 
Dịch trùn quế 0,16 1,67±0,03c 1,51±0,03c 0,054±0,001c 8,38±0,07c 
Ghi chú: Các giá trị trên cùng một cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống 
kê (p>0,05). Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn 
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 
 390
Kết quả về tăng trưởng cho thấy nghiệm thức đối chứng có tăng trọng (WG) và 
tăng trưởng SGR thấp nhất (lần lượt là 0,99 g và 7,03%/ngày) và thấp hơn có ý 
nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Bên cạnh đó, các nghiệm thức 
có bổ sung chất dẫn dụ có tăng trọng và SGR khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với 
nhau. Nghiệm thức bổ sung dịch cá có tăng trưởng cao nhất (1,82 g và 
8,98%/ngày) và cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. 
Như vậy việc bổ sung chất dẫn dụ vào thức ăn cũng góp phần cải thiện tăng 
trưởng của cá bột. Một vài nghiên cứu trước đã chứng minh chất dẫn dụ có tác 
dụng nâng cao vị ngon của thức ăn, chính vì vậy lượng thức ăn cá sử dụng tăng 
lên từ đó đã có tác động tích cực đến tăng trưởng của cá (Oliva-Teles et al., 
1999; Takii et al., 1986; Gomes et al., 1997). 
Kết quả thí nghiệm cũng cho thấy dịch cá thủy phân có khả năng cải thiện tăng 
trưởng tốt nhất (1,82 g và 8,98%/ngày). Dịch cá thủy phân ngoài việc cải thiện 
khả năng tiêu thụ thức ăn còn cải thiện mùi của thức ăn (Berge và Storebakken, 
1996). Bên cạnh đó hàm lượng các acid amin trong thức ăn có bổ sung dịch cá 
cao hơn so với thức ăn không bổ sung, từ đó việc sử dụng protein sẽ hiệu quả 
hơn và cá tăng trưởng nhanh hơn (Refstiea et al., 2004). Báo cáo trên nhiều 
loài cá khác như cá hồi (Salmon salar) (Berge và Storebakken, 1996; Refstiea 
et al., 2004; Espe et al., 1999), cá bơn (Scophthalamus maximus) (Oliva-Teles 
et al., 1999), cá tuyết (Gadus morhua) (Aksnes et al., 2006), cá chẽm 
(Dicentrarchus labrax) (Kotzamanis et al., 2007) và cá mú Nhật Bản 
(Lateolabrax japonicus) (Liang et al., 2006) cũng chứng minh dịch cá thủy 
phân có tác dụng như chất kích thích bắt mồi hiệu quả đồng thời cải thiện đáng 
kể đến tăng trưởng của cá. 
Thí nghiệm này có tỉ lệ ăn nhau khá thấp dao động trong khoảng (6,67-
22,33%). Kết quả này là do thí nghiệm đã sử dụng thời điểm tập ăn (17 ngày 
tuổi) và phương thức tập ăn (10% TĂCB/ngày) thích hợp nên cá bột đã có thể 
sử dụng tốt thức ăn chế biến được cung cấp. 
Sau 4 tuần thí nghiệm, tỉ lệ ăn nhau cao nhất ở nghiệm thức không sử dụng 
chất dẫn dụ (đối chứng) là 22,33% và cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các 
nghiệm thức còn lại. Ở các nghiệm thức bổ sung chất dẫn dụ thì nghiệm thức 
dịch cá thủy phân cho tỉ lệ ăn nhau thấp nhất (6,67%), khác nhau không có ý 
nghĩa (p>0,05) so với sử dụng dầu mực (11,33%), nhưng thấp hơn có ý nghĩa 
(p<0,05) so với nghiệm thức dịch trùn quế (14%). Tỉ lệ ăn nhau khác nhau 
không có ý nghĩa (p>0,05) giữa 2 nghiệm thức dầu mực và dịch trùn quế. 
