Tài liệu Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành 1930 – 1975 (Phần 2)
Tóm tắt Tài liệu Lịch sử Đảng bộ huyện Long Thành 1930 – 1975 (Phần 2): ... các đội viên Lý, Trung đã gài mìn diệt 5 tên lính Thái ngay ở trong khu vực Nhà Máy. Đối phó với lực lượng vũ trang cách mạng tấn công bất ngờ, tại Long Thành địch đưa vấn đề quân sự vào học đường. Tại trường trung học Long Thành, địch gọi hiệu trưởng Nguyễn Chi Quế đến phát súng để trang b...uyết định trong hội nghị tháng 10-1969 tại căn cứ Suối Quýt, nhưng bị 123 Đồng chí Lưu của đoàn pháo binh 274 đi thư. Thư chưa chuyển đến nơi, vì đói kiệt sức không đương nổi với cơn sốt rét, đồng chí đã lịm xuống bên luồng bẫy của bộ phận quân y K, được đồng chí Thanh đi thăm bẫy bắt gặp cõ...Ký xã Long Phước. Ngày 26-1-1973, địch điều trung đội 56 ra đóng quân tại ngã ba Cầu Xéo, cùng với 1 trung đội dân vệ bung ra đánh phá. Huyện đội Long Thành điều đại đội 2 biệt động (quân số 9 người do đồng chí Đinh Phương Ngọc chỉ huy, đồng chí Quân đại đội phó) cùng với đại đội 21/B của qu...
ừ những cuộc đấu tranh tự phát vì quyền lợi lao động, vì cuộc sống, đội ngũ công nhân cao su ở Long Thành đã không ngừng phát triển cả về số lượng (theo chính sách mở rộng khai thác thuộc địa của tư bản thực dân) và chất lượng với nội dung đấu tranh từ đấu tranh kinh tế chuyển sang kết hợp đấu tranh quyền lợi kinh tế với quyền lợi chính trị. Và khi tổ chức Đảng hình thành lãnh đạo (1944), thì đội ngũ công nhân ở Long Thành cùng với nông dân trở thành lực lượng nòng cốt, chí cốt trong cuộc đấu tranh giành độc lập và giải phóng dân tộc. Long Thành là vùng đất có điều kiện tự nhiên rất phong phú với một hệ thống sông ngòi rất thuận lợi nối thông về Sài Gòn, miền Tây Nam bộ liền với rừng ngập mặn nối thông biển đông. Thổ nhưỡng phì nhiêu, nguồn lợi thủy sản phong phú. Lớp cư dân Việt đầu tiên vào vùng đất mới đã có cái nhìn sâu sắc và chọn vùng đất này làm nơi định cư sinh sống. Hành trang họ mang theo, ngoài những kinh nghiệm về đánh bắt, trồng trọt còn là văn hóa truyền thống dân tộc, đã cùng với cư dân bản địa xây dựng nên những đặc điểm văn hóa riêng trên vùng đất này. Những làng cổ Phước Tân, Bến Gỗ, những ngôi đình xưa có kiến trúc đặc sắc như An Hòa, Phước Lộc; những điệu hò, câu hát, ca dao thể hiện đặc điểm thiên nhiên, sinh hoạt làng xã, tình yêuđể lại những dấu ấn có giá trị về văn hóa dân tộc. Đất lạ, phong thổ tự nhiên hoang sơ đầy hiểm hoạ trên đất liền, dưới sông suối đã gắn kết những con người xa xứ với cư dân bản địa để làm nên truyền thống đoàn kết đồng cam cộng khổ trong việc xây dựng cuộc sống mới và truyền thống đồng tâm, nhất trí trong việc bảo vệ mảnh đất quê hương do chính mình tạo ra. Thực dân Pháp, đế quốc Mỹ trong quá trình xâm lược nước ta nói chung và Long Thành nói riêng, có lẽ cũng đã nghiên cứu những đặc điểm văn hóa lịch sử này. Nhưng có thể với cái nhìn của chủ nghĩa