Tập bài giảng Nhân học ứng dụng - Nguyễn Văn Tiệp (Phần 1)

Tóm tắt Tập bài giảng Nhân học ứng dụng - Nguyễn Văn Tiệp (Phần 1): ...hiệm của chúng ta. Quá trình phát triển các tranh luận rất đau đớn và phiền toái. Nhìn lại vấn đề, rất nhiều học giả được tôn kính đã bị kết tội một cách bất công. Tuy nhiên, hiểu biết nâng cao có thể là đáng giá. 2. Vấn đề riêng tư Quá trình điền dã phần lớn dựa trên sự vượt quá những ran... tham gia thụ động. - Người dân không được hưởng lợi ích tối đa mà người ngoài cộng đồng hưởng lợi - Năng lực người dân địa phương được nâng cao. - Người dân tham gia chủ động, sáng tạo. - Phù hợp với nguyện vọng người dân. - Người dân địa phương được hưởng lợi Hai dự án minh họa: ...gười dân địa phương, sử dụng các chỉ tiêu và sự đánh gia của họ, hiểu và đánh giá được các kiến thức của người dân địa phương ( kiến thức bản địa) - Linh hoạt, mềm dẻo trong nội dung và phương pháp. - Khuyến khích và động viên cổ vũ mọi người cùng tham gia để khám phá, tìm hiểu để xác định...

pdf154 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 204 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tập bài giảng Nhân học ứng dụng - Nguyễn Văn Tiệp (Phần 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c dù những ích lợi về sức 
khoẻ của việc nuôi con bằng sữa mẹ đã được đề cập đến trong các tài liệu của 
chương trình, nhưng những lợi ích về mặt tình cảm đã được nhấn mạnh đến bởi 
vì hầu hết chúng được phân biệt một cách rõ ràng từ chính sức cạnh tranh của nó 
– là chuyện nuôi con bằng bình. Nuôi con bằng sữa mẹ được xác định là cách 
mà các gia đình có thể thấy được mơ ước của họ về việc thiết lập một mối quan 
hệ đặc biệt với con của mình và cuộc vận đồng có tên đặt biểu tượng – “Sự yêu 
thương sẽ tạo nên việc nuôi con bằng sữa mẹ”. Các tài liệu chương trình nhấn 
mạnh đến vai trò của mạng lưới hỗ trợ của các thành viên trong gia đình, bạn bè 
và người dân nói chung cũng góp phần trong khả năng của một người mẹ trong 
việc cho con bú. Chiến lược này phù hợp với công việc ban đầu của chương 
trình Sự khởi đầu tốt nhất và thể hiện một sự khởi đầu quan trọng từ các cách 
tiếp cận sức khoẻ công cộng theo truyền thống mà trong đó việc nuôi con bằng 
sữa mẹ đã được tăng cường như là một lựa chọn y tế bắt nguồn từ những lợi ích 
về sức khoẻ. 
Chiến lược giá đặc biệt quan trọng trong dự án Sự hỗ trợ yêu thương. Như 
đã được lưu ý ở trên, nhiều phụ nữ không sẵn lòng trả tiền cho những ích lợi 
nuôi con bằng sữa mẹ. Do đó, mục tiêu chính của dự án là giảm chi phí cho việc 
nuôi con bằng sữa mẹ bằng cách hướng dẫn các nhà cung cấp dịch vụ sức khoẻ 
sử dụng chiến lược tư vấn 3 bước để xác định nhanh những chi phí thấy được và 
giúp người mẹ phát triển các cách thức riêng để vượt qua những vấn đề mà họ 
dự đoán trước rằng nó có thể xảy ra. Thông tin chung và những tài liệu giáo dục 
người tiêu dùng được đề xuất để thay đổi thái độ của công chúng về việc nuôi 
146 
con bằng sữa mẹ và thay đổi những quan điểm sai lạc chống đối những hy sinh 
cần phải có đối với việc nuôi con bằng sữa mẹ. 