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 
 391
0
5
10
15
20
25
30
Đối chứng Dịch cá Dầu mực Dịch trùn quế
Nghiệm thức
Tỉ
 lệ
 ă
n 
nh
au
 (%
)
a
c
bc
b
Hình 5: Tỉ lệ ăn nhau (%) của cá lóc đen bột sử dụng thức ăn chế biến có bổ sung 
các chất dẫn dụ khác nhau sau 4 tuần thí nghiệm 
Cá lóc là loài cá dữ, nếu thức ăn không hấp dẫn được cá thì chúng sẽ tấn công 
những cá thể nhỏ hơn trong quần đàn. Kết quả thí nghiệm cho thấy việc bổ 
sung chất dẫn dụ đã hạn chế được hiện tượng ăn nhau trong quần đàn, trong đó 
dịch cá thủy phân thể hiện khả năng nâng cao tính hấp dẫn của thức ăn tốt nhất. 
Theo Papatryphon và Soares (2000), chất dẫn dụ đóng vai trò quan trọng trong 
giai đoạn sử dụng thức ăn nhân tạo cho cá bột và trong khẩu phần ăn có vị 
ngon kém. Sử dụng chất dẫn dụ có thể làm tăng vị ngon của thức ăn khi thức 
ăn không thể kích thích khả năng bắt mồi của cá (Xue và Cui, 2001). Một số 
báo cáo khác cũng có kết luận tương tự như trên cá chẽm (Dicentrarchus 
labrax) dịch cá thủy phân đã tạo điều kiện cho quá trình tập ăn của cá được dễ 
dàng hơn (Cahu et al., 1999), trên cá vàng (Carassius auratus gibelio) (Xue và 
Cui, 2001) và trên cá hồi (Salmo salar) (Toften et al., 1995) dầu gan mực có 
tác dụng kích thích khả năng bắt mồi mạnh mẽ. 
4 KẾT LUẬN 
Thức ăn chế biến có thể sử dụng ương cá lóc đen từ ngày tuổi thứ 17. Tập ăn 
cho cá bột bằng cách cho ăn kết hợp với tỉ lệ tăng dần 10% TĂCB/ngày cho 
hiệu quả cao hơn so với tỉ lệ 20% TĂCB/ngày. Thức ăn chế biến có bổ sung 
các chất dẫn dụ sẽ cải thiện tỉ lệ sống và tăng trưởng cho cá bột, trong đó dịch 
cá thủy phân là chất dẫn dụ hiệu quả nhất trong thời gian tập ăn thức ăn chế 
biến của cá lóc đen bột. 
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 
 392
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Aksnes, A., B. Hope, O. Hostmark and S. Albrektsen, 2006. Inclusion of size 
fractionated fish hydrolysate in high plant protein diets for Atlantic cod, 
Gadus morhua. Aquaculture, 261: 1102-1110. 
Alves Jr., T. T, V. R. Cerqueira and J. A. Brown, 2006. Early weaning of fatsnook 
(Centropomus parallelus Poey 1864) larvae. Aquaculture, 253: 334-342. 
Appelbaum, S and P. Van Damme, 1988. The feasibility of using exclusively 
artificial fry feed for the rearing of Israeli Clarias gariepinus (Burchell, 1822) 
larvae and fry. J. Appl. Ichthyol, 4: 105-110. 
Berge, G. M. and T. Storebakken, 1996. Fish protein hydrolyzate in starter diets 
for Atlantic salmon (Salmo salar) fry. Aquaculture, 145: 205-212. 
Bui Minh Tam, A. B. Abol-Munafi, M. A. Ambak and P. Ismail, 2004. Effect of 
different diets on growth and survival rates of snakehead (Channa striata, 
Bloch 1797) larvae. Korean J Biol Sci, 8: 313-317. 