thực dân, thuần tuý về sức mạnh quân sự, vũ trang, chúng nghĩ rằng không khó để đè bẹp sức phản kháng của những người dân địa phương chất phát, một nắng hai sương. Thế nhưng sức mạnh của lòng yêu nước, ý chí đấu tranh giành độc lập của nhân dân không thể là con số 204 cộng như những bài tính số học. Sức mạnh đó được nhân lên gấp bội bằng truyền thống đấu tranh của dân tộc, bằng nổi nhục mất nước, nỗi căm hờn của những người bị buộc phải làm nô lệ trong đêm đen, bằng khát khao tự do, độc lập và quyền làm người, bằng con đường mà Đảng Cộng sản do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, thông qua những con người cách mạng bằng xương bằng thịt mang đến cho nhân dân. Lòng yêu nước, nỗi khát khao độc lập tự do, tính bền bĩ trong đấu tranh của nhân dân Long Thành dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Chi bộ Đảng thị trấn Long Thành, Chi bộ Đảng ở Bình Sơn đã tạo nên sức mạnh của dòng thác cách mạng tháng Tám 1945, cuốn phăng chính quyền tay sai thân Nhật ở Long Thành, đứng lên giành chính quyền về tay mình. Lòng yêu nước, lòng quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng vừa giành được "Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" (Lời kêu gọi của Hồ Chí Minh) của toàn Đảng bộ, quân dân Long Thành là yếu tố quyết định để trong một thời gian ngắn, những con người chưa từng nắm chính quyền, những con người vừa buông cày, buông dao cạo, bỏ bút nghiên bổng chốc trở thành những chiến sĩ kiên cường, mưu trí, sáng tạo trong đấu tranh. Những yếu tố đặc điểm đó cùng đã cảm hóa, giác ngộ biết bao con người từ "những hảo hán", "anh hùng cá nhân" trở thành những nhân tố tích cực trong kháng chiến, để từ đó hình thành nên đội quân cách mạng có kỷ luật và kỹ thuật nâng cao, đủ sức làm nên những thắng lợi lớn: Đánh giao thông, phá hoại kinh tế địch, đánh đồn bót địch Lòng yêu nước, mục tiêu giành độc lập để không quay lại cảnh đời nô lệ, tủi nhục dưới chế độ thực dân hơn 80 năm (kể từ khi Pháp xâm lược nước ta 1858 đến 1945), đã cố kết những người nông dân tay lấm chân bùn, những người công nhân cao su trong "địa ngục trần gian" của tư bản thực dân thành bức tường thành ngăn chận bước chân xâm lược của quân viễn chinh Pháp. Lòng yêu nước đã cố kết toàn dân thành một mặt trận yêu nước rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân bằng những hình thức kết đoàn sinh động, sáng tạo xây dựng nên hậu phương tại chỗ vững mạnh, nguồn nhân lực dồi dào, nguồn vật lực không bao giờ cạn, nguồn thông tin vô tận để kháng chiến có thể đối phó và đánh bại mọi âm mưu kẻ thù. Sức mạnh đó đã xây dựng nên một căn cứ Phước An "Sài Gòn mới", một vùng du kích Tam An, Bình Sơn, một căn cứ "Khu Tây" Phước Thái, điểm tựa cho biết bao chiến công trong 9 năm kháng chiến. Đảng truyền cho nhân dân sức mạnh của mục tiêu lý tưởng giành độc lập,vạch ra con đường đi tới, nhưng chính sức mạnh của nhân dân, quyết tâm