Chiến lược phân phối đã phác họa ra các môi trường khác nhau, trong đó 
người phụ nữ và những thành viên mạng lưới xã hội của họ tìm kiếm thông tin 
về việc cho trẻ sơ sinh ăn. Kế hoạch đã phác thảo các chiến lược tiếp cận phụ nữ 
trong và ngoài môi trường WIC. Thí dụ, nhóm nhân viên của dự án Sự khởi đầu 
tốt nhất bắt đầu làm việc gần gũi với một dự án mang tên Sáng kiến về bệnh 
viện thân thiện cho trẻ em nhằm ủng hộ những thay đổi trong các quy định hạn 
chế nuôi con bằng sữa mẹ nơi công cộng và trong sở làm. Dự án với chủ đề là 
“Sự hỗ trợ yêu thương tạo ra việc nuôi con bằng sữa mẹ” – và các tài liệu trên 
phương tiện truyền thông đại chúng được thiết kế để rút ra những suy luận về sự 
hỗ trợ từ gia đình, bạn bè và nói rộng ra là công chúng đối với phụ nữ là những 
người cho con bú. 
Chiến lược chiêu thị mô tả về những cách thức đặc biệt và những hoạt 
động được đề xuất để tạo ra sự thay đổi dễ dàng hơn (thí dụ như sự thay đổi về 
lập pháp, sự thay đổi về phát triển chính sách và tổ chức, đào tạo chuyên nghiệp, 
các chương trình cố vấn cho người đồng lứa, phát triển chương trình giảng dạy, 
giáo dục người tiêu dùng, giao tế cộng đồng, tiếp thị trực tiếp, quảng cáo, truyền 
thông trực tiếp, ủng hộ truyền thông và ủng hộ thường dân). Những chỉ dẫn cho 
việc thiết kế thông điệp được chuẩn bị để hỗ trợ cho một đại lý quảng cáo trong 
việc phát triển những tài liệu chiếu trên ti vi, đài truyền thanh, sự kiện ngoài trời 
và những tài liệu in. Những chỉ dẫn này đã thu hút về mặt cảm xúc với một 
giọng điệu lạc quan và hân hoan, bằng họa tiết trong cách trưng bày, và mời các 
gia đình tham gia với tư cách là người phát ngôn đại diện. 
Phát triển chương trình và sự cấu trúc 
Dự án Sự khởi đầu tốt nhất hợp đồng với một hãng quảng cáo để thiết kế 
và phát triển những cái phục vụ cho chiến dịch. Một nhà thiết kế hướng dẫn 
được thuê làm để hỗ trợ thiết kế lại chương trình tư vấn 3 bước ban đầu đã được 
phát triển trong cuối những năm 1980. Áp dụng những chỉ dẫn này, công ty 
quảng cáo phát triển 5 nội dung của chiến dịch, mỗi nội dung có “một tìm 
147 
kiếm”, giọng điệu, những thông điệp chung, màu sắc riêng, cách in chữ và hình 
ảnh riêng biệt. Một nội dung được loại ra sau khi nhóm nhân viên cân nhắc bởi 
nó không phù hợp với chiến lược tiếp thị và 4 nội dung đã được kiểm tra trước 
đó với những người tham gia WIC và những thành viên của những nhân viên. 
Các cuộc phỏng vấn cá nhân được sử dụng hơn là phỏng vấn nhóm tập trung để 
ngăn “suy nghĩ theo số đông” và khuyến khích đánh giá thực chất về những cái 
hỗ trợ cho tiếp thị. Dựa trên vòng kiểm tra đầu tiên, hai nội dung đã được loại ra 
và được xem xét lại để kiểm tra xa hơn nữa. Vòng kiểm tra trước lần thứ hai 
được tiến hành trong 5 bang thí điểm và bang Florida cho tới khi nó trở nên rõ 
ràng, hoạt động hiệu quả nhất trong tất cả các vùng. 
Nội dung cuối cùng được ứng dụng sau đó là tạo ra những cái phục vụ 
chiến dịch như sau: 
 3 đoạn quảng cáo trên truyền hình 30 giây bằng tiếng Anh và một 
bằng tiếng Tây Ban Nha. 
