Tài liệu Văn học dân gian Việt Nam - Trần Tùng Chinh (Phần 1)
Tóm tắt Tài liệu Văn học dân gian Việt Nam - Trần Tùng Chinh (Phần 1): ...g về con người, loài người: Tư duy nguyên hợp thần thoại là dùng con người để nhận thức tự nhiên và ngược lại, dùng tự nhiên để nhận thức mình. Điều này có liên quan đến các quan niệm thời nguyên thủy (như đã nêu ở phần trên), đặc biệt là vật tổ Tôtem. Lý giải nguồn gốc của con người theo tí... nghĩa xã hội với những mức độ khác nhau. Truyện cổ tích thần kỳ Trong ba tiểu loại đã nêu thì nhóm truyện này phong phú hơn về số lượng, đa dạng hơn về nội dung và phức tạp hơn về kết cấu. Sự phong phú, đa dạng và phức tạp trước hết thể hiện ở các lớp truyện nổi bật như những truyện phản ...ho kẻ yếu (Thỏ cứu voi già khỏi nanh hổ, thỏ cứu đàn cá và tự cứu mình thoát chết, thỏ cứu dê thoát bị hổ ăn thịt, thỏ cứu người và trừng phạt cá sấu...), phản kháng lại kẻ cường bạo (Thỏ lừa hổ, thỏ trị cá sấu, thỏ chơi khăm báo). Ngoài ra, thỏ còn biết dạy làm thuốc, làm vị quan tòa giỏi x...
thật, giọng kể và người kể sẽ quyết định sự thành công hay thất bại của cốt truyện. Sẽ không ngoa khi cho rằng, trong các loại truyện kể dân gian thì truyện cười đòi hỏi một người kể chuyện và một nghệ thuật kể chuyện rất độc đáo và tinh tế, hóm hỉnh hài hước nhưng phải tính táo, đặc biệt là phải hết sức có duyên, cái duyên ngầm của người kể.Từ lối chọn truyện đến ngôn ngữ kể chuyện (trong quá trình diễn xướng, còn kết hợp với cả cử chỉ, nét mặt, điệu bộ phụ họa) đều được chăm chút sao cho câu chuyện có sức thu hút người nghe nhiều nhất. Chọn truyện tức là chọn những truyện phù hợp với các đối tượng có mặt trong thời điểm diễn xướng, hoàn cảnh sinh hoạt cụ thể. Hiểu biết đối tượng nghe kể chuyện đòi hỏi khả năng nắm bắt tâm lý của người kể rất cao. Ví dụ đối tượng thuộc giới tính nào? lứa tuổi? họ đang quan tâm đến những vấn đề gì? Những câu hỏi này được trả lời thỏa đáng sẽ mang lại thành công rất cao trong mục đích gây cười. Ngôn ngữ kể sẽ được nói rõ hơn ở phần dưới đây, ở đây chỉ nhấn mạnh lời kể, giọng kể của người kể phải rõ ràng mạch lạc, không kéo lê thê dài dòng sẽ làm giảm sự hứng thú khi theo dõi; nhưng cũng không được quá ngắn gọn sơ sài, người nghe sẽ không được chuẩn bị đầy đủ về mặt tâm lý để bật cười bất ngờ ở phần kết thúc. Giọng kể vừa phải (không cao, không thấp, không nhanh, không chậm), truyền cảm cũng là điều cần lưu ý. Đặc biệt là dù thế nào, người kể cũng không được cười trước người nghe (dân gian có bảo "vô duyên chưa nói mà cười") . Nếu không như vậy, hoặc người nghe sẽ không cười nổi (vì chưa hiểu hết làm sao cười được); hoặc sẽ cười gượng gạo kém tự nhiên (cười vuốt theo người kể, cười vì thấy người kể cười chứ không phải vì nội dung câu chuyện). Người kể phải thật tỉnh (trong sự rung cảm thật sự hết mình) thì tiếng cười cuối cùng khi truyện kết thúc mới giòn giã. Và như thế mới thật sự là một truyện cười hoàn chỉnh. Nghệ thuật này tất nhiên phải được rèn giũa trong một môi trường diễn xướng tập thể, ngõ hầu đạt được kết quả cao. Sự hồi hộp, chờ đợi, sự sảng khoái, hả hê của người nghe là kết quả của nghệ thuật kể chuyện do người thuật chuyện tạo nên cùng cái hay của cốt truyện. Nghệ thuật kể chuyện góp phần tôn lên, phát huy thêm sức hấp dẫn của cốt truyện tạo nên một chỉnh thể thống nhất của truyện cười dân gian. 4. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ truyện cười là loại ngôn ngữ đại chúng, trong sáng, dễ hiểu nhất trong số các loại tự sự dân gian. Nếu có mập mờ lấp lửng thiếu minh xác thì đó là sự cố ý một cách nghệ thuật để gây cười và điều này được xem như một thủ pháp ngôn ngữ của truyện cười. Tác giả dân gian tỏ ra rất có ý thức nghệ thuật hóa ngôn ngữ truyện cười trong những trường hợp cụ thể như nói thiếu, nói tắt để gây cười (Ăn đít bố, Bẩm chó cả); tước bỏ ngữ cảnh nói (Ông lang đòi ăn, Thấy nó ỉa mà thèm); dùng từ đồng âm và đa nghĩa (Sợ sét bà, Bảo thái, Ông nọ bà kia, Cúng Thành hoàng). Bên cạnh đó, nhiều biện pháp chơi chữ được sử dụng: Nói lái, nói ngoa, dùng từ lạ, từ bạo (Truyện Trạng Quỳnh). Và sẽ thiếu sót nếu bỏ qua sự cố ý sử dụng từ ngữ, yếu tố “tục” để gây cười (Lạy cụ đề ạ, Cái tăm quan huyện, Ngọa Sơn) 5. Thời gian - không gian nghệ thuật: Thời gian nghệ thuật: Mỗi một truyện cười như một màn kịch ngắn diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn. Thời gian nghệ thuật của truyện cười gắn với một nét tính cách, một khoảnh khắc cuộc đời nhân vật nên chỉ tập trung vào khoảng thời gian mà cái đáng cười bị phát hiện ra. Không gian nghệ thuật: Tương tự, không gian hoạt động của các nhân vật trong truyện cười cũng rất nhỏ hẹp (Một căn buồng, một gian bếp, một ngôi nhà, một quảng đường, một khúc sông) 6. Các biện pháp gây cười: Đề tài gây cười: Truyện cười khai thác những cái xấu, cái đáng cười, đặc biệt là những mâu thuẫn trái lẽ, ngược đời để làm nên một hệ thống đề tài vô cùng phong phú đa dạng, ít trùng lắp. Cách giải quyết bất ngờ, gây cười: Truyện cười với nhiều tình huống đáng cười nối tiếp nhau. Đỉnh điểm gây cười là tình huống cuối truyện (Cháy, Nam mo boong ). Mâu thuẫn tiềm tàng được đẩy lên tới tận cùng rồi được giải quyết đột ngột, bất ngờ (Tao thèm quá, Giàn lý đổ) Cường điệu gây cười: Tác giả dân gian hư cấu bằng thủ pháp cường điệu, phóng đại, thậm xưng để gây ra tiếng cười (Con rắn vuông, Thà chết còn hơn, Đánh chết nửa người) Ngôn ngữ gây cười: (Xem phần ngôn ngữ) Truyện ngụ ngôn KHÁI NIỆM TRUYỆN NGỤ NGÔN Trong SGK 10 tập 1, ông Chu Xuân Diên định nghĩa truyện ngụ ngôn là những truyện kể có dụng ý chính nêu lên những bài học kinh ngiệm sống hoặc những bài học luân lý - triết lý thông qua những cốt truyện tương đương, trong đó, nhân vật chủ yếu là loài vật và các đồ vật. Xác định rõ hơn về hình thức thể loại, ông Đỗ Bình Trị bổ sung thêm rằng những truyện kể này có khi là văn vần, có khi là văn xuôi mà ở đó, người ta mượn một mẩu chuyện nhỏ, thường là về loài vật để gởi thác một bài học về kinh nghiệm sống, về