Tiểu luận Virus prrs và protein tái tổ hợp N ứng dụng trong chẩn đoán

Tóm tắt Tiểu luận Virus prrs và protein tái tổ hợp N ứng dụng trong chẩn đoán: ...n xuất vaccine. 3. Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở heo PRRSV gây hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn. Trước kia PRRSV chủ yếu gây bệnh trên heo con và gây tỉ lệ tử vong khá thấp (Ở Châu Âu là khoảng 1%) nhưng gần đây biến chủng mới tại Trung Quốc gây bệnh trên cả heo con và... phát hiện kháng thể PRRS kháng protein N sản phẩm của ORF7 chính vì thế cần một lượng lớn kháng nguyên là protein N dùng trong các kit chẩn đoán này. Nhưng hiện tại có một hạn chế là PRRSV thường khó nuôi trên môi trường tế bào. Chúng chỉ phát triển tốt trên môi trường đại thực bào túi phổi ...đem đi phân tích miễn dịch kết tủa (immunoprecipitation). Miễn dịch kết tủa và điện di: kiểm tra protein tái tổ hợp bằng phương pháp miễn dịch kết tủa và điện di, protein tái tổ hợp đã được đánh dấu phóng xạ được miễn dịch kết tủa với huyết thanh kháng LV; peptide đặc hiệu N, huyết thanh m...

pdf16 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 319 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tiểu luận Virus prrs và protein tái tổ hợp N ứng dụng trong chẩn đoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u Mỹ dao động từ 52 đến 81%. Việc giải mã trình tự 
nucleotide của từng ORF là cơ sở dữ liệu phân tử quan trọng cho phép xác định 
và sử dụng trình tự nào trong việc so sánh, chẩn đoán phân biệt các dòng 
PRRSV cũng như xác định sự tiến hóa của chúng. Ví dụ qua phân tích gene và 
theo dõi sự thay đổi trình tự nucleotide của các dòng PRRSV người ta đã xác 
định được rằng ở PRRSV dòng Châu Mỹ, các ORF 6 và 7 có tính ổn định rất 
cao, chúng gần như không thay đổi trong suốt quá trình tiến hóa của dòng virus 
này. Tuy nhiên sự khác biệt giữa dòng virus PRRS Châu Âu và Châu Mỹ ở hai 
khung đọc mở này là rất rõ, chẳng hạn sự tương đồng về trình tự acid amin của 
ORF7 giữa hai dòng virus này chỉ vào khoảng 57-59% và của ORF6 là 70-
81%. Trong khi đó khung đọc mở ORF5 lại biến đổi nhiều giữa các chủng 
trong cùng một dòng Châu Mỹ (giống nhau chỉ từ 88-97%) và chỉ tương đồng 
với dòng Châu Âu khoảng từ 51-59%. Các epitope trung hòa chính nằm trên 
protein quy định bởi ORF5, tuy có sự biến động lớn trong vùng ORF5 giữa các 
chủng virus PRRS nhưng các epitope trung hòa thường có sự bảo tồn tốt giữa 
các dòng PRRS khác nhau. Các epitope trung hòa khác nằm ở trên GP3, GP4 
và protein M. Sự tương đồng về trình tự acid amin quy định do các khung đọc 
mở ORF 2, 3, và 4 giữa các dòng Châu Âu và Châu Mỹ chỉ ở mức độ từ 63, 58, 
và 68%. Sự khác biệt kiểu gene đương nhiên đưa đến sự khác biệt về kiểu hình 
và như vậy có thể dựa vào đặc điêm gene để chẩn đoán dòng virus và ngược 
lại. Đây chính là cơ sở cho việc sử dụng kỹ thuật RT-PCR, RFLP để chẩn 
 6 
đoán PRRSV và phân biệt dòng PRRSV Châu Âu và Châu Mỹ.(Nguyễn Ngọc 
Hải-công nghệ sinh học trong thú y, nhà xuất bản Nông Nghiệp, 2007) 
Gần đây tại Trung Quốc đã xuất hiện dòng mới là biến chủng của dòng Châu 
Mỹ, chủng này có độc lực cao hơn, nguyên nhân được đưa ra là do sự mất 
30acid amin của protein Nsp2, gây bệnh không chỉ cho heo con mà còn cho cả 
heo trưởng thành, gây ra tỉ lệ chết cao hơn (khoảng 20%), biến chủng này khó 
chẩn đoán và hiện chưa có vaccine đặc hiệu, đây là thách thức mới cho các nhà 
quản lý dịch bệnh cũng như cho các nhà sản xuất vaccine. 
3. Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở heo 
PRRSV gây hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn. Trước kia 
PRRSV chủ yếu gây bệnh trên heo con và gây tỉ lệ tử vong khá thấp (Ở Châu 
Âu là khoảng 1%) nhưng gần đây biến chủng mới tại Trung Quốc gây bệnh 
trên cả heo con và heo trưởng thành , ngoài ra nó cũng gây tỉ lệ tử vong cao 
hơn trong đàn heo bị nhiễm virus (khoảng 20%). Cũng như các virus khác, 
virus PRRS cũng tạo điều kiện cho các vi khuẩn khác cư trú trong cơ thể như 
liên cầu khuẩn tăng độc lực và gây bệnh. 
 7 
3.1. Triệu chứng lâm sàng 
Căn cứ vào sự biểu hiện các triệu chứng của bệnh, người ta có thể chia 
thành hai loại triệu chứng: biểu hiện của các triệu chứng rối loạn sinh sản ở heo 
nái và biểu hiện của các triệu chứng hô hấp. Các triệu chứng sinh sản bao gồm: 
heo nái bị sốt 39-40°, bỏ ăn,mệt mỏi, giảm tỉ lệ thụ thai và số con đẻ ra, sảy 
thai (tỷ lệ này có thể đến 50% trong các đàn mới bị nhiễm virus), giảm tiết sữa 
hoặc mất sữa hoàn toàn, thai gỗ, chết thai, đẻ non, chậm động dục hoặc không 
động dục trở lại, rối loạn sinh sản có thể kéo dài đến vài tháng. Biểu hiện các 
triệu chứng hô hấp bao gồm: loạn hô hấp, lợn biểu hiện đau khi thở, hắt hơi, 
tăng tần số hô hấp, thở khó, thở đứt quãng. Khi bị nhiễm virus PRRS heo con 
có tỉ lệ chết trước cai sữa cao, gầy yếu, bỏ ăn phù mắt,các nốt phồng rộp trên 
da, ỉa chảy, đi không vững và run, đứng choãi chân. Heo lớn có biểu hiện sốt 
nhẹ, bỏ ăn. Các triệu chứng khác nhẹ hơn. Heo đực giống có các biểu hiện 
giảm hưng phấn, giảm thể tích và chất lượng tinh dịch (hình thái, hoạt lực và 
nồng độ tinh trùng). 
3.2. Bệnh tích 
Đối với heo nái, ngoài các triệu chứng sảy thai, tăng tỉ lệ thai chết, heo 
mắc bệnh thường không có các bệnh tích đặc thù. 
Đối với heo con thường mang các bệnh tích rõ hơn heo trưởng thành và 
heo nái, bao gồm: dịch thẩm thấu trong đường tiêu hóa và đường hô hấp đặc 
biệt trong các phế quản, phù, thanh dịch trong xoang phúc mạc, xoang ngực, 
xoang phế mạc và tung các mạc, sưng hạch bạch huyết, da nhiều vùng có màu 
xanh tím. 
3.3. Phương thức truyền lây 
Virus thường xâm nhiễm heo thông qua đường hô hấp và xâm nhập vào 
tế bào đại thực bào của phế nang phổi rồi nhân lên ở đó, chúng kích thích tạo 
đáp ứng interferon rất ít trước khi phát tán bên trong vật chủ. Virus PRRS thích 
hợp với một loại tế bào chuyên biệt với các đại thực bào đã biệt hóa như là đại 
thực bào túi phổi heo (PAM). Tuy nhiên, cơ chế chính xác của tế bào đích và 
 8 
thông tin của thụ thể chuyên biệt cho virus PRRS cho đến nay vẫn chưa được 
hiểu tường tận. Một số thụ thể tế bào tiếp nhận PRRS đã được báo cáo, trong 
đó bao gồm thụ thể CD163 có nhiểu trên các đại thực bào như là PAM.. 