Cahu, C. L., J.L. Z. Infante, P. Quazuguel and M.M. L. Gall, 1999. Protein 
hydrolysate vs. fish meal in compound diets for 10-day old sea bass 
Dicentrarchus labrax larvae. Aquaculture, 171: 109-119. 
Cuvier-Péres, A. and P. Kestemont, 2002. Development of sovme digestive 
enzymes in Eurasian perch larvae Perca fluviatilis. Fish Physiology and 
Biochemistry, 24 : 279-285. 
Dabrowski, K., 1984. The feeding of fish larvae: present state of the art and 
perspectives. Reprod. Nutr. Dév, 24: 807-833. 
Day, O.J., B.R. Howell and D.A. Jones, 2008. The effect of dietary hydrolyzed 
fish protein concentrate on the survival and growth of juvenile Dover sole, 
Solea solea (L.), during and after weaning. Aquaculture Research, 28: 911-
921. 
Espe, M., H. Sveier, I. Hogoy and E. Lied, 1999. Nutrient absorption and growth 
of Atlantic salmon (Salmo salar L.) fed fish protein concentrate. Aquaculture, 
174: 119–137 
Fermin, A.C. and M.E.C. Bolivar, 1991. Larvae rearing of the Philippine 
freshwater catfish, Clarias macrocephalus (alternative Gunther) fed live 
zooplankton and artificial diet: a preliminary study. Bamidgeh, 43: 87-94. 
Fernandez-Diaz, C. and M. Yufera, 1997. Detecting growth in gilthead seabream 
Sparus aurata L. larvae fed microcapsules. Aquaculture, 134: 269-278. 
Gomes, E., J. Dias and S.J. Kaushik, 1997. Improvement of feed intake through 
supplementation with an attractant mix in European sea bass fed plant protein 
rich diets. Aquat. Living Resour, 10: 385–389. 
Govoni, J.J., G.W. Boehlert, and Y. Watanabe, 1986. The physiology of digestion 
in fish larvae. Environmental Biology of Fishes, 16: 59–77. 
Kestemont, P., X. Xueliang, N. Hamza, J. Maboudou and I. I. Toko, 2007. Effect 
of weaning age and diet on pikeperch larviculture. Aquaculture, 264: 197 – 
204. 
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 
 393
Kotzamanis, Y. P., E. Gisbert, F. J. Gatesoupe, J. Z. Infante and C. Cahu, 2007. 
Effects of different dietary levels of fish protein hydrolysates on growth, 
digestive enzymes, gut microbiota, and resistance to Vibrio anguillarum in 
European sea bass (Dicentrarchus labrax) larvae. Comparative Biochemistry 
and Physiology, part A 147: 205–214 
Le Thanh Hung, Nguyen Anh Tuan, P. Cacot and J. Lazard, 2002. Larval rearing 
of the Asian Catfish, Pangasius bocourti (Siluroidei, Pangasiidae): alternative 
feeds and weaning time. Aquaculture, 212: 115–127. 
Liang, M., J. Wang, Q. Chang and K. Mai, 2006. Effects of different levels of fish 
protein hydrolysate in the diet on the nonspecific immunity of Japanese sea 
bass, Lateolabrax japonicus (Cuvieret Valenciennes, 1928). Aquaculture 
Research, 37: 102–106. 
Nguyễn Thị Ngọc Lan, 2004. Nghiên cứu sử dụng thức ăn chế biến để ương nuôi 
cá lóc bông (Channa micropeltes). Luận văn Thạc sĩ. Khoa Thủy sản. Đại học 
Cần Thơ. 
Nguyễn Văn Triều, Dương Nhật Long và Nguyễn Anh Tuấn, 2008. Nghiên cứu 
ương giống cá kết (Micronema bleekeri) bằng các loại thức ăn khác nhau. Tạp 
chí khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, 2008 (2): 67-75. 
Oliva-Teles, A., A.L. Cerqueira and P. Gonc-alves, 1999. The utilization of diets 
containing high levels of fish protein hydrolysate by turbot (Scophthalamus 
maximus) juveniles. Aquaculture, 179: 195-201. 