của đồng bào, sự yêu thương của mọi tầng lớp trong xã hội với cách mạng đã cổ vũ để tạo nên lớp cán bộ, đảng viên kiên trung, những tổ chức Đảng biết lãnh đạo dám chiến đấu và xả thân vì độc lập dân tộc, không lùi bước trước bất kỳ một khó khăn thử thách nào, có lúc tưởng chừng không vượt qua được. Sức mạnh đoàn kết Đảng với Dân làm thất bại mọi âm mưu bình định, âm mưu chia rẽ đánh phá của kẻ thù, làm kiên định ý chí và quyết tâm vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. 205 Phát huy và biết phát huy lòng yêu nước, truyền thống đấu tranh của nhân dân, đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân có cùng mục tiêu lý tưởng chiến đấu; xây dựng Đảng vững mạnh từ cơ sở lấy mục tiêu đấu tranh làm đầu; đào tạo cán bộ, chiến sĩ trung kiên từ trong thực tiễn chiến đấu gắn bó máu thịt với nhân dân trong kháng chiến chống Pháp là những bài học mà Đảng bộ Long Thành rút ra từ thực tế chiến trường ở địa phương để có thể vận dụng trong cuộc đấu tranh trường kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược tiếp theo. * Tiễn chân những người con thân yêu lên đường tập kết ra miền Bắc theo tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, chờ nhau trong hai năm xum họp không ngờ trở thành 20 năm, bởi sự lật lọng và dã tâm xâm lược miền Nam của đế quốc Mỹ và tay sai. Cuộc chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, vì "Bắc Nam xum họp" của Đảng bộ, quân và dân Long Thành trãi qua nhiều giai đoạn chiến tranh ác liệt đầy gian khổ và hi sinh, mất mát to lớn. Bởi kẻ thù của Đảng bộ và quân dân Long Thành trong hơn 21 năm kháng chiến thâm độc hơn; giàu tiềm năng kinh tế, quân sự hơn; thủ đoạn đánh phá vừa tàn bạo, dã man, nhưng lại được che đậy bằng những mỹ từ vì "chính nghĩa quốc gia", vì "tự do dân chủ", vì "cộng đồng phát triển", vì "người cày có ruộng" Sư hi sinh của Đảng bộ và quân dân Long Thành trong 21 năm kháng chiến không thể tính bằng những thiệt hại vật chất cụ thể, bằng những người đã vĩnh viễn ra đi, mà đó là tổng hợp những nỗi đau và hi sinh mất mát của chiến tranh phi nghĩa do đế quốc và tay sai gây ra: Nỗi đau của biết bao người bị thương tật vì những đòn tra tấn dã man của kẻ thù trong các trại tù, trong đó nhiều người không còn trở lại, thậm chí không tìm được nơi an nghỉ; nỗi đau của biết bao gia đình, người mẹ, người cha đến “bốn lần tiễn con đi” mà không thấy trở về; nỗi đau của gia đình ly tán vì chính sách chia rẽ của kẻ thù; nỗi đau của biết bao trẻ thơ, người vợ mỏi mòn chờ người thân trở về sau cuộc kháng chiến trong tuyệt vọng; nỗi đau của biết bao gia đình phải gánh chịu những di chứng của chất độc hóa học mà kẻ thù rải xuống khắp làng xóm nông thôn Nỗi đau chất chứa làm bùng lên ý chí căm thù xâm lược, nung nấu tinh thần quyết tâm, mài sắc thêm vũ khí tinh thần của nhân dân. Nhân dân Long Thành dù ở vùng căn cứ kháng chiến, vùng ven du kích hoặc trong vòng vây