Tài liệu Sinh lý người và động vật (Phần 1)
Tóm tắt Tài liệu Sinh lý người và động vật (Phần 1): ...ết áp giảm rất nhiều, nhƣng cũng đủ đƣa máu trở về tim. Trong thời kì tâm thất thu, áp suất tâm nhĩ giảm xuống đột ngột do van nhĩ-thất bị hạ xuống về phía mỏm tim làm buồng nhĩ giãn rộng, tác dụng này làm hút máu từ tĩnh mạch trở về tâm nhĩ. - VAN TĨNH MACH Một số tĩnh mạch có chứa các ...của dạ dày (Hình 5.3) Muốn quan sát ta có thể mổ bụng động vật hoặc cô lập một dạ dày của động vật rồi tƣới nó bằng dịch nuôi nhân tạo hoặc cho một bóng cao su vào dạ dày rồi ghi co bóp của dạ dày trên một trụ quay. Trên ngƣời, ta thƣờng quan sát bằng cách cho bệnh nhân uống Barysulfat rồi s...c ăn thì glucid là nguồn năng lƣợng dễ kiếm và rẻ tiền nhất, lại đƣợc hấp thu và tiêu hoá dễ dàng, với một khối lƣợng lớn. Khi cơ thể không có đủ glucid thì sự oxy hoá quá nhiều mỡ để có năng lƣợng cho hoạt động sống sẽ làm sản sinh nhiều thể ceton gây toan huyết. Khi không đủ glucid, cơ thể...
qua; 2. Nƣớc đi ra do thẩm thấu; 3. Các ion tập trung ở dịch ngoại bào; 4. Bơm tích cực các ion; 4. Không cho nƣớc đi qua, tích cực bơm Na+ và Cl-, 6. Nƣớc đi ra do thẩm thấu; 7. Bơm tích cực các ion; 8. Các quá trình tƣơng tự diễn ra ở phần khác của ống thận tạo ra sự chênh lệch về nồng độ hƣớng về đỉnh quai Henle. 153 153 cực. Aldosteron xuyên qua màng tế bào tới màng nhân và gắn vào một protein thụ cảm ở màng nhân tạo phức aldosteron – protein. Phức hợp này vào nhân kích thích ADN tăng tổng hợp ARN thông tin, kết quả làm tăng tổng hợp loại protein mang để vận chuyển Na+ trong khi (bơm Na) hoạt động (đây là cơ chế hoạt hoá gen). Còn Cl- đƣợc hấp thu theo Na+ nhƣ ở ống lƣợn gần. + Từ tế bào thành biểu mô của ống lƣợn xa một số chất nhƣ K+, NH3, H + lại đƣợc chuyển vào góp nằm ở tuỷ thận cho ure đi qua còn ở phần vỏ không cho ure đi qua). - Ống góp còn tái hấp thu thêm Na+, K+, Ca++. dịch lọc. Một lƣợng NH3 từ huyết tƣơng tới tế bào biểu mô của thành ống lƣợn xa để bài tiết. Vào dịch lọc NH3 kết hợp với H + tạo ra NH4 để thải ra theo nƣớc tiểu, nhờ vậy đã điều chỉnh đƣợc độ pH của dịch lọc. Trƣớc khi chuyển sang ống góp thành phần dịch lọc đã gần giống nƣớc tiểu. * Tại ống góp - Ở ống góp quá trình tái hấp thu H2O và ure là chủ yếu. Giống nhƣ ở ống lƣợn xa, ADH có tác dụng làm tăng tính thấm của các tế bào biểu mô đối với H2O. - Nhờ tái hấp thu H2O ở ống góp làm nồng độ ure trong dịch tăng cao nên ure khuếch tán vào dịch kẽ dễ dàng (đoạn ống Sau khi qua ống góp nƣớc tiểu đƣợc cô đặc sẽ đổ vào bể thận, di chuyển qua niệu quản để xuống bàng quang, ở đó nƣớc tiểu đƣợc giữ lại cho đến khi đủ lƣợng gây kích thích mà có phản xạ tiểu tiện. 7.2.2.3.Thành phần nƣớc tiểu Lƣợng nƣớc tiểu trong ngày thay đổi theo loài, ví dụ ở ngƣời là 1- 2 l, ngựa 2 – 5 l, ở bò 6 – 12 l, lợn 2 – 4 l. Lƣợng nƣớc tiểu đƣợc hình thành cũng thay đổi theo ngày, ban đêm ít hơn. Thành phần thức ăn và lƣợng nƣớc uống cũng làm thay đổi lƣợng nƣớc tiểu. Nƣớc tiểu gồm các thành phần chủ yếu: H2O chiếm khoảng 93 – 95%, Vật chất khô khoảng 5%. Nƣớc tiểu là chất dịch màu vàng nhạt. Tỷ trọng nƣớc tiểu của ngƣời 1,010 – 1,025; ngựa 1.040; bò 1,030. Độ pH của nƣớc tiểu ngƣời và đa số thú là 5 – 6, trừ các loài nhai lại. Vật chất khô trong nƣớc tiểu gồm: - Các sản phẩm có chứa N do quá trình phân giải protein đã tạo nên nhƣ: ure là: 80%, acid uric, amoniac, creatinin 154 154 - Các acid hữu cơ nhƣ: acid lactic, acid béo, các enzyme, các vitamin, các hormon (FSH, LH, testosteron, estrogen, HCG) và các loại sắc tố- Các chất vô cơ nhƣ các loại muối: NaCl, NaHCO3, và các muối sunfat 7.2.2.4.Sự tích tụ nƣớc ở bàng quang và cơ chế thải nƣớc tiểu Nƣớc tiểu đƣợc tạo ra liên tục và đƣợc đổ vào bể thận. Nhờ nhu động của hai niệu quản mà nƣớc tiểu dồn xuống và tích lại ở bàng quang. Bàng quang có thể chứa đến 500ml, nhƣng khi lƣợng nƣớc tiểu đạt 200ml (tƣơng đƣơng với áp suất bàng quang khoảng 15cm cột nƣớc), thì phản xạ tiểu tiện xuất hiện. Bàng quang là một túi rỗng gồm ba lớp cơ trơn tạo thành, lớp ngoài và lớp trong là lớp cơ dọc, ở giữa là lớp cơ vòng. Ở cổ bàng quang lại đƣợc phân bố hai vòng cơ thắt, vòng cơ trơn ở trong, vòng cơ vân ở ngoài. Vòng cơ trơn chịu đƣợc áp suất khoảng 15cm H2O, vòng cơ vân chịu đƣợc áp suất 70cm H2O. Nƣớc tiểu thoát ra theo cơ chế sau: Khi bình thƣờng cơ vòng trong và cơ vòng ngoài ở cổ bàng quang ở trạng thái co để giữ không cho nƣớc tiểu chảy tuỳ tiện ra ngoài. Cơ bàng quang chịu sự chi phối của thần kinh giao cảm và phó giao cảm. Khi thần kinh hạ vị (thần kinh giao cảm) hƣng phấn thì làm cơ vòng trong của cổ bàng quang co lại đồng thời làm giãn cơ bàng quang, còn khi thần kinh chậu (phó giao cảm) hƣng phấn thì ngƣợc lại, cơ bàng quang co, cơ vòng trong giãn, và sự thải nƣớc tiểu sẽ xảy ra, vì vậy khi tổn thƣơng các đốt tuỷ cùng sẽ gây bí đái. Khi bàng quang đã chứa đủ lƣợng nƣớc tiểu làm kích thích các thụ quan trong vách bàng quang. Xung động thần kinh hƣớng tâm qua dây hạ vị (phần giao cảm của hạch mạc treo ruột dƣới) và dây thần kinh chậu (phần phó giao cảm có trung khu ở các sừng xám của các đốt tuỷ cùng 1 – 2 – 3), truyền vào tuỷ sống rồi lên vỏ não. Qua