Trong suốt quá trình xâm nhiễm, PRRS tạo hội chứng bệnh rối loạn sinh 
sản và hô hấp. Virus cũng có thể truyền qua tinh dịch và đường từ mẹ sang con 
và có thể gây tử vong với tỉ lệ khá cao. PRRSV có thể tồn tại trong cơ thể heo, 
heo bị xâm nhiễm có thể phục hồi khỏi bệnh nhưng vẫn chứa virus trong thời 
gian dài và lây bệnh cho các heo chưa bị nhiễm khác qua tiếp xúc trực tiếp 
hoặc gián tiếp. 
Tiếp xúc giữa heo ốm và heo khỏe là đường truyền lây chính của bệnh 
nên bệnh có thể lây giữa các cá thể trong một đàn hay từ đàn này sang đàn khác 
(nếu heo bị bệnh được chuyển đàn, chuyển trại...). 
Heo mang virus có thể giải phóng virus trong thời gian 3-4 tháng gây 
khó khăn cho công tác theo dõi và phát hiện và khống chế bệnh. 
Tinh dịch lợn mang trùng cũng có khả năng nhiễm virus vì vậy bệnh có 
thể truyền qua đường sinh dục. 
Vi rút PRRS có trong dịch mũi, nước bọt, tinh dịch, phân và nước tiểu 
của lợn bị bệnh, vi rút có thể phát tán theo gió, không khí (xa trên 3km), nước, 
hoặc dụng cụ bảo hộ lao động, dụng cụ chăn nuôi và chim hoang truyền dẫn... 
Virus có mặt trong hạch lâm ba, phổi với số lượng lớn hơn nhiều trong 
thịt và có khả năng giữa được độc lực trong điều kiện lạnh (khi giữa thức ăn). 
Tuy vậy, khả năng truyền bệnh do cho ăn các phụ phẩm trong quá trình giết mổ 
các gia súc bênh chưa được xác định. Tuy nhiên, tốt hơn hết nên cách ly toàn 
bộ đàn lợn có nguy cơ với mọi loại nguồn bệnh và không cho ăn các nội tạng từ 
lợn nghi mắc bệnh. 
B. Tổng quan về protein tái tổ hợp dựa trên ORF7 và ứng dụng trong chẩn đoán 
1. Giới thiệu 
Trong 3 protein cấu trúc chính của PRRSV thì người ta nhận thấy rằng 
N protein quy định bởi ORF 7 hiện diện với số lượng lớn nhất trong phân tử 
 9 
virion của PRRS và huyết của heo bị xâm nhiễm bởi PRRS phản ứng mạnh với 
N protein, hầu hết kháng thể đơn dòng thu được từ chuột bị cho nhiễm PRRS 
bán tinh sạch nhận biết đặc hiệu với N-protein. Ngoài ra qua nghiên cứu ORF 7 
mã hóa cho Protien N có cấu trúc ổn định và được bảo tồn cao. Chính vì thế 
nên N protein được xem là ứng viên sáng giá trong việc phát hiện chẩn đoán 
heo bị nhiễm PRRS. Hiện nay người ta đã phát triển các kit thương mại chẩn 
đoán PRRS dựa trên ORF7. ELISA là phương pháp thông dụng và tin cậy 
trong phát hiện chẩn đoán PRRS hiện nay, người ta thường dùng ELISA để 
phát hiện kháng thể PRRS kháng protein N sản phẩm của ORF7 chính vì thế 
cần một lượng lớn kháng nguyên là protein N dùng trong các kit chẩn đoán 
này. Nhưng hiện tại có một hạn chế là PRRSV thường khó nuôi trên môi 
trường tế bào. Chúng chỉ phát triển tốt trên môi trường đại thực bào túi phổi 
heo (PAM) và một số dòng tế bào thận khỉ Châu Phi, tuy nhiên, hiện tại người 
ta chưa thành công trong việc tuyển lựa các dòng tế bào này trong nuôi cấy 
nhân tạo. Các dòng tế bào thận khỉ thường không nhạy cảm cho tất cả các 
chủng virus PRRS. Chính vì thế phương pháp sản xuất protein tái tổ hợp cho 
PRRSV là hướng đi đúng và mang lại nhiều ưu điểm, đặc biệt sản xuất protein 
tái tổ hợp N mã hóa bởi ORF7 mang tính ứng dụng cao trong các thử nghiệm 
như dùng làm vật liệu trong các kit chẩn đoán ELISA. Sản xuất protein N tái tổ 
hợp mở ra khả năng tạo số lượng lớn kháng nguyên dùng làm vật liệu trong 
chẩn đoán nhất là khi dịch bệnh bùng phát. Sản xuất protein tái tổ hợp cũng 
góp phần khắc phục được nhược điểm hiện tại là khó nuôi cấy PRRSV trên môi 
trường tế bào như đã nêu ở trên. 