kẻ thù với hệ thống khu trù mật, ấp chiến lược, mỗi người một hoàn cảnh, không gian khác nhau, nhưng có điểm chung là lòng yêu nước, là sự chán ghét chiến tranh, khát khao hòa bình và độc lập. Đó chính là cơ sở, là điều kiện để Đảng bộ Long Thành thông qua đường lối kháng chiến, thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình triển khai kế hoạch vận động quần chúng, tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ bằng nhiều hình thức để xây dựng cơ sở vững chắc, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh trong nhân dân, một yếu tố có tính chất quyết định cho công tác xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng ở địa phương. Long Thành là một trong những chiến trường trọng điểm của Mỹ nguỵ ở miền Đông nói chung và Biên Hòa nói riêng, nơi địch xác định là một trong cửa 206 ngõ quan trọng, hành lang đảm bảo việc triển khai quân đội và những phương tiện chiến tranh với nhiều căn cứ quân sự lớn như Nước Trong, Thành Tuy Hạ, căn cứ huấn luyện Thiết giáp, bộ binh, biệt kích, gắn liền với Tổng kho Liên hợp Long Bình - kho hậu cần lớn nhất của quân Mỹ ở miền Nam; là lá chắn bảo vệ Biên Hòa và Sài Gòn với nhiều cơ quan đầu não của Mỹ ngụy ở miền Đông Nam bộ và Nam bộ. Thực hiện nhiệm vụ "tìm diệt" cách mạng ở Long Thành không chỉ có quân viễn chinh Mỹ, mà còn quân chư hầu Thái Lan và Úc. Chiến đấu trên chiến trường gian khổ ác liệt, Long Thành không chỉ có quân dân và Đảng bộ Long Thành, mà có sự phối hợp và hỗ trợ đắc lực, tích cực của nhiều đơn vị quân chủ lực của Quân khu miền Đông (tiểu đoàn 800, trung đoàn 4, cuối cuộc chiến tranh còn có quân đoàn 2 với hai sư đoàn chủ lực 325, 304); vũ trang của tỉnh Biên Hòa (tiểu đoàn 240); vũ trang phân khu 4; đoàn đặc công Rừng Sác (Đoàn 10), Đặc công 116 của Miền. Sự phối hợp giữa các lực lượng kháng chiến của địa phương với các lực lượng vũ trang của cấp trên; sự lãnh đạo, chỉ đạo và tăng cường, bổ sung cán bộ của tỉnh, khu, cộng với hệ thống tổ chức đảng cơ sở (công khai, bí mật) và hệ thống cơ sở cách mạng được tổ chức bí mật, đều khắp; với tinh thần bám trụ kiên cường của cán bộ, đảng viên; với cách đánh ba mũi giáp công (chính trị, vũ trang, binh vận) được vận dụng linh hoạt thích hợp ở từng thời điểm, chiến trường cụ thể, đã góp phần xây dựng nên thế chiến tranh nhân dân ở Long Thành, tạo thành sức mạnh tổng hợp làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù. Chiến tranh, đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ và tay sai là sự thử thách khốc liệt của Đảng bộ, quân dân Long Thành về cả tinh thần, ý chí, sự quyết tâm, lòng dũng cảm và sự sáng tạo trong cách đánh làm nên thế trận chiến tranh nhân dân ở địa phương. Trong đó tiến công vũ trang kết hợp với nổi dậy của quần chúng; kết hợp hai lực lượng bên trong bên ngoài, lực lượng tại chỗ với lực lượng chủ lực; phối hợp nhuần nhuyễn công tác binh địch vận nêu cao chính