sự phân tích của vỏ não, nếu muốn đi tiểu sẽ phát ra các xung động thần kinh xuống tuỷ sống và qua dây thần kinh chậu làm cơ bàng quang co, đồng thời cơ vòng trong ở cổ bàng quang giãn, và qua dây thần kinh thẹn (đi từ thần kinh chậu đến cơ thắt vòng ngoài) làm cơ vòng ngoài giãn, kết quả là nƣớc tiểu đƣợc thải ra. Nếu không muốn đi tiểu thi cơ bàng quang giãn ra, cơ vòng trong co lại và đồng thời cũng qua dây thẹn làm cơ vòng ngoài co lại nên làm ức chế không cho nƣớc tiểu thải ra. Nếu mất mối liên hệ giữa tuỷ sống và trung khu cấp cao ở vỏ não, thì động tác thải nƣớc tiểu sẽ tách khỏi sự khống chế của vỏ não, nên sự thải nƣớc tiểu chỉ đƣợc thực hiện theo phản xạ không điều kiện. Ở trẻ em, tiểu tiện là một phản xạ không điều kiện. 155 155 Bình thƣờng khi thải nƣớc tiểu còn có sự tham gia của cơ bụng, cơ hoành để ép vào bàng quang. Ngoài ra khi nƣớc tiểu đi qua niệu đạo sẽ kích thích vào thụ quan ở đó cũng có tác dụng tăng cƣờng co bóp bàng quang một cách phản xạ (hình 7.4). 7.2.3. Chức năng điều hoà nội dịch của thận Sự điều hoà nội dịch (dịch thể bên trong cơ thể) nhằm đảm bảo cho thể tích và các chất hoà tan trong đó luôn hằng định. Vì vậy, điều hoà nội dịch chính là sự kiểm tra khối lƣợng nƣớc và muối khoáng đƣợc cơ thể thu nhận và thải ra hàng ngày. Ở động vật bậc cao (thú) và ngƣời điều hoà khối lƣợng H2O và muối khoáng đƣợc thực hiện chủ yếu qua quá trình tạo nƣớc tiểu và thành phần các chất hoà tan trong nƣớc tiểu, nghĩa là thông qua chức năng lọc, tái hấp thu và bài tiết của thận. 7.2.3.1. Điều hoà H2O Áp suất thẩm thấu và áp lực thuỷ tĩnh (huyết áp) của máu là hai yếu tố cơ bản tham gia điều hoà H2O trong cơ thể. Cơ thể có thể mất H2O Hình 7.4. Sự phân phối thần kinh ở bàng quang (theo Nguyễn Quang Mai) 1. Sợi giao cảm; 2. Sợi phó giao cảm; 3. Thần kinh thẹn; 4. Niệu quản; 5. Thân bàng quang; 6. Trigone; 7. Cổ bàng quang; 8. Cơ thắt ngoài 156 156 thƣờng xuyên qua không khí thở ra, bốc mồ hôi, ở phân và nƣớc tiểu. Khi đó làm giảm khối lƣợng H2O của nội dịch và dẫn đến làm giảm áp lực thuỷ tĩnh và tăng áp suất thẩm thấu của máu. Nếu áp suất thẩm thấu của máu tăng, nghĩa là áp suất thuỷ tĩnh của máu giảm xuống sẽ kích thích vào cơ quan nhận cảm áp suất thẩm thấu ở cung động mạch chủ, xoang động mạch cổ, và xung động hƣng phấn đó sẽ truyền vào trung khu điều hoà áp suất thẩm thấu ở vùng dƣới đồi, một mặt gây cảm giác khát đòi hỏi uống nƣớc, mặt khác vùng dƣới đồi sẽ kích thích thuỳ sau tuyến yên tiết hormon ADH để tăng tái hấp thu H2O ở ống lƣợn xa, và ức chế lớp vỏ của tuyến trên thận tiết hormon