2. Cấu trúc phân tử của Protein N 
Protein N gồm năm vùng cấu trúc chính và có cấu hình xoắn α-helix. 
Vùng I: nằm ở vị trí của vùng amino-terminal giữa amino acid thứ 18 và 
52. Bao gồm vùng quan trọng quyết định yếu tố kháng nguyên nằm giữa amino 
acid thứ 30 và 52. Vùng này được nhận diện đặc hiệu bởi kháng thể đơn dòng 
SDOW17 và SDOW17 là kháng thể đơn dòng duy nhất để phát hiện, nhận diện 
một epitope chung cho hầu hết các chủng virus PRRS Châu Âu và Bắc Mỹ, 
 10 
epitope này nằm ở vị trí bên trong vùng bảo tồn của N protein, cấu hình của 
vùng này ở dạng cấu hình xoắn helical, kị nước. 
Vùng II: từ amino acid 37 đến 52, bao gồm các epitope tuyến tính. 
Vùng III, từ amino acid 52 đến 69, nằm trong vùng bảo tồn cao của N 
protein. Nhóm amino acid này là thành phần của immunodominant epitope, vì 
70% các kháng thể đơn dòng nhận diện cấu hình protein hiện diện trong N-52 
nhưng không nhận diện được đột biến loại N-69. Các amino acid từ 40 đến 66 
nằm trong vùng ưa nước của N-protein, và nằm ở vùng dễ phát hiện trên bề 
mặt ngoài của capsid. 
Vùng IV, trải dài từ amino acid thứ 69 tới 112, được phát hiện bởi sự 
gắn kết đặc hiệu của kháng thể đơn dòng SR30. 
 Vùng V từ amino acid 112 đến amino acid đóng vai trò quan trọng 
trong việc duy trì cấu hình chung của protein. 
3. Sản xuất protein N tái tổ hợp 
3.1. giới thiệu 
Trong phần trình bày này người ta sản xuất protein N tái tổ hợp bằng 
cách chèn gene ORF7 mã hóa cho protein nucleocapsid N của Lelystad virus 
(LV) vào sau promoter P10 của baculor virus Autographa califonia nuclear 
polyhedrosis. Kết quả tạo ra baculovirus tái tổ hợp là bac-ORF7, biểu hiện 
protein 15kDa trong tế bào côn trùng. Protein này có kích thước tương tự với 
kích thước protein N biểu hiện bởi LV trong tế bào CL2621và vẫn giữ được 
 11 
cấu trúc kháng nguyên của Protein N tự nhiên. Protein tái tổ hợp này được đem 
đi chủng cho heo và kháng thể chống lại protein N tái tổ hợp được sản xuất 
tăng lên trong cơ thể heo. Tuy nhiên chủng protein N tái tổ hợp không giúp bảo 
vệ heo khỏi sự xâm nhập của PRRSV. Qua kiểm tra cả hai dòng virus PRRS 
Châu Âu và Châu Mỹ đều phản ứng với protein N biểu hiện bởi bac-ORF7, 
như vậy protein N tái tổ hợp có thể được sử dụng trong việc phát hiện kháng 
thể trong huyết thanh kháng lại các chủng khác nhau của PRRSV. Nhưng 
protein tái tổ hợp này không có khả năng ứng dụng trong sản xuất vaccine 
chống virus PRRS. 