nghĩa của chiến tranh giải phóng dân tộc với tấn công chính trị cô lập phân hóa kẻ thù, tấn công vũ trang diệt sinh lực, phương tiện chiến tranh, diệt ác phá kìm, mở rộng vùng làm chủ và tranh chấp, thể hiện rõ nghệ thuật đấu tranh "Biết thắng từng bước cho đúng" mà Đảng bộ Long Thành đã vận dụng trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của Đảng bộ và quân dân Long Thành trong 30 năm, trong đó nổi lên nghệ thuật biết phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện là di sản lịch sử quý báu, là hành trang để Đảng bộ và quân dân Long Thành bước vào cuộc đấu tranh đầy cam go thử thách: Huy động sức mạnh tổng hợp toàn dân khắc phục hậu quả chiến tranh, cùng cả nước đi lên thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 207 208 PHỤ LỤC I. GIA ĐÌNH CÓ BỐN LIỆT SĨ STT Họ tên cha Họ tên mẹ Họ và tên liệt sĩ Quê quán 01 Phan Văn Đô Lê Thị Ngưu Phan Văn Lự Phan Văn Phố Phan Thị Hương (Nự) Phan Văn Phe Long Phước 02 Nguyễn Văn Nhã Nguyễn Thị Hường Nguyễn Văn Nhã Nguyễn Văn Dẫu Nguyễn Văn Dũng Nguyễn Văn Trung Long Tân 03 Trần Văn Ngời Bùi Thị Điểm Trần Văn Dừa Trần Văn Phong Bùi Văn Kiệm Trần Văn Đạt Lộc An 04 Nguyễn Văn Thu Võ Thị Tràng Nguyễn Văn Hà Nguyễn Văn Nhật Nguyễn Văn Bửu Nguyễn Thị Lan Nguyễn Văn Tuấn Bình Sơn 209 II. GIA ĐÌNH CÓ 3 CON LIỆT SĨ STT Họ tên cha Họ tên mẹ Họ và tên liệt sĩ Quê quán 01 Nguyễn Văn Hoan Huỳnh Thị Biết Nguyễn Văn Đạo Nguyễn Văn Cung Nguyễn Văn Kỳ Tam An 02 Võ Văn lạc Trần Thị Duy Trần Văn Kỳ Trần Văn Mảng Trần Văn Lượt Tam An 03 Hồ Văn Trấn Lương Thị Bạch Hồ Văn Lưu Hồ Văn Nha Hồ Văn Quận Tam An 04 Nguyễn Văn Triệu Lê Thị Trơn Nguyễn Văn Lợi (anh) Nguyễn Văn Lợi (em) Nguyễn Văn Góp Tam An 05 Võ Văn Đăng Huỳnh Thị Ngôn Võ Văn Đăng Võ Văn Sơn Võ Văn Thanh Tam An 06 Lê Văn Dũng Bùi Thị Hương Lê Văn Mùi Lê Văn Dậy Lê Văn Khê Tam An 07 Nguyễn Thị Nhung Trần Thị Huệ Nguyễn Thanh Tùng Nguyễn Văn Sán Nguyễn Văn Phong Bình Sơn 08 Nguyễn Văn Chứ Cao Thị Soi Nguyễn Văn Hải Nguyễn Văn Nghĩa Bình Sơn 210 Nguyễn Văn Lý 09 Nguyễn Văn Trực Trần Thị Nga Nguyễn Văn Thung Nguyễn Văn Đông Nguyễn Văn Cứng Bình Sơn 10 Nguyễn Văn Cho Phạm Thị Dinh Phạm Văn Điền Phạm ThịSen Phạm Thị Hương Lộc An 11 Nguyễn Văn Do Nguyễn Thị Thàng Nguyễn Văn Mạnh Đoàn Văn Sơn Đoàn Văn Khá Lộc An 12 Nguyễn Văn Chuổi Võ Thị Ba Nguyễn Văn Chuổi Nguyễn Văn Sơn Nguyễn Văn Bình Long An 13 Đinh Văn Tiêm Nguyễn Thị Vận Đinh Văn Huệ Đinh Văn Long Đinh Thị Phương Tam Phước 14 Phạm Hữu Đức Phan Thị Nả Phạm Hữu Đức Phạm Văn Sàng Phạm Văn Nghiên Tam Phước 15 Phạm Văn Cống Đỗ Thị Kệ Phạm Thanh Hùng Phạm Văn Nghĩa Phạm Thị Mót Long Đức 16 Lý Văn Nuôi Lý Thị Sáng Lý Văn Dô Lý Văn Thưởng Lý Văn Dưỡng Long Đức 211 17 Nguyễn Văn Rồi Kim Thị Thâu Nguyễn Văn Không Nguyễn Văn Ngạch Nguyễn Văn Có An Phước 18 Huỳnh Văn Gia Trần Thị Ngài Huỳnh Văn Già Huỳnh Văn Ái Huỳnh Văn Nam An Phước 19 Nguyễn Văn Sự Ngô Thị Tư Nguyễn Văn Sự Nguyễn