aldosteron để giảm hấp thu chủ động Na+ ở ống lƣợn gần. Do đó, lƣợng nƣớc tiểu bị giảm xuống, đồng thời ion Na+ không tăng nhờ đó sẽ điều chỉnh đƣợc áp suất thẩm thấu của máu. Nếu áp suất thẩm thấu của máu giảm xuống, nghĩa là áp suất thuỷ tĩnh của máu tăng lên (huyết áp tăng do có nhiều nƣớc) thì quá trình trên sẽ xảy ra ngƣợc lại, sẽ tăng tiết aldosteron để tăng tái hấp thu Na+, đồng thời làm giảm tiết hormon ADH giảm hấp thu H2O. Nhờ đó, lƣợng nƣớc tiểu tăng lên sẽ có tác dụng điều chỉnh áp suất thẩm thấu của máu. Chứng đái tháo nhạt là do nguyên nhân nào đó làm giảm bài tiết ADH, bệnh nhân có thể tiểu tiện tới 20 l trong một ngày. Nhƣ vậy kết quả của quá trình điều hoà thần kinh - thể dịch này đã tác động đến thận để làm cân bằng áp suất thẩm thấu của máu, cũng nhƣ điều hoà khối lƣợng nƣớc trong cơ thể. Phản xạ điều hoà áp suất thẩm thấu của máu có tính mẫn cảm rất cao. Khi áp suất thẩm thấu của máu giảm xuống 2%, sẽ làm cho lƣợng nƣớc đƣợc tái hấp thu chủ động ở ống lƣợn xa giảm xuống một nửa. Thời gian tiềm tàng của phản xạ này khoảng 30 phút, nên sau 30 phút đã uống nƣớc, lƣợng nƣớc tiểu đã tăng lên nhờ phản xạ điều hoà áp suất thẩm thấu của máu. 7.2.3.2. Điều hoà muối. Thận có vai trò rất quan trọng trong việc điều hoà sự cân bằng nồng độ các ion trong huyết tƣơng. Muối ăn NaCl là thành phần chủ yếu tạo áp suất thẩm thấu của máu. Nên sự điều hoà muối thực chất là điều hoà hàm lƣợng của Na+. Sự điều hoà muối trong dịch thể chịu sự kiểm tra trực tiếp của hormon aldosteron. Hormon này đƣợc tiết ra khi hàm lƣợng muối giảm. Nó có tác dụng kích thích sự tái hấp thu Na+ của ống thận, đồng thời có tác dụng ức chế tái hấp thu K+. Khi hormon này tiết ít sẽ làm cho cơ thể mất nhiều Na+ mà không thể thải đƣợc K+ thừa. Ngƣời ta thấy rằng, ở thận lớp tế bào cận tiểu cầu có phản ứng với sự thiếu muối, và khi thể tích huyết tƣơng giảm bằng cách giải phóng ra enzyme renin đổ 157 157 vào máu. Enzyme này có tác dụng hoạt hoá một số protein của máu là angiotensinogen chuyển sang dạng hoạt động angiotensin. Sự có mặt của angiotensin trong máu sẽ kích thích vỏ tuyến thƣợng thận tiết andosteron. Ngoài ra angiotensin còn có tác dụng gây co mạch, tăng huyết áp (tác dụng này mạnh hơn noradrenalin 10 – 30 lấn), đồng thời thông qua não gây cảm giác khát. 7.2.3.3. Sự điều hoà độ pH của máu Sau quá trình trao đổi chất, trong các tổ chức đã sản sinh ra acid (ký hiệu HA) đi vào máu, và nhờ hệ thống đệm của máu, chủ yếu là sự dự trữ kiềm (ví dụ muối NaHCO3) để trung hoà acid và duy trì độ pH ổn định. HA + NaHCO3 NaA + H2CO3 H2O