Tuyển tập Tâm lý học - Phạm Minh Hạc

Tóm tắt Tuyển tập Tâm lý học - Phạm Minh Hạc: ...ành vi không những bị quy định bởi những điều kiện bên ngoài, mà còn bị quy định bởi các điều kiện bên trong (đặc điểm nhân cách) của người ấy. Thật là luẩn quẩn! Đó là một luận điểm chứa đựng xu thế đưa Tâm lý học rơi vào thuyết môi trường hoặc thuyết duy linh. Phương pháp tiếp cận hoạt động ..., trong tương lai sẽ phù hợp với công việc gì, nếu xã hội cần thông tin về điều đó. Con người có hành vi được nhà hành vi nghiên cứu không còn là "người chủ của tự nhiên nữa, mà là người thực hiện ngoan ngoãn". Nói cách khác, con người trong thuyết hành vi "trước hết là một tồn tại thực tiễn và...ộng nào của chủ thể, xem các quá trình tâm lý ấy tồn tại, phát triển trong hoạt động nào. Ví dụ: Trí nhớ không còn xem như sự thể hiện của các kết hợp các đường liên hệ tạm thời trong vỏ não. Cũng không phải nhớ là bộc lộ những cái gì gắn bó với bản năng cơ thể không được thỏa mãn. Người ta ghi...

pdf1476 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 152 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tuyển tập Tâm lý học - Phạm Minh Hạc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 nhau:
về mặt chức năng, ngôn ngữ tự kỷ trung tâm có chức
năng trí tuệ như ngôn ngữ bên trong; về mặt cấu trúc,
nó gần tiến tới ngôn ngữ bên trong; về mặt nguồn gốc
phát sinh, bắt đầu vào tuổi học sinh ngôn ngữ tự kỷ
trung tâm chuyển dần thành ngôn ngữ bên trong. Từ
đây ta có thể lấy ngôn ngữ tự kỷ trung tâm làm vật liệu
để nghiên cứu ngôn ngữ bên trong.
Vưgốtxki quan niệm "... ngôn ngữ tự kỷ trung
tâm là một trong những hiện tượng của quá trình
chuyển hoá các chức năng tâm lý bên ngoài vào các
chức năng tâm lý bên trong, tức là từ các dạng ý thức
hoạt động tập thể xã hội của trẻ em chuyển sang các
chức năng cá thể của trẻ". Đây là quy luật chung của
sự hình thành các chức năng tâm lý cấp cao. Ông gọi
ngôn ngữ tự kỷ trung tâm là ngôn ngữ cho bản thân và
cho rằng "ngôn ngữ cho bản thân nảy sinh ra bằng
cách phân hoá chức năng của ngôn ngữ cho người
khác, chức năng này từ đầu đã mang tính chất xã hội.
Không phải là xã hội hoá từ ngoài dần dần đi vào trẻ,
mà quá trình cá thể hoá dần dần nảy sinh trên cơ sở
tính xã hội nội tại của đứa trẻ là đại lộ chính của sự
phát triển của. Đây là một kết luận hết sức quan trọng
trong lý thuyết phát triển tâm lý do Vưgốtxki đúc kết.
Với cách nhìn đó, ông thấy ngôn ngữ tự kỷ
trung tâm có chức năng rất đặc trưng là "chức năng
độc lập, âm điệu độc lập, và chỉ có phần nào là đi theo,
phụ thuộc; đó là chức năng phục vụ mục đích định
hướng trí tuệ, nhận biết, khắc phục khó khăn và cản
trở, suy tính và tư duy; đó là ngôn ngữ cho chính mình,
phục vụ thực sự nhất cho tư duy của trẻ". Chính ngôn
ngữ đó chuyển dần thành ngôn ngữ bên trong.
Vưgốtxki viết: "Theo quan điểm của chúng tôi, ngôn
ngữ tự kỷ trung tâm là ngôn ngữ bên trong đứng về
chức năng tâm lý, và là ngôn ngữ bên ngoài đứng về
cấu trúc của nó". Ngôn ngữ tự kỷ trung tâm tách biệt
khỏi ngôn ngữ bên ngoài và giảm dần phần âm thanh,
chuyển thành ngôn ngữ bên trong.
Vưgốtxki cùng với cộng sự làm một số thực
nghiệm để thấy rõ hơn bản chất của ngôn ngữ tự kỷ
trung tâm, và từ đó đi sâu vào ngôn ngữ bên trong.