 3 đoạn quảng cáo trên đài phát thanh, hai đoạn bằng tiếng Anh và 
một đoạn bằng tiếng Tây Ban Nha. 
 Hai bảng quảng cáo ngoài trời bằng tiếng Anh và tiếng Tây Ban 
Nha. 
 9 áp phích quảng cáo, hướng mục tiêu vào các nhóm dân tộc cơ bản 
trong WIC (cả tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha); 
 9 cuốn sách hướng dẫn mỏng, hướng mục tiêu vào nhóm dân tộc cơ 
bản trong WIC (tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha); 
 9 cuốn sách thông tin cho nhóm nhân viên WIC; 
 1 cuốn Hướng dẫn nguồn lực nuôi con bằng sữa mẹ; 
 1 cuốn Hướng dẫn việc tăng cường nuôi con bằng sữa mẹ; 
 1 túi nhỏ đồ nghề hỗ trợ nhóm nhân viên WIC gấp vào để giữ sách 
Hướng dẫn nguồn nuôi con bằng sữa mẹ, sách Hướng dẫn tăng cường việc nuôi 
con bằng sữa mẹ và sách thông tin cho nhân viên của WIC; 
 1 cuốn sách nhỏ cho các gia đình người Mỹ bản địa; và 
148 
 Bộ đồ nghề hỗ trợ việc tăng cường nuôi con bằng sữa mẹ cho các 
nhà cung cấp dịch vụ sức khoẻ và các bác sĩ, một bộ đồ nghề đầy đủ dành cho 
những cái hỗ trợ việc đẩy mạnh nuôi con bằng sữa mẹ để giúp các nhà cung cấp 
dịch vụ sức khoẻ trong việc tăng cường nuôi con bằng sữa mẹ. 
Đối với các quảng cáo trên truyền hình và những tấm hình được sử dụng 
trong truyền thông in ấn, người có tài được sắp xếp làm đại diện cho ba nhóm 
tộc người được nhắm vào mục tiêu cho chiến dịch này (những người Mỹ gốc 
Ănglê, những người Mỹ gốc Phi, những người Mỹ gốc Tây Ban Nha và Bồ Đào 
Nha). Mỗi khi có thể, những người tham gia trong WIC được bố trí là người có 
năng lực để tạo ra các tài liệu in và tài liệu điện tử 
Sự thực hiện chương trình 
Bình phẩm về sự thành công của chương trình chính là sự đào tạo cẩn 
thận của các nhân viên WIC - những người thực hiện chương trình ở cấp độ 
bang và ở cấp độ địa phương. Một cuộc hội nghị về công tác đào tạo được tổ 
chức cho các nhóm đến từ 30 nước. Cuộc hội nghị bao gồm: 
 các kết quả nghiên cứu của dự án Tăng cường nuôi con bằng sữa 
mẹ mang tính quốc gia WIC, 
 xem xét lại gói truyền thông, Hỗ trợ yêu thương tạo ra việc nuôi 
con bằng sữa mẹ, 
 làm việc với phương tiện truyền thông đại chúng, 
 sử dụng các kênh truyền thông phi truyền thống, 
 bố trí hình thành việc tăng cường nuôi con bằng sữa mẹ trong cộng 
đồng, 
 cách tiếp cận mới mẻ và rõ ràng đối với việc tăng cường nuôi con 
bằng sữa mẹ và xây dựng nhóm; và 
 chuẩn bị cho việc thực hiện dự án. 
Những kỹ năng đặc biệt xuất hiện bất thình lình trong các phần và trong 
các phần lên kế hoạch nhóm cho phép WIC phát triển kế hoạch làm việc cho các 
bang của họ. Khi những người tham dự kết thúc hội nghị, họ rời phòng hội nghị 
với một phác thảo về kế hoạch của bang cho việc thực hiện. Chương trình được 
149 
bắt đầu trong Tuần lễ nuôi con bằng sữa mẹ thế giới (từ ngày 1-7/8/1997) với 
một hội nghị ở Washington D.C. Tiếp thị xã hội , dự án Sự khởi đầu tốt nhất đưa 
đến sự hỗ trợ về kỹ thuật cho các bang thí điểm và nhiều chương trình WIC 
thuộc các vùng, địa phương và các bang khác đang thực hiện phần nào đó hay 
tất cả các phần của chiến dịch. Và trong nỗ lực thể chế hoá nhiều đề xuất về 
chính sách của kế hoạch tiếp thị thì có Giám đốc điều hành của dự án Sự khởi 
đầu tốt nhất là Jim Lindenberger đang làm việc trong Ủy ban nuôi con bằng sữa 
mẹ Hoa Kỳ và ban lãnh đạo cho Sáng kiến về bệnh viện thân thiện cho trẻ em. 