CO2 đến thận đến phổi Do đó, lƣợng dự trữ kiềm (NaHCO3), sẽ bị tiêu hao nhanh chóng, và thận có vai trò phân ly NaA thành Na+ và A-, rồi giữ lại Na+ để trả lại cho máu, nhằm khôi phục lại lƣợng dự trữ kiềm. Nhờ thế mà ổn định đƣợc độ pH của máu. Còn gốc acid A- sẽ đƣợc thải ra ngoài. NaA Na + (giữ lại) + A- (thải ra) Tóm lại, thận có vai trò trong quá trình điều hoà nhằm duy trì các hằng số của nội dịch, nhƣ: - Điều hoà áp suất thẩm thấu.- Điều hoà huyết áp.- Điều hoà khối lƣợng máu.- Điều hoà cảm giác khát. - Điều hoà độ pH. Trƣờng hợp khi thận bị hỏng, hay trong thời gian giải phẫu thận, ngƣời ta đã dùng máy thận nhân tạo để lọc máu thay thận. Nguyên tắc cơ bản của máy thận nhân tạo là dựa trên cơ chế trao đổi các chất theo bậc thang nồng độ. Máu từ các động mạch của ngƣời bệnh chảy vào hệ thống ống dẫn. Hệ thống của ống dẫn đƣợc ngâm trong dung dịch thẩm tích và cuối cùng máu trong lòng ống đƣợc chảy về tĩnh mạch của ngƣời bệnh. Hệ thống ống đƣợc làm bằng xenlophan, thành ống có nhiều lỗ cực nhỏ để các chất hoà tan trong huyết tƣơng và dịch thẩm tích có thể qua lại dễ dàng. Nồng độ các chất trong dịch thẩm tích tuỳ thuộc vào yêu cầu của ngƣời bệnh. 158 158 Chất nào có nồng độ cao trong máu cần phải loại bớt, thì nồng độ chất đó trong dịch thẩm tích sẽ thấp, và ngƣợc lại chất nào muốn bổ sung cho máu thì trong dịch thẩm tích có nồng độ cao (hình 7.5). Thể tích máu chứa trong lòng ống không vƣợt quá 500ml. Để chống đông, heparin đƣợc cho vào dòng máu phía đầu ống. Chất chống heparin cho vào dòng máu đầu ra khỏi máy để chống chảy máu cho ngƣời bệnh. Mỗi đợt chạy máy không quá từ hai đến ba ngày, mỗi ngày không quá 12 giờ. Nếu chạy máy quá lâu sẽ dẫn tới chảy máu do thừa heparin . 7.3. Cấu tạo và chức năng của da 7.3.1. Cấu tạo chung Hình 7.5. Nguyên tắc của thận nhân tạo (theo Nguyễn Quang Mai) 159 159 Ở ngƣời trƣởng thành, tổng diện tích da khoảng 1,5 - 2m2, độ dày thay đổi từ 0,5mm – 3mm tuỳ vị trí khác nhau trên cơ thể, ở gót chân da dày nhất. Da đƣợc cấu tạo gồm 3 lớp: lớp biểu bì, lớp da chính thức và lớp dƣới da. Ngoài ra còn có các cấu trúc đặc biệt dẫn xuất từ da. 7.3.1.1. Lớp biểu bì Đó là lớp ngoài cùng của da, cấu tạo bởi nhiều tầng tế bào của mô thƣợng bì. Những tầng trên thƣợng bì hoá sừng, bong ra và đƣợc thay thế bởi các tầng dƣới, các tế bào chết hình dẹt của lớp sừng tạo nên vảy, chúng thƣờng xuyên tróc đi. Phần lớn bụi trong gia đình là vảy da của ngƣời. Ngƣời ta dự tính là các tế bào biểu bì của ngƣời mất khoảng 27 ngày để có thể di chuyển từ lớp nền da đến bề mặt, do đó phụ thuộc vào