Theo ông, có thể nêu lên ba đặc điểm của ngôn ngữ
tự kỷ trung tâm:
1. Đó là độc thoại tập thể, gắn liền với tập thể
của trẻ. Bây giờ đặt trẻ vào một tập thể không quen
biết, hoặc chỉ để chúng với người thực nghiệm, rồi
ngồi một mình và làm một việc gì đó một mình thì ngôn
ngữ tự kỷ trung tâm giảm xuống chỉ còn bằng 1/6 khi
trẻ ở trong một tập thể nào đó.
2. Độc thoại đó đi kèm với ảo giác thông hiểu
khi trẻ có ngôn ngữ tự kỷ trung tâm ở trong nhóm trẻ
bình thường, như Piagiê đã thực nghiệm. Bây giờ nếu
cho một bé bình thường vào chơi với một nhóm trẻ
câm hay trẻ nói tiếng nước ngoài, thì trong trường hợp
đầu xuất hiện ảo giác thông hiểu, trong trường hợp thứ
hai không có ảo giác thông hiểu và tỉ lệ ngôn ngữ tự kỷ
trung tâm giảm xuống còn 1/8 hoặc bằng 0. Điều đó
chứng tỏ rằng không phải ảo giác thông hiểu giảm
xuống thì ngôn ngữ tự kỷ trung tâm tăng lên.
3. Đó là ngôn ngữ mang tính chất ngôn ngữ
bên ngoài. Bây giờ ta thực nghiệm làm giảm và mất
phần âm thanh đi bằng cách thử để trẻ ngồi xa các
bạn hoặc cạnh phòng thí nghiệm có tiếng ồn, không
nghe được tiếng nói của người khác và không nghe
thấy cả tiếng nói của bản thân, hoặc ra lệnh cho trẻ
không được nói to, mà chỉ được nói thầm thôi. Kết quả
là ngôn ngữ tự kỷ trung tâm giảm xuống còn 1/5.
Kết quả các thực nghiệm chứng tỏ rằng ngôn
ngữ tự kỷ trung tâm đứng giữa, là nơi quá độ của ngôn
ngữ ngoài và ngôn ngữ trong. Ngôn ngữ trong và ngôn
ngữ ngoài là hai mặt của sự thống nhất các chuyển
hoá từ bình diện bên ngoài vào bình diện bên trong
của ngôn ngữ.
Cần phân biệt đối thoại và độc thoại. Đối thoại
có trước độc thoại, đó là hình thái tự nhiên của ngôn
ngữ. Độc thoại có sau và là một hình thái phức tạp
hơn, cao hơn đối thoại. Phần lớn ngôn ngữ trẻ là đối
thoại. Ngôn ngữ độc thoại có các dạng thức là ngôn
ngữ viết và ngôn ngữ bên trong, tuỳ theo chức năng
mà các dạng ngôn ngữ có vốn từ riêng, ngữ pháp
riêng và cấu tạo câu riêng. Ngôn ngữ viết là dạng phát
triển nhất, phức tạp nhất, chính xác hơn - đó là hình
thức ngôn ngữ trọn vẹn.
Ngôn ngữ trong có những đặc điểm sau:
1. Có cấu tạo câu một cách đặc biệt: tựa như
đứt đoạn, từng mẩu một;
2. Có tính vị ngữ một cách tuyệt đối: thường
bỏ chủ ngữ, giữ lại vị ngữ;
3. Có phong cách điện tín. Đôi khi chỉ có vị
ngữ, không có chủ ngữ.
Có thể ngôn ngữ trong là bản nháp ý tưởng
của ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ nói thường ngắn gọn
hơn viết, có ngữ cảnh cụ thể và ngữ điệu mà ngôn ngữ
viết không có, nên phải trình bày đầy đủ (trọn vẹn). Còn
ngôn ngữ bên trong thì rất chú trọng vị ngữ, bao giờ
cũng phải có vị ngữ (vị ngữ tuyệt đối). Nếu nói về mức
độ ngắn gọn, thì ngôn ngữ bên trong ngắn gọn nhất,
sau chuyển lên ngôn ngữ nói rồi đến ngôn ngữ viết (ít
ngắn gọn nhất).