 Giám sát và lượng giá 
Mặc dù những tài liệu của chương trình hay những hoạt động đã được 
thực hiện trong tất cả 50 bang và nhiều vùng ở Hoa Kỳ, nhưng chỉ có một bang 
nhận được những tài trợ về tài chính cho việc lượng giá xuyên suốt của chương 
trình Hỗ trợ yêu thương tạo ra việc nuôi con bằng sữa mẹ. Ở Mississippi, một 
kế hoạch gần như là dựa trên kinh nghiệm đã được tiến hành gồm có 13 phòng 
khám can thiệp và 13 phòng khám so sánh đối nghịch đã áp dụng đánh giá 
chương trình. Ở những nơi có sự can thiệp, chương trình Sự hỗ trợ yêu thương 
được thực hiện toàn diện bao gồm cả giáo dục bệnh nhân và giáo dục gia đình, 
hiểu biết chung về chiến dịch, health professional outreach, và sự cộng tác với 
cộng đồng. Trong những nơi so sánh, các gia đình được hướng vào những khía 
cạnh hạn chế của chương trình. Mặc dù là tương tự với việc thực hiện chương 
trình trước đây nhưng sau này, những nơi được can thiệp có hòan cảnh thực tế 
tốt hơn đáng kể so với những nơi được giám sát về quan điểm của phụ nữ đối 
với các ích lợi của việc nuôi con bằng sữa mẹ, những rào cản, về sự hỗ trợ từ 
những nhà cung cấp sức khoẻ và họ hàng; hiểu biết của các nhân viên WIC về 
việc nuôi con bằng sữa mẹ và hiệu quả trong việc tăng cường nuôi con bằng sữa 
mẹ; và về những khía cạnh của môi trường trong phòng khám làm cho việc nuôi 
con bằng sữa mẹ trở nên thuận tiện hơn. Tuy nhiên, quan trọng nhất là tác động 
của chương trình lên tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ. Sau khi thực hiện chương 
trình, tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ trong những nơi có sự can thiệp (44,8% ở bệnh 
viện cho về và 30,8% 4 tháng postpartum) cao hơn đáng kể so với những nơi có 
150 
sự kiểm soát (30,9% ở bệnh viện cho về và 18,9% ở 4 tháng postpartum. Hơn 
nữa, việc nuôi con bằng sữa mẹ trong bệnh viện tăng từ 37% lên 48% và nuôi 
con bằng sữa mẹ 6 tháng ở postpartum nhảy từ 10% lên 19%, so với sự gia tăng 
nhỏ hơn nhiều ở Louisiana và Alabama là nơi mà chương trình được thực hiện 
kém toàn diện hơn. 
Chương trình tiếp thị Hỗ trợ yêu thương minh họa cho việc làm sao tiếp 
thị xã hội có thể được ứng dụng để lên kế hoạch một chiến lược làm thay đổi xã 
hội đối với việc tạo ra sự tự thay đổi hành vi theo hướng có lợi. Nó cũng nêu bật 
vai trò của các nhà nhân học trong tiến trình tiếp thị xã hội. 
Điểm cốt lõi của cách tiếp cận tiếp thị xã hội là giả định rằng hiểu biết về 
những giá trị của người tiêu dùng và những nguyện vọng cần để phát triển 
chương trình mà người dân thực sự muốn và sẽ sử dụng. Các nhà nhân học đóng 
một vai trò quan trọng trong cả việc tiến hành nghiên cứu hình thành mà các 
chiến lược phù hợp về mặt văn hoá có thể được xây dựng và đề xuất các chiến 
lược thay đổi văn hóa có hiệu quả. Các tổ chức tiếp thị xã hội quay sang tìm các 
nhà nhân học bởi do cách tiếp cận chính thể luận của ngành học, các nhà nhân 
học cũng thành thạo các phương pháp nghiên cứu định lượng và hiểu biết về sự 
thay đổi văn hoá. 