bề dày của nó mà toàn bộ biểu bì có thể đƣợc thay thế trong khoảng thời gian này. Tầng sâu nhất của biểu bì có khả năng sinh sản ra tế bào mới gọi lá tầng sinh trƣởng (tầng Malpighi) hay gọi là tầng đáy. Các tế bào ở tầng này có chứa sắc tố melanin, tạo màu cho da. Ở những chổ da có màu thẩm nhƣ vành thâm của vú, sắc tố có cả trong tế bào lẫn ngoài gian bào. Màu của da do các tế bào sắc tố (melanocyte) nằm ở dƣới hay ở giữa các tế bào đang phân chia của tầng đáy quyết định. Sắc tố đen melanin tạo ra bởi các tế bào này đƣợc các tế bào trong các phần còn lại của biểu bì hấp thu, che chắn cho cơ thể khỏi bức xạ cực tím. Số lƣợng các tế bào sắc tố ở những ngƣời thuộc các chủng tộc khác nhau thì gần nhƣ nhau, nhƣng các tế bào này hoạt động mạnh hơn ở những ngƣời da đen và da màu. Lƣợng melanin đƣợc tăng lên bởi sự kích thích của hormon kích hắc tố ở thuỳ giữa tuyến yên (MSH). 7.3.1.2. Lớp da chính thức Lớp da chính thức hay còn gọi lớp bì. Đây là lớp mô liên kết, trong đó gồm các sợi sinh nhờn, sợi đàn hồi và sợi cơ trơn. Lớp này gồm hai tầng: - Tầng gai: ở phía trên tiếp giáp với biểu bì. Trên bề mặt của tầng có các lồi gai (vùng nhú), bên trong có mạch máu, mạch bạch huyết và các đầu mút thần kinh cảm giác xúc giác (ở đầu và mặt là đầu mút thần kinh số V, ở thân và chi là đầu mút thần kinh tuỷ sống). Các lồi gai nổi lên cả trong lớp biểu bì tạo những đƣờng gờ và rãnh hẹp. Các tuyến mô hôi đều mở ra trên các đƣờng gờ này. Ở lòng bàn tay và chân, đƣờng và các rãnh tạo thành vân đặc trƣng cho từng ngƣời (nhất là ở đầu ngón tay, vì thế ngƣời ta lấy chỉ tay). Ở chủng ngƣời da đen, sắc tố melanin có cả ở tầng này. Tầng lƣới cũng cấu tạo từ mô liên kết sợi chắc và dày hơn tầng trên. 160 160 7.2.1.3. Lớp dƣới da Lớp này nằm sâu và phủ lên các cơ quan trong cơ thể, đƣợc cấu tạo từ mô liên kết sợi xốp có xen kẽ các tế bào mỡ, tạo thành lớp mỡ dƣới da. Tuỳ theo vị trí trên cơ thể, theo lứa tuổi, chế độ dinh dƣỡng giới tính mà độ dày của lớp mỡ này thay đổi khác nhau. Ví dụ ở vành tai không có lớp mỡ, ở da trán da mũi, lớp mỡ rất mỏng, nhƣng ở mông, bụng lại rất dày. Ở nữ lớp mỡ dày hơn ở nam. Lớp mỡ chính là kho dự trữ chất dinh dƣỡng của cơ thể. 7.2.1.4. Một số cấu trúc đặc biệt của da Các cấu trúc đặc biệt của da nhƣ lông, móng, tuyến da và các cơ quan cảm giác. * Các cơ quan cảm giác. Các cơ quan cảm giác đƣợc phân bố ở lớp da chính thức. Đó là các tận cùng thần kinh tự do nhạy cảm với cảm giác xúc giác, cảm giác đau và nhiệt độ. Cụ thể là tiểu thể Meissner nhạy cảm với cảm giác xúc giác, tiểu thể Pacinian nhạy cảm