Đối với ngôn ngữ bên trong, cấu tạo câu và
âm thanh giảm xuống đến mức tối thiểu, đơn giản đến
mức tối đa, gần như đã chưng cất. Với ngôn ngữ bên
trong, “hàng đầu là nghĩa của từ. Ngôn ngữ bên
trong chủ yếu sử dụng ngữ nghĩa, chứ không phải
phát âm. Ở đây tính độc lập tương đối giữa nghĩa của
từ và mặt âm thanh của từ được bộc lộ rất rõ rệt",
Vưgốtxki khẳng định như vậy. Từ đó ông đã đi vào
nghiên cứu mặt ngữ nghĩa của ngôn ngữ bên trong và
thấy nó có ba đặc điểm như sau:
1. Đặc điểm chủ yếu của ngôn ngữ bên trong
là ý chiếm ưu thế hơn nghĩa.
Vấn đề quan hệ giữa ý, nghĩa và từ là vấn đề
phức tạp, được trình bày ở nhiều chỗ trong tập sách
này. Trong ngôn ngữ nói ta đi từ ý của từ tới nghĩa.
Trong ngôn ngữ bên trong ta thấy ý được coi trọng hơn
nghĩa, câu hơn từ, toàn bộ ngữ cảnh hơn câu. Đó là
luật thường trực của ngôn ngữ bên trong.
2. Đặc điểm kết dính (agglutinatio - chữ La
tinh): cả một nhóm từ tổng hợp, gộp lại thành một từ
để chỉ một khái niệm phức tạp.
3. Đặc điểm tập hợp và thấm nhập các nghĩa
vào một dòng và các ý vào một dòng. Hai dòng này
diễn ra vừa riêng rẽ vừa ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
Trong ngôn ngữ trong, theo đặc điểm thứ nhất đã trình
bày ở trên, ý của từ là chủ yếu, đậm đặc hơn trong
ngôn ngữ ngoài. Ở ngôn ngữ so với các ý thấm nhập
vào nhau, ý thức tựa như sau đó mới xuất hiện trong ý.
Một từ ở trong ngôn ngữ trong, chứa đựng cả ý của các
từ trước nó lẫn cả ý của các từ sau nó, nhờ vậy phạm
vi nghĩa mở rộng của từ ra đến gần như vô hạn, tạo
nên một nội dung ý khổng lồ chảy vào một bình chỉ
chứa ở một từ hợp nhất trong ngôn ngữ bên trong.
Chính vì vậy đó là ngôn ngữ cho bản thân, chứ không
phải ngôn ngữ để thông báo. Cấu tạo ý của ngôn ngữ
bên trong rất đặc thù và do đó chức năng của ngôn
ngữ này cũng rất đặc thù. Tất nhiên ta cũng thấy và
thường nói: hiểu ý nhau. Có được như vậy là vì cuộc
sống của những người hiểu ý nhau có cùng một sự
biện chứng. Phần lớn ngôn ngữ trong có ý, tức là có
nghĩa riêng của từng người.
Tóm lại, ngôn ngữ trong là một chức năng
hoàn toàn riêng biệt, hoàn toàn khác với ngôn ngữ
ngoài, cho nên Vưgốtxki viết: "Chúng ta có quyền coi
ngôn ngữ trong là bình diện bên trong đặc biệt của tư
duy ngôn ngữ và giữ vai trò của mối quan hệ cơ động
trung gian giữa ý tưởng và từ". Quan hệ giữa hai loại
ngôn ngữ này là một sự chuyển hoá rất phức tạp. Về
mối quan hệ này ông viết: "Chúng tôi không đồng ý với
ai coi ngôn ngữ trong là cái đi trước ngôn ngữ ngoài
hay như mặt bên trong của ngôn ngữ ngoài. Nếu ngôn
ngữ ngoài là quá trình chuyển ý tưởng vào từ, quá trình
vật chất hoá và khách quan hoá ý tưởng, thì ở đây ta
quan sát thấy một quá trình xảy ra theo hướng ngược
lại, quá trình tựa như đi từ ngoài vào trong, quá trình
ngôn ngữ chuyển thành ý tưởng... Ngôn ngữ trong vẫn
cứ là ngôn ngữ, tức là ý tưởng gắn với từ. Nhưng nếu
trong ngôn ngữ ngoài ý tưởng biến hoá vào từ, thì
trong ngôn ngữ trong từ mất đi để sinh ra ý tưởng. Ở
một mức độ đáng kể, ngôn ngữ trong là tư duy bằng
các nghĩa thuần tuý... Ngôn ngữ trong là thành tố cơ
động giữa từ và ý tưởng. Ý tưởng là một bình diện mới
của tư duy ngôn ngữ, ý tưởng nối cái này với cái kia,
xác lập các mối quan hệ và nhằm giải quyết một
nhiệm vụ nào đó. Đó là một dòng chảy, một sự vận
động dòng chảy. Sự vận động của ý tưởng không trùng
khớp trực tiếp với sự phát triển ngôn ngữ kèm theo.