Olurin, K.B. and A.B. Oluwo, 2010. Growth and Survival of African Catfish 
(Clarias gariepinus) Larvae Fed Decapsulated Artemia, Live Daphnia, or 
Commercial Starter Diet. The Israeli Journal of Aquaculture-Bamidgeh, 62: 
50-55 
Papatryphon, E and J. H. Soares, 2000. The effect of dietary feeding stimulants on 
growth performance of striped bass, Morone saxatilis, fed-a-plant feedstuff-
based diet. Aquaculture, 185: 329-338 
Person Le Ruyet, J., J.C. Alexandre, L. Thebaud and C. Mugnier, 1993. Marine 
fish larvae: feeding formulated diets or live preys? J. World Aquac. Soc., 24: 
211-224. 
Phan Hồng Cương, 2009. Tình hình sử dụng cá tạp và khả năng sử dụng bột đậu 
nành trong phối chế thức ăn chế biến nuôi cá lóc (Channa striata). Luận văn 
Thạc sĩ. Khoa Thủy sản. Đại học Cần Thơ. 
Qin, J.G., A.W. Fast., D.DeAnda. and R.P. Weidenbach, 1997. Growth and 
survival of larval snakehead (Channa striatus) fed different diets. 
Aquaculture, 148: 105-113. 
Quin, J.G. and A.W.Fast, 1996. Size and feed dependent cannibalism with 
juvenile snakehead Channa striatus. Aquaculture, 144: 313-320 
Refstiea, S., J. J. Ollic and H. Standald, 2004. Feed intake, growth, and protein 
utilisation by post-smolt Atlantic salmon (Salmo salar) in response to graded 
levels of fish protein hydrolysate in the diet. Aquaculture, 239: 331-349. 
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 381-394 Trường Đại học Cần Thơ 
 394
Takii, K., S. Shimeno and M. Takeda, 1986. The effect of feeding stimulants in 
diet on some hepatic enzyme activities of eel. Bulletin of the Japanese Society 
of Scientific Fisheries, 52: 2131-2134. 
Toften, H, A. M. Arnesen and M. Jobling, 2003. Feed intake, growth and 
ionoregulation in Atlantic salmon (Salmo salar L.) smolts in relation to 
dietaryaddition of a feeding stimulant and time of seawater transfer. 
Aquaculture, 217: 647-662. 
Toften, H., E.H. Jorgensen and M. Jobling, 1995. The study of feeding preference 
using radiography: oxytetracy cline as a feeding deterrent and squid extract as 
a feeding stimulant in diets for salmon. Aquaculture Nutrition, 1: 145-149. 
Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương Thùy, 2008. Khả năng sử dụng thức ăn 
chế biến của cá còm (Chitala chitala) giai đoạn bột lên giống. Tạp chí Khoa 
học 2008, 1:134-140. Trường Đại học Cần Thơ. 
Verreth, J. and M.V. Tongeren, 1989. Weaning time in Clarias gariepinus 
(Burchell) larvae. Aquaculture, 83: 81-88. 
Victor., R and B. O. Akapocha, 1992. The biology of snakehead, Channa obscura 
(Gunther), in a Nigerian pond under monoculture. Aquaculture, 101: 17-24 
Walford, J. and T. J. Lam, 1993. Deveplopment of digestive tract and proteolytic 
enzyme activity in seabass (Lates calcarifer). Aquaculture, 109: 187-205. 
Xue. M and Y. Cui, 2001. Effect of several feeding stimulants on diet preference 
by juvenile gibel carp (Carassius auratus gibelio), fed diets with or without 
partial replacement of fish meal by meat and bone meal. Aquaculture, 198: 
281–292. 

File đính kèm:

  • pdfphuong_thuc_thay_the_thuc_an_che_bien_trong_uong_ca_loc_den.pdf