với những thay đổi về áp lực. Sự phân bố và mật độ của các cơ quan cảm giác rất thay đổi. Chúng tập trung nhiều nhất ở môi và đầu ngón tay, thƣa thớt ở vùng cánh tay và vai * Lông là sản phẩm của biểu bì, mọc từ tầng dƣới của lớp da chính thức. Lông có cấu tạo gồm: chân lông nằm trong một túi thƣợng bì, thân lông mọc lên trên mặt da. Ở gốc chân lông có một phần phình gọi là hành lông hay nang lông, là nơi phát triển của lông về chiều dài. Lông dài ra với tốc độ 0,3mm mỗi ngày. Lông già sẽ bị rụng theo chu kỳ và thƣờng đƣợc thay thế bằng những lông mới phát triển trong cùng một nang lông (hành lông). Bệnh hói là do mất đi nhiều các nang lông hoạt động. Cắt ngang một lông thấy rõ 3 phần: ngoài là màng lọc, giữa là vỏ, trong cùng là tuỷ lông. Phần vỏ chứa sắc tố melanin tạo màu sắc của lông. Lƣợng không khí trong ống lông cũng góp phần tạo màu (tóc bạc là khi mất dần sắc tố và tăng dần bọt khí). Lông mọc xiên trên da. phần chân lông đƣợc gắn với những dải cơ gọi là dựng lông, đó là những sợi cơ trơn. Khi co các cơ này giữ cho thân lông dựng đứng trên bề mặt của da gọi là hiện tƣợng “nổi da gà”. Trên bề mặt cơ thể, lông phân bố không đều, ở lòng bàn tay, chân, mặt trong các ngón, đầu ngọc hành, âm hành, môi bé, mặt trong môi lớn không có lông. Lông đƣợc mọc ngay trong giai đoạn bào thai và đƣợc thay nhiều lần. Lông có loại dài nhƣ tóc, râu; có loại ngắn nhƣ lông mi, lông mũi; có loại mọc sớm; có loại đến tuổi dậy thì mới mọc. Chức năng chủ yếu là giữ nhiệt và bảo vệ. 161 161 * Móng là sản phẩm của biểu bì dƣới dạng một tấm chất sừng phủ lên mặt sau trên các ngón tay chân. Móng đƣợc giữ vào thịt bởi một nếp da bì, cấu tạo bằng mô liên kết, và lớp thƣợng bì có khả năng sinh trƣởng làm móng phát triển về chiều dài. * Các tuyến da. Tuyến da gồm tuyến nhờn (tuyến bã), tuyến mồ hôi và tuyến sữa (ở vú). - Tuyến nhờn mở ra ở phần chân lông, tiết chất nhờn vào nang lông, chỗ nào không có lông thì tuyến đổ ra mặt da. Chất nhờn có tác dụng giúp cho lông và bề mặt da không thấm nƣớc và luôn mềm mại. Nó còn có tác dụng ngăn ngừa sự phát triển của các vi khuẩn có hại. Tuyến nhờn không có ở lòng bàn tay, bàn chân. Dáy tai của ngƣời do tuyến nhờn ở đó tiết ra. - Tuyến mồ hôi Tuyến mồ hôi là loại tuyến ống. Đầu phía dƣới cuộn lại thành búi nằm trong tầng lƣới của da chính thức. Đầu phía trên của vòng xoắn ốc xuyên qua lớp biểu bì để đổ ra ngoài mặt da. Ở ngƣời có tới 2,5 triệu tuyến mồ hôi. Tuyến phân bố không đều, mật độ cao nhất ở lòng bàn tay, bàn chân, hốc nách đạt từ 350 – 450 tuyến/cm2, trong khi đó ở đùi là 80 ở mông là 60 tuyến /cm2. Ở phần môi, đầu ngọc hành không có tuyến. Tuyến có chức năng tiết mồ hôi nhằm tham gia điều nhiệt và nƣớc cho cơ thể (hình 7.6). 