Đơn vị của ý tưởng và đơn vị của ngôn ngữ không
trùng với nhau, chúng thống nhất, nhưng không đồng
nhất. Đôxtôépxki, nhà văn Nga vĩ đại, đã có nhận xét:
có trường hợp ý tưởng không chuyển ra thành từ. Ví
dụ, tiếng nói vọng của các vai kịch bao giờ cũng ngầm
ẩn chứa một ý nào đó (gọi là dưới câu). Ý tưởng
không trùng khớp trực tiếp với sự biểu đạt ngôn ngữ. Ý
tưởng không cấu tạo bởi các từ riêng rẽ như ngôn
ngữ. Ta thấy các diễn giả thường phát triển một ý có
khi đến vài phút hoặc lâu hơn. Một khi ý tưởng đã được
hình thành ở trong đầu như một cái chỉnh thể, thì khi
xuất hiện nó không xuất hiện dần dần theo từng đơn vị
riêng rẽ như ngôn ngữ. Có thể nói rằng: cái tồn tại
đồng thời trong ý tưởng lại được trình bày theo một
trình tự nhất định trong ngôn ngữ. Vưgốtxki viết: "Có thể
ví ý tưởng như một đám mây kéo đến một cơn mưa từ.
Vì vậy, quá trình chuyển hoá từ ý tưởng sang từ là một
quá trình cực kỳ phức tạp của sự tách ý và chuyển nó
vào từ. Con đường từ ý tưởng đến từ là con đường
chạy qua nghĩa".
Trong quá trình phân tích các bình diện bên
trong của tư duy ngôn ngữ thì ý tưởng không phải là
công đoạn cuối cùng. Vấn đề dẫn đến chỗ phải nghiên
cứu động cơ của tư duy. Một cách đặt vấn đề rất toàn
diện cũng như ở một số phần khác trong tập sách này,
tác giả đã chỉ ra mối liên quan mật thiết giữa tư duy và
tình cảm, lên án thuyết duy lý thuần lúy.
Một lần nữa Vưgốtxki lại nhấn mạnh nguyên
tắc gián tiếp trong sự vận hành các chức năng tâm lý.
Ông viết: "Các dấu hiệu không chỉ đứng trung gian
giữa các ý tưởng, mà đứng cả bên trong nghĩa của các
từ. Vấn đề là ở chỗ không thể có giao lưu trực tiếp giữa
các ý thức, cả về mặt vật lý lẫn về mặt tâm lý. Ý thức
giao lưu với nhau chỉ bằng con đường gián tiếp. Con
đường gián tiếp bên trong: của ý tưởng lúc đầu thông
qua các nghĩa, rồi sau thông qua các từ. Vì vậy không
bao giờ có ý tưởng bằng nghĩa trực tiếp của từ. Nghĩa
đứng trung gian trên con đường ý tưởng tiến tới biểu
đạt bằng ngôn từ, tức là con đường từ ý tưởng đến từ
không phải là con đường thẳng, mà là con đường gián
tiếp ở bên trong".
Từ đó ta mới hiểu hơn quan hệ của từ và ý
thức, cũng như quan hệ của tư duy và từ Kết thúc tác
phẩm vĩ đại Tư duy và ngôn ngữ, tác phẩm tổng kết cả
cuộc đời nghiên cứu tâm lý học rất ngắn ngủi nhưng
đầy sáng tạo đã trở thành bất diệt của mình, Vưgốtxki
viết: "ý thức tự phản ánh vào từ như mặt trời trong giọt
nước. Đối với ý thức, từ là một tiểu thế giới đối với
hoàn cầu, như một tế bào sống đối với toàn bộ cơ thể,
như một nguyên tử đối với cả vũ trụ bao la. Từ chính là
một thế giới nhỏ của ý thức. Một từ được đem ra suy
nghĩ chính là kính hiển vi soi vào ý thức con người".