Văn Kết Nguyễn Văn Nhựt Long Hưng III. GIA ĐÌNH CÓ HAI ĐỜI LÀ LIỆT SĨ Số TT Họ tên mẹ vợ liệt sĩ Họ tên cha liệt sĩ Quế quán 1 2 3 4 5 6 7 8 Huỳnh Thị Bưởi Phan Thị Nả Đoàn Thị Tuyết Trần Thị Hóa Lương Thị Cây Nguyễn Thị Thê Trần Phòng Trần Thị Huấn Bùi Văn Phải Phạm Hữu Đức Đoàn Văn Sấm Trương Văn hiến Trần Văn Cuốc Phạm Văn Giàng Hồ Văn Bài Hoàng Văn Nhu An Phước Tam Phước Phước Thái Phước Thái Tam An Tam An Tam An Bình Sơn IV. GIA ĐÌNH CÓ CON ĐỘC NHẤT LÀ LIỆT SĨ STT Họ và tên cha Họ và tên mẹ Quê quán 01 02 03 04 Nguyễn Văn Ngay Lê Văn Trợ Trần Văn Chửng Nguyễn Văn Giái Nguyễn Thị Lẹt Nguyễn Thị Lụa Nguyễn Thị Cây Lương Thị Dễ Tam An Tam An Tam An Tam An 212 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 Phạm Văn Hỷ Nguyễn Văn Vàng Nguyễn Văn Đường Hồ Văn Phuông Nguyễn Văn Tư Phạm Thị Mười Trần Văn Hải Nguyễn Văn Giỏi Lê Văn Lương Nguyễn Văn Cam Trần Văn Tý Đặng Văn Chất Phạm Văn Lành Lý Văn Thành Nguyễn Văn Thanh Lê Thị Da Nguyễn Thị Liên Trần Thị Ngô Nguyễn Thị Ba Lả Thị Công Nguyễn Thị Vàng Lê Thị Dua Nguyễn Thị Bưng Lê Thị Tấn Nguyễn Thị Nớt Cao Thị Diện Nguyễn Thị Đông Đinh Thị Xúy Quảng Thị Đồng Nguyễn Thị Năm Đồng Thị Sáu Nguyễn T Thanh Vân Bình Sơn Bình Sơn Long Phước Long Phước An Hòa An Hòa Lộc An Lộc An Lộc An Long Đức Bình Sơn Phước Thái Bình Sơn Phước Thái Phòng TBXH Huyện V. THỐNG KÊ VỀ KHEN THƯỞNG DANH HIỆU SỐ LƯỢNG - Huân chương độc lập - Huân chương lao động - Lẵng hoa được bác Tôn tặng - Huân chương kháng chiến hạng nhất - Huân chương kháng chiến hạng hai - Huân chương kháng chiến hạng ba - Huân chương kháng chiến hạng nhất - Huân chương kháng chiến hạng hai - Bằng khen do Hội đồng Bộ trưởng tặng 93 03 02 379 464 1553 228 183 124 213 Tên xã Huân chương CS giải phóng Huân chương Chiến thắng Huân chương Chiến thắng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang Hạng Nhất Hạng hai Hạng ba Long Phước Tân Hiệp Phước Tân Phước Thái Tam An Bình Sơn An Hòa Long Hưng Long Đức Tân Thành Lộc An Thị Trấn Tam Phước Long An An Lợi Phước Nguyên 33 01 02 16 46 25 02 03 07 01 23 18 17 19 08 11 42 03 03 24 54 58 03 07 12 02 19 27 25 28 13 26 54 05 05 37 67 64 06 07 16 05 24 36 34 36 26 31 15 04 07 04 23 21 02 01 09 01 13 19 17 16 09 12 46 06 11 32 58 46 09 03 15 03 21 23 27 23 12 16 29 12 14 36 42 38 12 06 18 07 18 24 31 36 15 23 215 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tập I, II, III. NXB sách giáo khoa Mác-Lênin. 2. Thư vào Nam – Đồng chí Lê Duẩn. Nhà Xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1985. 3. Đại thắng mùa xuân – Đại tướng Văn Tiến Dũng. NXB Quân đội nhân dân – 1976. 4. Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và qui luật hoạt động của Mỹ ngụy trên chiến trường B2 của Phòng tổng kết địch thuộc ban tổng kết chiến tranh B2 – 1984. 5. Đồng Nai 30 năm chiến tranh giải phóng. NXB Đồng Nai – 1986. Kỷ niệm chiến thắng sân bay Biên Hòa. NXB Đồng Nai - 1984. 