Ví dụ 2: Tiếp thị xã hội trong việc sử dụng thuốc tránh thai tại khu 
vực phía Nam: từ miễn phí đến tự mua dùng 
 Đây là nội dung của cuộc Hội thảo ngày 31/3/2009 tại thành phố Hồ Chí 
Minh của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình: “Về việc sử dụng thuốc 
tránh thai trong chương trình Kế hoạch háo gia đình và triển khai tiếp thị xã hội 
các phương pháp tránh thai khu vực phia Nam” được lấy từ báo điện tử: Gia 
đình.net. 
Hội thảo đánh giá tình hình hoạt động tiếp thị xã hội và việc sử dụng 
thuốc tránh thai thông qua báo cáo của các đại biểu, để Hội thảo có những đánh 
giá, bàn luận và đưa ra những hướng giải quyết tốt hơn cho những dự án tiếp 
theo. 
151 
 Mục đích của việc tiếp thị xã hội về việc sử dụng thuốc tránh thai tại các 
tỉnh này là mong muốn người dân có được những kiến thức về kế hoạch hóa gia 
đình và ngoài việc được tổ chưc phát thuốc miễn phí khì thông qua hoạt động 
tiếp thị này. Dự án mong muốn các cặp vợ chồng cũng nên chủ động mua thuốc 
tránh thai, có những cách khác nhau để phòng ngừa việc mang thai ngoài ý 
muốn. 
 Kết quả quan trọng nhất của chương trình tiếp thị xã hội là các phương 
tiện tránh thai ở Việt Nam đã tạo ra sự chuyển đổi ý thức và hành vi của người 
dân đã quen với phương thức cung cấp miễn phí, bao cấp hòan toàn các phương 
tiện tránh thai và chi phí các dịch vụ KHHGĐ trong hơn 30 năm trước đây ( từ 
1961-1994) nhưng ngày nay lại chấp nhận tự mua phương tiện tránh thai ( như 
bao cao su, các viên thuốc tránh thai) để thực hiện kế hoạch hóa gia đình và 
phòng chống HIV/AIDS. Sự chấp nhận đó ngày càng gia tăng trong cộng đồng 
và một bộ phận lớn khách hàng của chương trình DS-KHHGĐ Việt Nam. 
Hoạt động tiếp thị về thuốc tránh thai ở Đồng Nai. 
Theo báo cáo của tình hình thực tế tại tỉnh, thì tỷ lệ các cặp vợ chồng áp dụng 
biện pháp tránh thai hiện tại của Đồng Nai đã tăng từ 71% năm 2006 lên 73% 
năm 2008. Trong khi đó tình hình cung ứng các loại phương tiện tránh thai của 
Trung ương năm 2007 – 2008 cho Đồng Nai có sự thiếu hụt trầm trọng so với 
năm 2006, đặc biệt là thuốc uống viên tránh thai và bao cao su, dẫn đến sự gia 
tăng tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn, cản trở nổ lực giảm sinh của địa phương. 
Đặc biệt, hạn chế việc kiểm soát lây lan nhanh của đại dịch HIV/AIDS. Tại 
Đồng Nai đã chọn 3 địa bàn là huyện Thống Nhất, Xuân Lộc, Tân Phú và một 
số nhà thuốc có khả năng tiếp thị để tiếp tục dự án. Báo cáo cho biết, Ban quản 
lý dự án tổ chức tập huấn cho cán bộ huyện, xã, người bán lẻ thực hiện các hợp 
đồng quảng cáo trên banô, báo, đài..Ban quản lý đã phối hợp với ban giám hiệu 
các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trên địa bàn tổ chức 15 lớp tuyên 
truyền kiến thức về kế hoạch hóa gia đình cho 1.200 nữ sinh viên; tiếp nhận và 
phân phối 200 hộp (5.000 vỉ) viên uống thuốc tránh thai New Choice đến 11 
huyện, thị xã, thành phố Biên Hòa để cán bộ chuyên trách và cộng tác viên bán 
152 
cho các đối tượng có nhu cầu. Mặt khác, tổ chức nhiều buổi tuyên truyền kiến 
thưc về kế hoạch hóa gia đình và các phương tiện tránh thai cho công nhân các 
nhà máy. 