Created by AM Word2CHM
TUYỂN TẬP TÂM LÝ HỌC
I - Tác giả
1. Nhập môn tâm lý học. NXB Giáo dục, Hà
Nội, 1980.
2. Giáo dục và khoa học giáo dục. NXB Giáo
dục, Hà Nội, 1986.
3. Hành vi và hoạt động. NXB Giáo dục, Hà
Nội, 1989.
4. Góp phần đổi mới tư duy giáo dục. NXB
Giáo dục, Hà nội, 1991.
5. Một số vấn đề tâm lý học đại cương. NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1992.
6. Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới.
KX.07, Hà Nội, 1994.
7. Giáo dục con người hôm nay và ngày mai.
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1995.
SÁCH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
8. Phát triển văn hoá, giữ gìn bản sắc dân tộc,
tiếp thụ tinh hoa nhân loại. NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1996.
9. Mười năm đổi mới giáo dục. NXB Giáo dục,
Hà Nội, 1996.
10. Phát triển giáo dục - phát triển con người
phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1996.
11. Tâm lý học Vưgốtxki. T.1. NXB Giáo dục,
Hà Nội, 1996.
12. Giáo dục nhân cách, đào tạo nhân lực.
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
13. Giáo dục Việt Nai trước ngưỡng cửa thế
kỷ XXI. NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1999, 2002.
II - Đồng tác giả và tổng chủ biên
14. Tâm lý học. Sách giáo khoa Đại học Sư
phạm. NXB Giáo dục, Hà Nội, 1970.
15. Tâm lý học. Sách giáo khoa Đại học Sư
phạm. NXB Giáo dục, Hà Nội, 1987, 1988.
16. Tâm lý học. Sách giáo khoa Cao đẳng Sư
phạm. NXB Giáo dục, Hà Nội, 1981, 1985.
17. Tâm lý học. Sách giáo khoa Trung học Sư
phạm. NXB Giáo dục, Hà Nội, 1987.
18. Sơ thảo lịch sử giáo dục Việt Nam. NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1992.
19. Về phổ cập giáo dục. NXB Giáo dục, Hà
Nội, 1984.
20. 50 năm diệt giặc dốt. NXB Giáo dục, Hà
Nội, 1995.
21. Vấn đề con người trong sư nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1996.
22. Tổng kết 10 năm (1990-2000) xoá mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học. NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2000.
23. Giáo dục Nhật Bản. NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001.
24. Hiện đại hoá giáo dục Nhật Bản. NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
III - Đồng chủ biên
25. Triển khai Nghị quyết Đại hội IX trong lĩnh
vực khoa giáo. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
26. Tiến tới kiện toàn hệ thống cơ quan quản
lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở Việt Nam. NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
27. Nghiên của con người. Niên giám số 1,
2001. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001.
28. Giáo dục thế giới bước vào thế kỷ XXI.
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
IV - Sách tiếng Anh (đồng tác giả và chủ
biên)
29. 45 năm phát triển giáo dục Việt Nam. NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1990.
30. Giáo dục ở Việt Nam. NXB Giáo dục, Hà
Nội, 1991.
31. Giáo dục ở Việt Nam: Hiện trạng, vấn đề
và các chính sách. Bộ Giáo dục và Đào tạo 1998.
32. Giáo dục cho mọi người ở Việt Nam: Các
thách thức hiện nay và tương lai, Bộ Giáo dục và Đào
tạo, 1994.
33. Sự phát triển giáo dục ở Việt Nam, Hà
Nội, 1994.
34. Giáo dục Việt Nam: Thực trạng và triển
vọng. NXB Thế giới, Hà Nội, 1998 (tác giả).
35. Giáo dục cho mọi người ở Việt Nam
(1990-2000). NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
V - Sách dịch
36. A.Gaiđa. Hội đồng quân sự cách mạng,
NXB Kim Đồng, 1959.
37. Giáo dục học mẫu giáo. NXB Giáo dục,
1965.
38. Tuyển chọn, giới thiệu: Tâm lý học Liên
Xô. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1977.3
39. A.N. Lêônchiép. Hoạt động. Ý thức. Nhân
cách. (Cùng dịch với Phạm Hoàng Gia). NXB Giáo dục,
Hà Nội, 1989.