luân lý hoặc một điều răn dạy có tính chất triết lý về nhân sinh, thế sự. Theo ông Trần Vĩnh (ĐHSP TP HCM), nghệ thuật chủ yếu trong ngụ ngôn là dùng cách ẩn dụ - thể hiện bằng cách nói gián tiếp, ngụ ý. Định nghĩa của ông Hoàng Tiến Tựu có thêm một tính chất của ngụ ngôn đó là cách nói bóng, hay ám chỉ (phúng dụ) và hình thức biểu đạt ẩn dụ không chỉ là đồ vật, con vật mà còn là các bộ phận cơ thể người. Như vậy có thể thấy rằng, không có những ý kiến trái ngược nhau về ngụ ngôn. Ngụ là ngụ ý, ngôn là dùng lời nói. Đây là loại truyện không dùng cách nói trực tiếp thông thường mà là thông qua một câu chuyện nào đó có nhân vật chính là sự vật, đồ vật, con vật, một bộ phận nào đó của cơ thể người để nhằm ngụ ý về một vấn đề khác thuộc về đời sống phong phú và phức tạp của con người. Đó có thể là chuyện đạo đức, nhân sinh, thế sự, cách xử thế, mối quan hệ giữa người và người... Những vấn đề mà bản thân nó luôn có tính chất triết lý - luân lý sâu sắc. NỘI DUNG Ý NGHĨA TRUYỆN NGỤ NGÔN Như vậy theo như định nghĩa nêu trên, mỗi truyện ngụ ngôn thường gồm hai phần: Phần xác ( Nghĩa đen mang nội dung trực tiếp) và phần hồn (Nghĩa bóng mang nội dung gián tiếp). Nội dung ý nghĩa của truyện ngụ ngôn nằm ở phần hồn tức là cái phần ngụ ý của ngụ ngôn. 1. Truyện ngụ ngôn phản ánh trí tuệ của nhân dân và triết lý dân gian: Nhân dân khi sáng tác truyện ngụ ngôn luôn muốn gởi gắm vào đấy một ý tưởng nào đó. Vì vậy, câu chuyện kể phụ thuộc vào mục đích muốn nói đến, muốn nhắn nhủ, khuyên răn Điều này, có nghĩa là trong truyện ngụ ngôn, lý trí đóng vai trò chủ động quyết định. Nói cách khác, truyện ngụ ngôn thể hiện trí tuệ của nhân dân thông qua những vấn đề mang tính chất triết lý của dân gian. Trước hết đó là những nhận xét về con người. Truyện ngụ ngôn quan tâm đến đặc điểm, tính cách của nhiều loại người trong xã hội. Thông qua thế giới nhân vật mang đầy tính ẩn dụ bóng gió của ngụ ngôn (như đồ vật, con vật...), cả một xã hội loài người với đủ mọi hạng người lần lượt xuất hiện trong những sự đúc kết cực kỳ sâu sắc và tinh tế. Từ những kẻ giả dối đến những người lương thiện, người trung thành đến kẻ phản phúc, kẻ xu nịnh hay người ngay thẳng, người bản lĩnh cứng rắn hay kẻ yếu hèn nhút nhát.đều xuất hiện sinh động trong truyện ngụ ngôn. Đó là các truyện Bồ câu và sáo, Con cọp bị thương, Chèo bẻo và ác là, Trâu và ngựa. Bên cạnh những nhận xét về con người, truyện ngụ ngôn nêu lên những bài học triết lý, kinh nghiệm sống sâu sắc giàu ý nghĩa. Đó là những bài học đối nhân xử thế, những bài học đạo lý ở đời, nhân sinh thế thái Đặc biệt truyện còn đề cập đến nhiều mối quan hệ tình cảm giữa con người với con người bằng một sự tổng kết tràn đầy kinh nghiệm sống quí báu của người xưa. Điều đặc biệt là những vấn đề triết lý ở đây không cao siêu xa lạ mà rất dung dị đời thường lại rất bổ ích thiết thực bởi được đúc kết từ thực tế đời sống sinh động và gần gũi ( Đẽo cày giữa đường, Hươu và rùa, Chân tay tai mắt miệng) Truyện