3.2. Quy trình sản xuất như sau: 
Chuẩn bị tế bào và virus: virus Autographa California nuclear polyhidrosis 
(AcNPV) và các virus tái tổ hợp được nuôi cấy trong dòng tế bào Spodoptera 
frugiperda Sf21. LV và ATCC VR2332 được phát triển trong tế bào đại thực 
bào túi phổi của heo(PAM) hoặc trong tế bào CL2621. 
Thiết lập plasmid: tổng hợp hai đoạn oligonucleotide chuyên biệt nằm ở 
trước và sau của ORF7 là LV40 
(59-GATTGGATCCTCGTCAAGTATGGCCGG-39) và LV41 
(59-CTAAGGATCCTGTCAAATTAACTTGCA-39), và sử dụng làm primer 
trong phản ứng PCR để khuyếch đại ORF7 từ cDNA clone. Các nu được gạch 
chân không thuộc trình tự của LV nhưng được thêm vào để tạo vị trí BamHI 
trong mồi. Vị trí cắt giới hạn BamHI được thêm vào mồi để tạo dòng ORF7 sau 
promoter p10 của baculovirus chuyển bởi vector pACAS3. 
Chuyển và chọn lọc protein tái tổ hợp N biểu hiện bởi tế bào Sf21: 
Chủng AcNPV DNA hoang dại và pACAS3 được đồng chuyển vào tế bào 
Sf21. Virus tái tổ hợp biểu hiện ß-galactosidase được chọn lọc ít nhất ba lần và 
được kiểm tra sự biểu hiện của N protein. DNA của tế bào và của virus được ly 
trích từ tế bào Sf21 đã được chuyển gene ở trên. DNA của virus được cắt bởi 
BamHI và XhoI để khẳng định gene ORF7 được chèn đúng vào locus p10 của 
baculovirus. 
 12 
Đánh dấu phóng xạ và phân tích protein: Sau khi cho xâm nhiễm Chủng 
AcNPV DNA hoang dại và pACAS3 vào tế bào Sf21 được 40 giờ thì đánh dấu 
phóng xạ với L-[35S]methionine. CL2621 xâm nhiễm bởi virus LV cũng được 
đánh dấu. tế bào bị ly giải sau đó được đem đi phân tích miễn dịch kết tủa 
(immunoprecipitation). 
Miễn dịch kết tủa và điện di: kiểm tra protein tái tổ hợp bằng phương 
pháp miễn dịch kết tủa và điện di, protein tái tổ hợp đã được đánh dấu phóng 
xạ được miễn dịch kết tủa với huyết thanh kháng LV; peptide đặc hiệu N, huyết 
thanh mẫu, và kháng thể đơn dòng SDOW17 và WBE6. Phức hợp miễn dịch 
được gắn với các hạt protein A-Sepharose CL-4B. Các hạt protein A-Sepharose 
được hòa trong dung dịch buffer Laemmli, hỗn hợp này được đun nóng trong 
hai phút ở nhiệt độ 100°C trước khi được phân tích bằng điện di bằng phương 
pháp sodium dodecyl sulfate-polyacrylamide(SDS-PAGE) trên gel 
polyacrylamide 12,5 %. Gel được ngâm trong Amplify trong 30 phút để nhuộm 
huỳnh quang và sau đó được làm khô và protein miễn dịch kết tủa được quan 
sát bằng phóng xạ tự ghi. Quy trình này cũng được dùng để kết tủa miễn dịch 
protein từ dung dịch ly giải tế bào CL2621 bị xâm nhiễm LV. 