40. Tuyển chọn, giới thiệu: Tâm lý học Piagiê,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1996.
Created by AM Word2CHM
Tiểu sử tác giả
Lời tựa
Nhập đề: Tâm lý học và cuộc sống - bước
đầu xây dựng tâm lý học Việt Nam QUYỂN I
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
Phần 1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU 1962 - 1968
I. Vài số liệu về ghi nhớ máy móc của học
sinh Việt Nam II. ý kiến về một cuốn tâm lý học xuất
bản ở Sài Gòn
III. Khoa học tâm lý
IV. Cơ sở sinh lý thần kinh của tâm lý (các
hiện tượng tâm lý) V. Sự nảy sinh và hình thành tâm lý,
ý thức
Phần 2. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG Ở VIỆT
NAM NĂM 1971-1972
I. Kết quả của đợt nghiên cứu một số đặc
MỤC LỤC
điểm tâm lý của học sinh Bắc Lý II. Thu hoạch tổng
quát và suy nghĩ bước đầu
Phần 3. NHỮNG NGHIÊN CỨU SAU NĂM 1977
I. Tìm hiểu nguyên nhân trẻ em phạm pháp và
nghiên cứu nhân cách II. Một số vấn đề về trí nhớ
A - Đặt vấn đề
B - Phân loại trí nhớ
C - Bản chất của trí nhớ
D - Nghiên cứu giải pháp định khu về
trí nhớ
E - Nghiên cứu trí nhớ
Phần 4. NHỮNG NGHIÊN CỨU SAU NĂM 1980
I. Cơ sở tự nhiên và cơ sở xã hội của tâm lý
người
II. Ý nghĩa của tâm lý học đối với người thầy
giáo
III. Hoạt động chủ đạo của học sinh phổ thông
cơ sở
IV. Học sinh vừa là đối tượng vừa là chủ thể
của hoạt động dạy - học V. Tâm lý học và hoạt động
dạy - học
VI. Hoạt động, giao lưu, tâm lý, ý thức
VII. Nhân cách là chủ thể của hoạt động và
giao lưu
VIII. Đại hội tâm lý học quốc tế lần thứ XXII
IX. Tâm lý học năng lực - một cơ sở lý luận
của việc phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo học sinh giỏi
Phần 5. GIĂNG PIAGIÊ NHÀ TÂM LÝ HỌC LỖI LẠC
CỦA THẾ KỶ XX
I. Thần đồng khoa học
II. Lý thuyết phát triển thao tác
III. Nhà nghiên cứu thực nghiệm và quan sát
tâm lý tinh tế vào bậc nhất IV. Khoa học luận sinh
trưởng
V. Nhà giáo dục nổi tiếng
VI. Piagiê và thời đại ngày nay
Phần 6. ĐỊNH HƯỚNG CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN TÂM
LÝ HỌC VIỆT NAM
I. Tâm lý học Việt Nam với sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước II. Tâm lý học đi vào
thế kỷ XXI
III. Thay lời kết: Tâm lý học và khoa học
nghiên cứu con người QUYỂN II
HÀNH VI VÀ HOẠT ĐỘNG
Thay lời tựa: Tâm lý học hành vi hay tâm lý
học hoạt động Phần 1. Vài nhận xét về tình hình của
tâm lý học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Phần 2. Tâm lý học hành vi
Chương I. Thuyết hành vi cổ điển
Chương II. Thuyết hành vi mới
Chương III. Thuyết hành vi xã hội và tâm lý
học hành vi tạo tác của Skinơ
Chương IV. Nguyên nhân tan rã của tâm lý
học hành vi
Phần 3. Tâm lý học hoạt động
Chương V. Tư tưởng tâm lý học mác-xít ra đời
Chương VI. Quan điểm của L.X. Vưgốtxki
trong sự phát triển hệ thống tâm lý học mác-xít
Chương VII. Vấn đề hoạt động trong các tác phẩm của
X.L. Rubinstêin Chương VIII. Giai đoạn phát triển hiện
nay của việc phân tích hoạt động từ góc độ tâm lý học
Kết luận. Phương pháp tiếp cận hoạt động - nhân cách
QUYỂN III
NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC
Chương I. Vài nét về lịch sử tâm lý học
I. Tác phẩm đầu tiên của tâm lý học
II. Xôcrát và châm ngôn "Hãy tự biết mình"
III. Điểm qua lịch sử tâm lý học thế giới
IV. Vấn đề đối tượng của tâm lý học trong tâm
lý học Liên Xô Chương II. Tâm lý học ra đời với tư
cách là một khoa học độc lập
I. Tiếp thu một cách có phê phán nền tâm lý
học trước mác-xít II. Năm 1879 trong lịch sử tâm lý học
III. Sự bế tắc của tâm lý học duy tâm
Chương III. Những con đường phát triển tâm lý học
khách quan
I. Tâm lý học hành vi
II. Tâm lý học ghestan
III. Tâm lý học Phrớt
IV. Sự khủng hoảng của tâm lý học tư sản
hiện đại: Tâm lý học hiện sinh hay tâm lý học nhận
thức?