ngụ ngôn còn hướng tới việc nhận thức thế giới. Đó là sự nhận thức toàn diện (để trên cơ sở đó bài bác cái nhìn phiến diện); sự nhận thức khách quan (chứ không hề là sự áp đặt chủ quan). Thông qua truyện ngụ ngôn, các tác giả dân gian thể hiện cái nhìn về tính tương đối của sự vật, hiện tượng (để tránh tuyệt đối hóa mọi thứ). Ta có thể khảo sát các truyện như Kéo cây lúa lên, Thầy bói xem voi, Mèo lại hoàn mèo Điều đáng nói là truyện ngụ ngôn đã làm cho những vấn đề triết lý, luân lý, đạo đức... tưởng chừng rất khô khan, nặng nề trừu tượng trở nên gần gũi, sinh động và dễ hiểu, dễ cảm, dễ tiếp thu. 2. Truyện ngụ ngôn chứa đựng ý nghĩa phê phán đấu tranh: Thái độ của dân gian trong truyện ngụ ngôn rất rạch ròi khi đúc kết những thói hư tật xấu, những khuyết điểm, hạn chế của người đời như thói tham lam, tư tưởng thả mồi bắt bóng, đứng núi này trông núi nọ... Về mặt này, truyện ngụ ngôn rất gần với truyện cười, chỉ khác ở yếu tố gây cười không phải là nét cơ bản nổi bật. Ví dụ: Lão nhà giàu và con lừa, Thả mồi bắt bóng Trong mối quan hệ giao lưu gần gũi đó của hai thể loại tự sự dân gian đều có kết cấu chặt chẽ, dung lượng ngắn gọn này, có người còn tìm thấy những ý nghĩa xã hội, những mâu thuẫn giai cấp trong truyện ngụ ngôn, chẳng hạn hình ảnh chân dung dị dạng của bọn thống trị đáng ghét. Ví dụ: Con cọp bị thương, Trê cóc, Chèo bẻo và ác làCó thể coi nội dung này là kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân trong một xã hội mà mâu thuẫn giữa kẻ thống trị và quần chúng nhân dân đã trở nên gay gắt. ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP TRUYỆN NGỤ NGÔN 1. Nhân vật chính: Nói đến nhân vật trong truyện ngụ ngôn, đối tượng đầu tiên chiếm số lượng khá lớn phải kể đến là loài vật - bao gồm đủ các loài vật. Chúng nói năng, ứng xử và có tâm tính như người. Tuy nhiên, nhân vật là loài vật trong truyện ngụ ngôn có những đặc điểm sau: Về bản thân đối tượng miêu tả, kể chuyện, loài vật ở đây có thể là bất kỳ con vật nào, miễn giúp người ta biểu đạt được ý tưởng một cách vừa bóng gió, vừa rõ ràng thú vị. Chẳng hạn như các nhân vật Con rồng (Con hổ và con rồng), Con phù du và con đom đóm (Phù du và đom đóm), Con ve sầu (Ve sầu và ốc sên)... Về thái độ đối với đối tượng, phản ứng của người kể - người nghe thể hiện ở mặt lý trí, suy lý hơn là ở mặt tình cảm, cảm xúc đối với các nhân vật chính là con vật trong các loại truyện tự sự dân gian khác. Ví dụ: Thỏ và rùa, Thả mồi bắt bóng. Về nội dung miêu tả, kể chuyện về đối tượng, tác giả dân gian đã mượn chuyện loài vật để nói về con người và xã hội loài người. Và chính vì vậy, điều ngụ ý mới là linh hồn của truyện kể. Ở đây, ta thấy có sự tương quan hợp lý giữa đặc điểm của con vật với hạng người mà truyện muốn nói. Đồng thời mối quan hệ giữa các con vật trong truyện ngụ ngôn cũng phải tương quan với mối quan hệ của hạng người này với hạng người khác ngoài cuộc sống xã hội. Bên cạnh đó, nhân vật trong truyện ngụ ngôn còn là muôn thứ khác, vô