 Ban quản lý cũng cho biết, sắp tới sẽ xây dựng kế hoạch phối hợp DKT ( 
Tổ chức phi chính phủ của Mỹ về tiếp thị xã hội các phương tiện tránh thai) 
thành một hệ thống bán hàng tiếp thị xã hội 50.000 vỉ thuốc (2.000 hộp) tránh 
thai New Choice thông qua hệ thống cộng tác viên dân số của tỉnh. 
Đánh giá dự án 
- Nhóm khách hàng 
Theo báo cáo trên thì nhóm khách hàng chủ yếu ở đây là các cặp vợ chồng 
, những người đang sinh sống trên tỉnh Đồng Nai, những công nhân làm việc 
trong nhà máy, nữ sinh viên trong tỉnh là những đối tượng mà dự án nhắm tới, 
muốn thay đổi nhận thức, thái độ của họ trong ciệc chủ động sử dụng các 
phương tiện tránh thai trong đó có thuốc tránh thai. 
Hình thành chiến lược 
Dự án đã chọn 3 huyện làm nơi tiếp thị, đã xây dựng sự liên kết giữa những 
người có trách nhiệm trong huyện, xã, những người có khả năng tiến hành dự 
án, hình thành những nhóm cộng tác viên đã có sự phân khúc các khách hàng 
cần nhắm tới. 
 Thông qua việc tiếp thị, các loại thuốc tránh thai, ngoài việc phát thuốc 
miễn phí, tuyên truyền, giáo dục về sức khỏe, sinh sản thì các dự án còn chủ 
trương bán thuốc tránh thai cho người dân với giá rẻ hơn so với thị trường để từ 
đó người dân từ chỗ được phát miễn phí đến tự mua để dùng. 
Phát triển chương trình 
 Dự án đã tận dụng các ưu điểm của truyền thông như đài phát thanh, 
panô, áp phíchphối hợp với các cơ sở bán thuốc tại địa phương để tuyên 
truyền, giới thiệu các loại thuốc tránh thai và tác dụng của chúng khi sử dụng, 
đặc biệt là tuyên truyền cho người dân có thói quen sử dụng thuốc và nó không 
có hại như nhiều người vẫn nghĩ sử dụng thuốc tránh thai có hại cho sức khỏe và 
có thể gây vô sinh. Bên cạnh đó, chương trình đã thực hiện được việc phát thuốc 
153 
miễn phí cho người dân và tuyên truyền cho người dân có ý thức chủ động trong 
việc đến các cơ sở bán thuốc để mua thuốc dùng. Và qua dự án tiếp thị này, các 
nhà thực hiện việc bán sản phẩm thuốc tránh thai đối với nhóm khách hàng có 
nhu cầu với giá rẻ hơn thị trường. Chính vì vậy, mà chương trình đã phối hợp 
với các nhà thuốc, những cán bộ chuyên trách thiết lập một hệ thống bán hàng 
rộng rãi, nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. 
Giám sát kiển tra chương trình 
Dự án tiếp thị xã hội của tỉnh Đồng Nai bước đàu có kết quả khả quan, nhưng 
việc người dân vẫn còn e ngại với đối với các loại sản phẩm này. Đa số họ ngại 
khi đi mua các sản phẩm tránh thai. Vấn đề kinh tế cũng là yếu tố quan trọng 
làm cho người dân không sử dụng nhiều phương tiện tránh thai. Ngoài ra còn có 
yếu tố văn hóa, nhiều gia đình không có con trai nên muốn sinh con trai để nối 
dõi. Người dân cũng đã quen với việc phát các sản phẩm tránh thai miễn phí, ít 
khi họ chủ động đến các hiệu thuốc để mua. 