7.3.2. Chức năng của da Nhƣ đã nói ở trên, da có nhiều chức năng rất quan trọng: da là cơ quan cảm giác xúc giác, nhiệt, đau. Da điều hoà thân nhiệt, tham gia vào chức năng hô hấp, bài tiết nƣớc, muối khoáng và chất nhờn. Da bảo vệ cơ thể tránh những tác động cơ học vừa và nhẹ, chống sự xâm nhập của vi khuẩn và chất độc. Trong phần này chủ yếu đề cập đến chức năng bài tiết nƣớc, muối khoáng và chất nhờn. 7.3.2.1. Sự bài tiết mồ hôi và muối khoáng Ở động vật có lông phủ hầu nhƣ không có tuyến mồ hôi trừ một số loài nhƣ khỉ ở lòng bàn tay, bàn chân thì có. Trong một ngày đêm ở ngƣời tiết khoảng 1 lít mồ hôi, nhƣng nó cũng thay đổi theo nhiệt độ môi trƣờng bên ngoài. Mồ hôi là loại dịch trong, có tỷ trọng là 1,01. Thành phần gồm 98% là nƣớc và 2% là chất khô gồm muối khoáng và chất hữu cơ. Nhìn chung thành phần mồ hôi gần giống với thành phần nƣớc tiểu loãng. Các chất vô cơ là NaCl. KCl, phosphat, sulphat. Các chất hữu cơ là ure, acid uric, 162 162 creatinin. Mồ hôi mới tiết ra có tính hơi kiềm, nó có mùi đặc trƣng do chất nhờn của tuyến nhờn cùng tiết ra. Điều tiết sự tiết mồ hôi là thần kinh giao cảm có trung khu ở sừng xám của tuỷ sống từ đoạn ngực II đến đoạn thắt lƣng II. Hiện nay ngƣời ta phát hiện đƣợc hai loại tuyến mồ hôi: tuyến apocrine và tuyến eccrine. Các tuyến apocrine phân bố nhiều ở vùng da hố nách, vùng háng và quanh núm vú, chúng tiết ra chất trắng nhờ nhờ chứa các chất hoá học gọi là feromon. Ở nhiều loài động vật, feromon đƣợc sử dụng nhƣ một tín hiệu hoá học để đánh dấu lãnh thổ, dẫn đƣờng đi, là chất dẫn dụ bạn tình. Tuyến eccrine tiết mồ hôi. Nhƣ vậy tuyến mồ hôi cùng với thận làm chức năng bài tiết nƣớc và muối khoáng, tham gia quá trình điều hoà nƣớc và muối khoáng, đảm bảo cho nội dịch cân bằng và ổn định. 7.3.2.2. Sự bài tiết chất nhờn Thành phần chất nhờn gồm nhiều giọt mỡ, các acid béo tự do và rƣợu của chúng, một lƣợng chlesterol và các este của nó. Mới tiết ra, chất nhờn còn loãng sau đặc dần lại. Chức năng chủ yếu là làm mịn da, lông tóc, tránh cho da khô nứt nẻ và thấm nƣớc. NỘI DUNG ÔN TẬP, KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ 1. Cấu tạo và chức năng của thận. Hình 7.6. Cấu tạo tuyến mồ hôi (theo Nguyễn Quang Mai) 1. Biểu bì; 2. Trung bì; 3. Hạ bì; 3a. Tuyến mồ hôi; 3b. Ống dẫn mồ hôi; 3c. Lỗ tiết mồ hôi; 4. Ổ mỡ; 5. Mạch máu; 6. Dây thần kinh; 7. Lông
File đính kèm:
- tai_lieu_sinh_ly_nguoi_va_dong_vat_phan_1.pdf