cùng đa dạng. Đó là những cây cối hoa quả (cây thông, cây búa, hoa hồng, hoa mẫu đơn); các vật vô cơ vô giác (tranh, bút, nồi đất, nồi đồng); những điều vô hình vô trạng (ngu dại, khôn khéo, quá độ, họa, phúc). Ngoài ra, nhân vật còn là thân thể người, tính nết người (đui, què, gù, chột/ mắt, lông mày/ mồm với chân tay/ tham lam, hà tiện, nói khoác, lọc lừa). Cũng không loại trừ ở một số truyện, nhân vật ít nhiều giống như nhân vật của cổ tích và thần thoại nhưng tất nhiên là khác nhau về tính chất và chức năng; chẳng hạn như lực lượng siêu nhiên (Thần, phật, ma, quỷ) và những yếu tố thuộc về vũ trụ, tạo hóa (mặt trăng, trời / sông / núi, suối / biển) “Nhưng, dù thế nào, ngụ ngôn cũng chuyên riêng về những loài cầm thú, côn trùngđầy chủ động. Điều này tạo thành đặc tính riêng không lẫn lộn với các thể loại khác” (Nguyễn Văn Ngọc - Đông Tây ngụ ngôn). 2. Xung đột: Khác với xung đột chính trong truyện cổ tích - giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái thiện và cái ác - xung đột trong truyện ngụ ngôn mang một dấu ấn rất đặc trưng của thể loại này. Đó là sự xung đột giữa cái đúng và cái sai, chân lý và ngụy lý.Tất cả biểu hiện ở lý lẽ hành động, ở triết lý ứng xử của nhân vật. Nắm được đặc điểm trên, ta sẽ dễ dàng nhận ra những xung đột cụ thể ở những truyện ngụ ngôn chỉ có một nhân vật - nhân vật cũng không hề gặp một trở lực nào của hoàn cảnh. Một truyện ngụ ngôn của Ê-dôp kể rằng Có một chú chó rất thích ăn trứng. Một hôm vớ được con ốc nhồi nó lại tưởng là trứng, thế là nó nuốt chửng con ốc. Nuốt xong đau bụng quá, nó mới thốt lên: "Mình thật đáng đời! Cứ tưởng vật gì tròn cũng đều là trứng cả!". Ngụ ngôn Việt Nam có câu chuyện cũng về một con chó, gặm được một miếng thịt, đi qua dòng suối, nhìn xuống thấy một miếng thịt khác to hơn, vội vã buông miếng thịt đang có hầu chộp lấy miếng thịt to. Nhưng đó chỉ là bóng miếng thịt in xuống. Khi nhả miếng thịt thật - và nó bị nước cuốn trôi, thì tất nhiên miếng thịt ảo cũng không còn. Thế là con chó không còn gì để ăn cả. Vậy, ở đây, xung đột nằm ở phía sau hành động của nhân vật. Có những truyện ngụ ngôn có hai hoặc hơn hai nhân vật mà giữa chúng có thể có hoặc không có quan hệ thù địch (như sói và cừu hoặc cáo và mèo; trâu nhà và trâu rừng...). Nhưng cho dù giữa chúng có tồn tại mối quan hệ như thế nào thì xung đột giữa các nhân vật thường không phải là xung đột biểu hiện ở bản thân hành động mà chủ yếu là ở lý lẽ của hành động. Ông Đỗ Bình Trị phân tích luận điểm này bằng một câu chuyện ngụ ngôn Sói và cừu non. Truyện như sau Đương lặn hụp ở một con suối bên sườn đồi, bỗng sói ngẩng đầu lên và thấy một cú cừu non cũng đang ra uống nước ở phía dưới cách đó một quãng. "A, đó chính là bữa ăn của ta - sói nghĩ -Ước gì mình tìm được một cớ nào đó mà túm cổ nó nhỉ". Và sau đó nó lên tiếng gọi cừu non: "Sao nhà ngươi dám làm đục vùng nước ta đang uống ?" "Đâu dám ạ, đâu dám ạ, thưa ông - cừu non nói - Giả sử như nước trên ấy có đục đi chăng nữa, thì