+ Mặt tích cực: Dự án tiếp thị về việc sử dụng thuốc tránh thai tỉnh Bình 
Dương cũng là hoạt động tiếp thị xã hội, nhắm tới đối tượng khách hàng cơ bản 
là nữ giới, cả những người chưa lập gia đình và có gia đình là công nhân, sinh 
viên. Điều này chot thấy dự án tác động đếncả khách hàng cụ thể và những 
khách hàng tiềm năng, để qua đó vừa tránh lại vừa phòng các vấn đề liên quan 
đến sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình cho người dân. 
 Thông qua các hoạt động giáo dục tuyên truyền, nêu ra các tác dụng của thuốc 
ngừa thai là rất hữu ích cho phụ nữ, trong việc phòng ngửa thai ngoài ý muốn, 
thông qua đó để thay đổi hành vi của họ trong việc kế hoạch hóa gia đình, để từ 
đó nhóm khách hàng này có được những kiến thức cơ bản nhất về vấn đề phòng 
tránh thai và chủ động hơn trong vấn đề này, để từ đó có sự chuyển biến trong 
nhận thức của từng đối tượng khách hàng. 
 Các nhà thực hiện dự án đã sử dụng các nguyên tắc trong tiếp thị thương 
mại như: thông qua các phương tiện truyền thông như panô, áp phích, đài phát 
thanh, tiến hành phát thuôc miễn phí kết hợp với những người liên quan thiết kế 
154 
những chỉ dẫn giáo dục sức khỏe, phân tích các hành vi nhóm khách hàng của 
mình để dự án có được kết quả khả quan. 
 Mục tiêu của sự tiếp thị này không phải nhắm vào lợi nhuận cho bất kể 
một công ty, tập đoàn sản xuất thuốc tránh thai, hay bao cao su nào mà mục đích 
của nó là hướng tới việc thay đổi hành vi nhận thức của người dân về việc sử 
dụng các phương tiện tránh thai hiện đại, để tránh tình trạng sinh đẻ vỡ kế hoạch 
là nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự bùng nổ dân số. 
 Thông qua đó, dự án mong muốn người dân nhất là chị em phụ nữ có 
được sự chủ động trong việc phòng ngừa tình trạng mang thai ngoài ý muốn và 
tự bảo vệ sức khỏe cho chính mình. 
+ Mặt hạn chế: Dự án chỉ mới tập trung vào nhóm khách hàng cơ bản là 
những đối tượng mà dự án muốn thay đổi hành vi là chị em phụ nữ của tỉnh, 
thay vì trước đây không sử dụng thuốc tránh thai, thì nay đã sử dụng. còn các 
đối tượng nhóm khách hàng thứ cấp như chồng, bạn trai, cha mẹ của nhóm đối 
tượng này không được đề cầp nhiều, vì những khách hàng thứ cấp này cũng 
đóng một vai trò quan trọng trong việc thay đổi hành vi của nhóm khách hàng 
cơ bản. 
Hạn chế nữa là tiếp thị chưa rộng rãi, chỉ mới dững lại ở 3 huyện và các 
phương tiện truyền thông còn mỏng, quá trình thực thi chưa đồng nhất giữa các 
tỉnh, chưa có sự nghiên cứu sâu rộng, do vậy mức độ thành công của dự án chưa 
cao 
 Ngoài ra dự án cũng chưa tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của việc người 
dân tại sao họ ít sử dụng thuốc tránh thai? Những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi 
của họ trong việc không sử dụng thuốc tránh thai, để chủ động hơn trong việc 
thực hiện kế hoạch hóa gia đình. 
Tóm tắt 
Tiếp thị xã hội ứng dụng những nội dung của tiếp thị và nghiên cứu tiếp 
thị để thay đổi văn hoá. Hầu như, nó được ứng dụng trong lĩnh vực sức khoẻ 

File đính kèm:

  • pdftap_bai_giang_nhan_hoc_ung_dung_nguyen_van_tiep_phan_1.pdf