Đo sản lượng Protein N tái tổ hợp theo thời gian bằng phương pháp 
ELISA: tế bào Sf21 được xâm nhiễm với baculovirus tái tổ hợp bac-ORF7 với 
liều hữu hiệu là TCID50s. Tại 24, 48, 72 và 96 giờ sau xâm nhiễm, tế bào được 
thu hoạch, rồi được rửa với phosphate-buffered saline (PBS), rồi được ly giải 
trên đá trong dung dịch ly giải (30mM Tris-HCl [pH7,5], 10mM MgCl2 và 1% 
Nonidet-P40; 40×106 tế bào/ml). Dung dịch ly giải được ly tâm ở 1400 
vòng/phút để loại các mảnh vỡ của tế bào. Dung dịch sau ly tâm của bac-ORF7 
được bảo quản ở -70°C.Đĩa phản ứng ELISA được phủ với dung dịch ly giải 
của tế bào bac-ORF7 và được ủ qua đêm với tỉ lệ 1:125 trong dung dịch 
coating buffer (50mM NaHCO3 [pH 9,65]. Đĩa được rửa trong PBS chứa 0,05 
% tween 80 và được ủ ở 37°C trong một giờ với độ pha loãng 1:500 của ascetic 
fluid của kháng thể đơn dòng WBE6 đặc hiệu cho protein N trong ELISA 
buffer ( PBS, 0,05% Tween 80, 4% huyết thanh ngựa). Đĩa phản ứng được rửa 
và ủ trong một giờ ở 37°C với kháng thể horseradish peroxidase (HRPO)-
 13 
conjugated của thỏ gắn trực tiếp với Immunoglobin của chuột ở độ pha loãng 
1:1000 trong ELISA buffer. Sau đó đĩa phản ứng được rửa và được nhuộm. 
Blocking ELISA để phát hiện kháng thể đặc hiệu cho protein N: dung 
dịch ly giải của tế bào SF21 được thu nhận sau khi cho xâm nhiễm vớ 
baculorvirus tái tổ hợp hai ngày rồi được sử dụng cho phản ứng ELISA như đã 
mô tả ở trên. Các giếng phản ứng được rửa và ủ với 100ml huyết thanh thử độ 
pha loãng 1:4 trong ELISA buffer. Mỗi mẫu huyết thanh được kiểm tra 3 lần 
lặp lại. Đối với đối chứng, sử dụng độ pha loãng (1:4 tới 1:2,048) của huyết 
thanh kháng LV và ba huyết thanh có phản ứng âm tính được kiểm tra trên mối 
đĩa. Sau một giờ ủ ở 37°C với MAbs HRPO-conjugated của chuột Đĩa phản 
ứng được rửa và nhuộm như đã mô tả ở trên. Khi kháng thể kết gắn SDOW17 
của protein tái tổ hợp N bị khóa bởi immunoglobin của heo, kháng thể đơn 
dòng RM19ME của chuột không thể kết gắn được chứng tỏ rằng huyết thanh 
đem kiểm tra dương tính với LV. Blocking được tính toán dựa theo công thức 
%blocking=100-OD của huyết thanh kiểm tra/ OD của huyết thanh âm tính của 
heo)×100. 
Chủng heo với bac-ORF7 và thử nghiệm với LV: heo con hai tuần tuổi 
không bị mầm bệnh xâm nhiễm được chủng với 2ml bac-ORF7 (tương đương 
20mg protein N) ở ngày 0 và ngày 28. Hai heo đối chứng được chủng tương tự 
với 2ml baculovirus kiểu hoang dại. Ở ngày 42 cả bốn heo được cho nhiễm với 
1ml 105 TCID50 của LV. Mẫu huyết thanh được lấy ở ngày 0, 21, 28,42,45, 
52, 58, và 63. Tế bào đại thực bào bị xâm nhiễm với LV được khẳng định trong 
tất cả mẫu huyết thanh bằng IPMA. Blocking ELISA cho protein N được thực 
hiện với huyết thanh thu thập sau khi chủng heo như trên. Tất cả heo thí 
nghiệm được quan sát hàng ngày các triệu chứng của bệnh như sốt hoặc rối 
loạn hô hấp. Heo bị chết ở ngày 63 sau khi chủng và mô phổi được phân tích 
bệnh tích. Kháng nguyên virus được quan sát bằng phương pháp 
immunoperoxidase staining với MAbs SDOW17 và kháng thể chuột HRPO-
conjugated gắn trực tiếp với immunoglobin như đã miêu tả ở trên. 
 14 
III. Kết luận 
PRRS virus là virus đang được quan tâm nghiên cứu bởi các nhà khoa 
học trên thế giới vì đây là virus gây thiệt hại lớn trong nghành chăn nuôi heo 
thế giới. mặt khác sự đa dạng di truyền của virus này cùng với sự biến đổi lien 
tục của chúng dẫn đến sự khó khăn trong chẩn đoán cũng như tạo ra loại 
vaccine đặc hiệu và có hiệu quả trong công tác phòng chống dịch bệnh xảy ra. 