đâu có phải tại con, bởi lẽ nước từ chỗ ông chảy xuống chỗ con kia mà ?" "Thôi được - sói nói - thế thì tại sao mày dám chưởi rủa tao vào giờ này năm ngoái ?". "Đâu có chuyện đó ạ - cừu non đáp - Bây giờ con mới có nửa tuổi" "Tao không biết - sói rống lên - nếu không phải mày thì là bố mày". Dứt lời, sói vồ lấy chú cừu non đáng thương và nhai ngấu nghiến. Trước khi chết cừu chỉ kịp thốt lên: "Lời ngụy biện nào cũng chỉ có lợi cho bạo chúa". Ông cho rằng, ở đây, xung đột giữa sói và cừu là xung đột về lý lẽ. Cừu luôn luôn đúng lý, sói hoàn toàn ngụy biện. Nhưng rút cục "lẽ phải" vẫn thuộc về sói. Câu chuyện chứng minh một sự thật: "Cái lý của kẻ mạnh hơn bao giờ cũng đúng hơn" (La Phông ten). Truyện cổ tích không bao giờ miêu tả những xung đột đại loại như thế. Trong truyện cổ tích, sói cứ việc vồ cừu mà ăn thịt mà không cần lý sự một hai chi hết. Sự xung đột giữa đúng - sai, chân lý - ngụy lý còn được thể hiện dưới dạng xung đột giữa nhân vật với tác giả của câu chuyện. Trong trường hợp này, tác giả đứng phía sau câu chuyện kể hoặc xuất hiện qua lời răn dạy thường được nêu ở cuối truyện. Nhưng dù là sự xung đột nào thì xét đến cùng, xung đột xã hội (giữa người này với người khác, đặc biệt là giữa người bị áp bức với kẻ bị áp bức) vẫn là xung đột chính chi phối truyện ngụ ngôn. Những chân lý được khái quát từ những kinh nghiệm đấu tranh xã hội. Có một hiện tượng là những con vật khỏe nhất, dữ nhất làm biểu tượng cho kẻ mạnh. Ngược lại, những con vật nhỏ bé (nhưng đông đảo tinh khôn, quyết liệt khi tự vệ) làm biểu tượng cho kẻ yếu. Chẳng hạn như Sói và cừu non, Cọp cò cáo chuột, Sư tử cáo và bầy thú, con mèo trèo cây cau, Bốn con bò và con sư tử, Kiến giết voi Trong một xã hội như xã hội phong kiến thời xưa, tồn tại những mâu thuẫn giai cấp và sự đấu tranh giai cấp gay gắt thì vấn đề tốt - xấu, đúng - sai, chân lý - ngụy lý... vẫn là một vấn đề nhạy cảm. Dù không hẳn cái xấu, cái sai, cái ngụy lý là "độc quyền" của riêng một giai cấp, một tầng lớp nào, nhưng dân gian trong cuộc đấu tranh nhân danh chính nghĩa thường đứng trên lập trường chân lý, lập trường của những mong ước đúng đắn, của những hoài bão về một cuộc sống tốt đẹp hơn để tuyên chiến với giai cấp đối kháng của mình. Nên xung đột xã hội gay gắt không chỉ có ở trong truyện cười mà còn phổ biến trong cả truyện ngụ ngôn là vì vậy. 3. Kết cấu: Dung lượng một truyện ngụ ngôn thường rất ngắn và rất gọn. Truyện ngụ ngôn chỉ nêu ra một tình huống, một hoàn cảnh mà trong đó diễn ra một hành động của một hoặc một vài nhân vật nhằm minh họa cho một điều răn dạy nào đấy của dân gian. Điều răn dạy ấy đôi khi rất đơn giản mà vô cùng sâu sắc. Vì thế, truyện ngụ ngôn được cấu tạo như một màn kịch ngắn với tình huống, hoàn cảnh được chỉ dẫn cụ thể, nhân vật được miêu tả sắc nét. Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại hàm súc, hành động diễn ra mau lẹ. Tất cả đều rất hàm súc, cô đọng hầu như không có chi tiết lời lẽ thừa. Tuy nhiên không vì thế mà truyện trở nên khô khan, cứng nhắc, ngược lại rất sinh động và lý thú. Vì tính kịch cao như thế, ta có thể dùng bất cứ một truyện ngụ ngôn tiêu biểu nào để "chuyển thể" kịch bản. ta thử mô hình hóa một truyện ngụ ngôn làm ví dụ. Truyện "Nhìn bề ngoài dễ bị lừa", nhân vật là chú chó thích ăn trứng (vai duy nhất), chỉ dẫn về tính huống là một hôm chú chó ấy vớ được một con ốc nhồi. Diễn tiến của hành động: sau khi suy nghĩ, tự nhủ, chú đã nuốt chửng con ốc, sau đó đau bụng và tự rút ra chân lý "cứ tưởng vật gì tròn cũng đều là trứng cả!". Nói về kết cấu, ta thấy nổi bật hai kiểu truyện. Một là, ngụ ý không được diễn tả bằng lời (mà do người nghe tự rút ra sau khi truyện kết thúc). Và hai là, ngụ ý được diễn tả bằng lời (Lời ngụ ý ấy trực tiếp tham gia vào kết cấu truyện như một phần kết thúc truyện). Chẳng hạn như truyện "Người học trò và con hổ" kết thúc như sau: Hãy nhớ rằng, lòng tốt chỉ để cho những con người nhân hậu, còn đối với kẻ độc ác thì phải biết cách trừng trị, không nên lầm lẫn giữa người tốt với kẻ ác độc 4. Thực tại và hư cấu: Không giống như truyện cổ tích loài vật, câu chuyện kể được hư cấu nghệ thuật một cách không có ý thức. Nói cách khác, trong truyện cổ tích loài vật, các quan niệm cổ (như vạn vật nhất thể, vạn vật tương giao...) chi phối thực tế của câu chuyện kể. Trái lại, truyện ngụ ngôn là sản phẩm của hư cấu. Hư cấu ngụ ngôn chịu sự chi phối của tư duy suy lý (tức bày ra một câu chuyện cốt để minh họa cho một ý tưởng có sẵn). Vì thế cho nên, nghe xong một câu chuyện ngụ ngôn, không ai đặt vấn đề tìm hiểu xem chuyện kể ấy phản ánh thực tế thực tại nào, dù là "chuyện vật" hay "chuyện người". Tuy nhiên, phần nghĩa đen của truyện ngụ ngôn ít nhiều cũng mang đến cho người đọc những hiểu biết về đặc tính của con vật, tâm lý, tính cách của con người. 5. Lời kể: Nói đến lời kể của truyện ngụ ngôn là nói đến tính chất cô đúc, hàm súc, ngắn gọn như một câu tục ngữ. Bên cạnh đó, truyện ngụ ngôn không thể thiếu tính chất châm biếm trong giọng điệu lời kể (nhẹ nhàng hoặc sâu cay) để người đọc tự đúc rút ra chân lý từ kinh nghiệm thực tiễn mà đa phần là từ những sai lầm thất bại. Lý giải vì sao phần lớn truyện ngụ ngôn đều có giọng điệu châm biếm hoặc nhẹ nhàng hoặc sâu cay trong khi nội dung của nó luôn đề cập đến những điều răn dạy có ý nghĩa tích cực? Con chó thích ăn trứng phải trả giá vì nó tưởng phàm vật gì tròn đều là trứng cả; chân lý mà chú cừu non kịp nhận thức được đã bị dìm trong máu của chính chú... Truyện ngụ ngôn, tự giác hay không tự giác, đã phản ảnh con đường thực tế của sự tiếp cận chân lý: Chân lý chỉ có thể được đúc rút từ kinh nghiệm, từ hoạt động thực tiễn, qua những sai lầm thất bại, và từ cuộc đấu tranh với ngụy lý. Truyện ngụ ngôn, nhất là truyện ngụ ngôn dân gian, thường không ban phát chân lý. Đó có thể là cơ sở và ý nghĩa của tính chất châm biếm trong giọng điệu truyện ngụ ngôn.
File đính kèm:
- tai_lieu_van_hoc_dan_gian_viet_nam_tran_tung_chinh_phan_1.pdf