Chương IV. Sự hình thành tâm lý học mác-xít
I. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tâm lý học khách
quan
II. Cương lĩnh mở đầu cho việc xây dựng nền
tâm lý học mácxít III. Các nguyên tắc cơ bản của tâm lý
học mác-xít
Chương V. Phương pháp hệ thống trong tâm lý học
I. Các quan điểm chủ yếu trong nghiên cứu
tâm lý
II. Lý thuyết cấu trúc trong tâm lý học tư sản
Chương VI. Xây dựng tâm lý học ở Việt Nam
I. Tâm lý học nội quan trong cuốn sách giáo
khoa tâm lý học xuất bản ở Sài Gòn (nay là thành phố
Hồ Chí Minh) II. Học tập tâm lý học xô-viết
III. Thực nghiệm tâm lý học
IV. Mười nguyên tắc, hai tiền đề xuất phát
V. Tâm lý học phục vụ thực tiễn xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc QUYỂN IV
TÂM LÝ HỌC VƯGỐTXKI
Lời nói đầu
Phần 1: Khảo cứu
I. Lép Xêmiônôvích Vưgốtxki - nhà tâm lý học
kiệt xuất của thế kỷ XX
II. Thân thế và sự nghiệp
Phần 2: Ghi chép, tóm tắt, bình luận
III. Các công trình nghiên cứu lịch sử hành vi
A. Hành vi của vượn (khỉ hình người)
B. Con người mông muội và hành vi của nó C.
Trẻ em và hành vi của trẻ
IV. Lịch sử phát triển các chức năng tâm lý
cấp cao
A. Vấn đề phát triển các chức năng
tâm lý cấp cao B. Phương pháp nghiên cứu C.
Phân tích các chức năng tâm lý cấp cao D.
Cấu trúc của các chức năng tâm lý cấp cao E.
Nguồn gốc các chức năng tâm lý cấp cao V.
Tư duy và ngôn ngữ
A. Đặt vấn đề và phương pháp
nghiên cứu B. Vấn đề ngôn ngữ và tư
duy trẻ em trong học thuyết Piagiê C.
Vấn đề phát triển ngôn ngữ trong học
thuyết của U.Stécnơ
D. Nguồn gốc phát sinh tư duy và
ngôn ngữ
E. Thực nghiệm nghiên cứu sự phát
triển các khái niệm G. Sự phát triển
các khái niệm khoa học ở trẻ em H.
Ý tưởng và từ
SÁCH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
---//---
TUYỂN TẬP TÂM LÝ HỌC
Tác giả: PHẠM MINH HẠC
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc NGÔ TRẦN ÁI
Tổng biên tập: VŨ DƯƠNG THỤY
Biên tập nội dung và sửa bản in: VÕ HỒNG VÂN - TẠ
HOÀI NAM
Biên tập kỹ thuật: NGUYỄN LIÊN HƯƠNG
Trình bày bìa và vẽ hình minh hoạ: TẠ TRỌNG TRÍ
Biên tập mỹ thuật: NGUYỄN MẠNH HÙNG
Chế bản: PHÒNG CHẾ BẢN (NXB GIÁO DỤC) In 1.000
bản, khổ 16 x 24cm tại Nhà máy in Quân đội. Số in:
2266. Số xuất bản: 302/3-02. In xong và nộp lưu chiểu
tháng 7 năm 2002.
Created by AM Word2CHM

File đính kèm:

  • pdftuyen_tap_tam_ly_hoc_pham_minh_hac.pdf