Do đặc điểm khó nuôi cấy trên môi trường tế bào nên có những khó khăn nhất 
định trong việc sản xuất các kháng nguyên dùng làm vật liệu cho các kit chẩn 
đoán virus cũng như nuôi cấy virus để tạo nguyên liệu sản xuất vaccine nhược 
độc cho virus này. Chính vì thế protein tái tổ hợp là hướng đi tiềm năng trong 
việc sản xuất kháng nguyên ứng dụng trong sản xuất kit chẩn đoán trên quy mô 
lớn và khắc phục được nhược điểm nêu trên, ngoài ra protein tái tổ hợp cũng 
mở ra tiềm năng cho sản xuất vaccine bảo vệ heo khỏi PRRSV. 
Trong bài báo cáo này em chỉ trình bày những kiến thức hiểu biết chung về 
virus PRRS và hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở heo do virus này gây ra. 
Đồng thời nêu ra nghiên cứu về sản xuất protein tái tổ hợp dựa trên ORF7 của 
virus là vùng có tính bảo tồn cao, có ứng dụng rõ ràng trong công tác chẩn 
đoán và phân biệt các dòng virus PRRS. Hiện nay còn có hướng nghiên cứu 
ứng dụng protein tái tổ hợp dựa trên ORF5 của virus PRRS trong sản xuất 
vaccine vì protein GP5 được quy định bởi ORF này có chứa những epitope 
trung hòa chính quan trọng của PRRSV, đó cũng là hạn chế của bài báo cáo khi 
em chưa đưa ra được nghiên cứu này. 
 15 
IV. Tài liệu tham khảo 
1. Nguyễn Ngọc Hải, Công nghệ sinh học trong thú y, nhà xuất bản Nông Nghiệp, 
2007. 
2. Sarah k. Wooton, Eric A.Nelson, and Dongwan Yoo, Department of 
Pathobiology, Ontario Veterinary College, University of Guelph, Guelph, 
Ontario N1G 2W1, Canada,and Department of Veterinary Science, South 
Dakota State University, Brookings, South Dakota . Antigenic structure of the 
Nucleocapsid Protein of Porcine Reproductive and Respiratory Syndrome 
Virus. 
3. J.J.M. Meulenberg, R.J.Bende, J.M.A.Pol, G.Wensvoort, and R.J.M. 
Moormann, Department of Virology, Institute for Animal Science and Health 
(ID-DLO), Lelystad, The Netherlands. Nucleocapsid Protein N of Lelystad 
Virus: Expression by Recombinant Baculorvirus, Immunological Properties, 
and Suitability for Detection of Serum. 
4. Youjun Feng, Tiezhu Zhao, Tung Nguyen, Ken Inui, Ying Ma, Thi Hoa 
Nguyen, Van Cam Nguyen, Di Liu, Quang Anh Bui, Long Thanh To, 
Chuanbin Wang, Kegong Tian, and George F. Gao. Porcine Respiratory and 
Reproductive Syndrome Virus Variants, Viet Nam and China, 2007. 
5. Kyoung-Jin Yoon, assistant professor; Chih-Cheng Chang, Graduate assistant; 
Jeffrey Zimmerman, associated professor; and Karent Harmon, associated 
scientist, Department of Veterinary Diagnostic and Production Animal 
Medicine. Field and Experimental Assessment of PRRSV Evolution. 
6. Dee S, Deen J, Rossow K, Weise C, Eliason R, Otake S, Joo HS, Pijoan C. Can 
J Vet Res. 2003.Mechanical transmission of porcine reproductive and 
respiratory syndrome virus throughout a coordinated sequence of events during 
warm weather. 
7. T Dokland, A Deshpande, Y Fang, E Nelson, Department of Microbiology, 
University of Alabama at Birmingham; Department of Veterinary Science, 
South Dakota State University AM Burrell, W Xu, Q Hoang, RC Willis, R 
 16 
Shah, M Bounpheng, X Fang Applied Biosystems, Austin, Texas, Cryo-
electron microscopy of PRRSV virions. 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_virus_prrs_va_protein_tai_to_hop_n_ung_dung_trong.pdf