6. Tổng kết chiến dịch Bình Giã, Phòng lịch sử quân sự quân khu 7 – 1984. 7. Chiến khu Rừng Sác – Lương Văn Nho. NXB Đồng Nai - 1982. 8. Sơ thảo giáo trình lịch sử quân sự tập I, tập II. Viện lịch sử quân sự Việt Nam thuộc Bộ quốc phòng. 9. Mấy vấn đề về nghiên cứu và biên soạn lịch sử quân sự. Viện lịch sử quân sự Việt Nam thuộc Bộ quốc phòng. 10. Tư liệu bản thảo lịch sử Đoàn 10. 11. Tư liệu lưu trữ của phân viện lịch sử quân sự thuộc viện lịch sử quân sự Việt Nam. 12. Tư liệu lưu trữ phòng khoa học lịch sử quân sự quân khu 7. 13. Tư liệu lưu trữ của phòng lịch sử quân sự tỉnh Đồng Nai. 14. Tư liệu lưu trữ của Ban chỉ huy quân sự huyện Long Thành. 15. Những ngày sụp đổ của chính quyền Sài Gòn đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng. 16. Lịch sử Việt Nam của Đào Duy Anh. NXB Hà Nội - 1956. 17. Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hòai Đức. NXB Khoa học XH – Hà Nội 1969. 18. Đại Nam Nhất Thống Chí. NXB Khoa học XH Hà nội 1969. 216 19. Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. NXB Giáo dục – Hà Nội 1962. 20. Lịch sử Việt Nam trước thế kỷ thứ 10 quyển I tập I. NXB Giáo dục 1977. 21. Bộ mặt thật CIA. NXB Quân đội nhân dân 1976. 22. Hào khí Đồng Nai – Ca Văn Thỉnh – NXB thành phố Hồ Chí Minh 1983. 23. Biên Hòa sử lược tập I, tập II của Lương Văn Lưu. 24. Trên đường Nam Tiến – Tạp chí sử địa – trung tâm học liệu xuất bản – 1971. 25. Hành trình về thời đại Hùng Vương dựng nước của Lê Văn Hảo. NXB Thanh niên 1982. 26. Gương người xưa – Tế Xuyên. NXB Khai Trí 1956. 27. Cuộc tháo chạy tán loạn – Franksneep. NXB TP. HỒ CHÍ MINH. 28. Hai mươi năm qua – Đoàn Thêm. Nhà in Nam Chi Tùng thư. 29. Những năm tháng khó quên - Đoàn Thêm. Nhà in Nam Chi Tùng thư. 30. Sài Gòn năm xưa – Vương Hồng Sên. Nhà sách Khai Trí. 31. Việt Nam sử lược – Trần Trọng Kim, Trung tâm học liệu xuất bản 1971. 32. Lịch sử phong trào công nhân cao su Việt Nam (1996-1990). NXB Trẻ thành phố Hồ Chí Minh 1993. 33. Lich sử giai cấp công nhân ở Đồng Nai. Trần Quang Toại (chủ biên). NXB Đồng Nai 2004. 34. Lịch sử Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai. Trần Quang Toại (chủ biên). NXB Đồng Nai 2005. 35. Lịch sử Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Đồng Nai. Trần Quang Toại (chủ biên). NXB Đồng Nai 2006. 36. Lịch sử Liên Trung đoàn 301-310 Thủ Biên. NXB Quân đội nhân 2007. 37. Biên Hòa – Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển. NXB Đồng Nai 1998. 38. Địa chí tỉnh Đồng Nai. NXB Đồng Nai 2002. 39. Lịch sử Đặc công miền Đông Nam bộ (1945-1975). Trần Quang Toại. NXB Quân đội nhân dân 1997. 217 40. Lịch sử Tiểu đoàn 800 Quân khu miền Đông. (bản thảo Trần Quang Toại). 41. Lịch sử Đảng bộ huyện Đất Đỏ. Trần Quang Toại. NXB Đồng Nai 2006. 42. Lịch sử Đảng bộ huyện Long Điền. Trần Quang Toại. NXB Đồng Nai 2007. 218 219
File đính kèm:
- tai_lieu_lich_su_dang_bo_huyen_long_thanh_1930_1975_phan_2.pdf