Tổng hợp polyaniline bên trong cấu trúc nano của giấy bucky bằng phương pháp điện hóa
Tóm tắt Tổng hợp polyaniline bên trong cấu trúc nano của giấy bucky bằng phương pháp điện hóa: ...ủa C-N•+ kéo dãn [12, 13, 14]. Chúng được tạo thành trong suốt quá trình poroton hóa chuỗi polyaniline cùng với sự dịch chuyển bipolaron trong vòng quinoid [8]. Có điểm đáng chú ý ở đây là tỷ số cường độ giữa hai dải sóng (1296/1242) vào khoảng 2, điều này cho thấy quá trình proton hóa l...ế. Từ kết quả thu được còn cho thấy, PANi xảy ra quá trình hấp phụ và khuếch tán đồng thời trên lớp vật liệu trên bề mặt điện cực giấy bucky. Cường độ các đỉnh oxy hóa khử của hệ điện hóa trong đặc trưng CV Hình 7 cũng tăng theo tốc độ quét thế, phù hợp với kết quả được dự đoán từ phươ...ANi bong ra khỏi điện cực. Tùy vào từng yêu cầu ứng dụng cụ thể mà có thể tổng hợp ở những số vòng quét khác nhau. Trong bài báo này, mục tiêu sử dụng PANi làm lớp vật liệu dẫn điện nêu đòi hỏi độ xốp, độ đồng đều, khả năng bám dính tốt của màng vào điện cực. Do vậy, với số vòng quét 10 ...
i lượng tăng không đáng kể và hầu như không đổi so với mẫu ngâm hai ngày. Điều này chứng tỏ hiệu quả của việc ngâm giấy bucky vào dung dịch monomer trước khi tổng hợp đã tạo điều kiện cho các phân tử monomer bám lên các sợi CNTs. Đồng thời, đường biểu diễn ở nồng độ 0,3 M và 0,4 M gần như trùng nhau, điều này cho thấy ở hai nồng độ này lượng PANi bám lên giấy bucky gần như ở mức tối đa và 2 ngày là thời gian cần thiết để đạt được mức độ bão hòa. Đặc trưng quét thế vòng Hình 6 mô tả các đặc trưng quét thế vòng CV của điện cực giấy bucky sau khi hòa tan monomer aniline trong dung dịch điện hóa. Cửa sổ thế của điện cực giấy bucky nằm trong khoảng từ -0,2 V đến +1,8 V; đảm bảo hoạt động cho vùng quét thế từ -0,2 V đến 0,8 V của dung dịch có chứa aniline. Khả năng oxy hóa polyaniline có thể đặc trưng bởi các đỉnh trên đường cong CV, với các vị trí thế anode (Epa) và thế catode (Epc). Từ kết quả trên Hình 6 nhận thấy, xuất hiện 2 cặp oxy hóa - khử rõ rệt, cặp đầu tiên ở (E1pa = 0,075 V; E1’pc = 0,32 V), cặp thứ hai (E2pa = 0,45 V; E2’pc = 0,56 V ) chứng tỏ quá trình phản ứng diễn ra trên bề mặt điện cực giấy bucky là thuận nghịch và oxy hóa hai giai đoạn. Cặp đỉnh đầu tiên là sự chuyển từ dạng khử leucoemeraldine sang dạng bán oxy hóa emeraldine, điện thế oxy hóa dao động trong khoảng 0,07 V và thế khử dao động trong khoảng 0,3 V thể hiện quá trình khử các gốc tự do và ion gốc tự do về (-C6H4N+- hoặc -C6H4NH·+-) dạng phân tử monomer aniline. Cặp đỉnh thứ 2 chỉ quá trình oxy hóa ứng với sự chuyển từ dạng emeraldine sang dạng pernigraniline thế oxy hóa trong khoảng 0,4 V và thế khử từ dạng pernigraniline sang dạng emeraldine dao động trong khoảng 0,5 V. Ảnh hưởng của tốc độ quét đến khả năng oxy hóa - khử của dây nano PANi Ảnh hưởng của tốc độ quét đến cường độ đỉnh được nghiên cứu ở các tốc độ 5, 10, 20, 50 mV/s trong dung dịch HCl 1 M; aniline 0,3 M thể hiện ở Hình 7. Theo phương trình Randles- Sevick, cường độ dòng CV phụ thuộc tuyến tính vào nồng độ aniline và tăng theo căn bậc 2 với tốc độ quét. Sự phụ thuộc của đường cong CV vào tốc độ quét và nồng độ monomer aniline lần lượt được mô tả trong Hình 7 và 8. Kết quả phân tích trên Hình 7 cho thấy vị trí các đỉnh oxy hóa khử hầu như không thay đổi theo tốc độ quét thế. Từ kết quả thu được còn cho thấy, PANi xảy ra quá trình hấp phụ và khuếch tán đồng thời trên lớp vật liệu trên bề mặt điện cực giấy bucky. Cường độ các đỉnh oxy hóa khử của hệ điện hóa trong đặc trưng CV Hình 7 cũng tăng theo tốc độ quét thế, phù hợp với kết quả được dự đoán từ phương trình Randles-Sevick. Hình 6. Đường CV khi tổng hợp PANi trong dung dich axit HCl 1M Science & Technology Development, Vol 19, No.T3-2016 Trang 108 Ảnh hưởng của nồng độ aniline Đường CV của dây nano PANi trên điện cực giấy bucky trong dung dịch HCl 1M; tốc độ quét thế 10 mV/s; khoảng quét từ -0,2 V đến 0,8 V; vòng thứ 10 ở nồng độ aniline thay đổi 0,1 M; 0,2 M; 0,3 M; 0,4 M được thể hiện trên Hình 8. Kết quả cho thấy: nếu tăng nồng độ aniline thì cường độ đỉnh tín hiệu của quá trình oxy hóa khử cũng tăng theo và có xu hướng dịch đỉnh oxy hóa về bên trái, còn đỉnh khử dịch về bên phải thể hiện trên Hình 8A. Ở nồng độ aniline 0,4 M cho thấy cường độ đỉnh oxy hóa - khử và mật độ dòng là lớn nhất. Ở nồng độ aniline 0,1 M cho thấy mật độ dòng nhỏ; cường độ đỉnh thấp. Ngoài ra trên Hình 8B còn cho thấy cường độ đỉnh tăng tuyến tính theo nồng độ aniline, cũng hoàn toàn phù hợp với phương trình Randles-Sevick. Điều này chứng tỏ rằng, các phản ứng oxy hóa khử của các cặp đỉnh (E1pa, E1’pc) và (E2pa, E2’pc) là từ nguồn aniline trong dung dịch. Nhận thấy, nồng độ aniline tăng nhưng tỷ lệ đỉnh oxy hóa - khử (Epa/Epc) thay đổi tương đối ít, điều này cho thấy tính chất oxy hóa khử là thuận nghịch. Hình 8. (A) Đường CV của PANi trong dung dich HCl 1M; nồng độ aniline 0,1; 0,2; 0,3; 0,4 M, tốc độ quét thế 10 mV/s; khoảng quét từ -0,2 V đến 0,8 V; (B) Đồ thị phụ thuộc của các đỉnh oxy hóa-khử vào nồng độ aniline Ảnh hưởng của thời gian tổng hợp (ảnh hưởng của số vòng quét) Khi số vòng quét tăng thì cường độ dòng tăng liên tục, điều này có thể được giải thích bởi sự hình thành polyaniline lên bề mặt điện cực [19]. Với thời gian điện phân khác nhau đã thu được màng polyaniline có độ dày khác nhau, thậm chí khác nhau cả về kích thước sợi PANi được tổng hợp. Quá trình hình thành màng polymer do nhiều trung tâm riêng biệt được hình thành theo thời gian. Nếu kéo dài thời gian điện phân các trung tâm sẽ hình thành các đám polymer có kính thước lớn dần [20]. Với các màng có bề dày lớn thì bề mặt polymer sẽ không bằng phẳng và dễ bị bong ra khỏi điện cực, tuy nhiên nếu quá mỏng, dung lượng oxy hóa khử Hình 7. Đường CV khi tổng hợp PANi trong dung dich HCl 1M; aniline 0,3 M, tốc độ quét thế 5, 10, 20, 50 mV/s; khoảng quét từ -0,2 V đến 0,8 V (B) (A) TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 19, SOÁ T3- 2016 Trang 109 nhỏ dẫn đến khả năng dẫn điện tử và trao đổi ion kém điều này cũng hoàn toàn phù hợp với những công trình đã công bố [21]. Ảnh hưởng của nồng độ aniline lên cấu trúc hình thái bề mặt của dây nano polyaniline Cấu trúc và kích thước của dây PANi phụ thuộc vào nồng độ của monomer trong dung dịch điện phân. Trên Hình 9 có thể nhận thấy cấu trúc bề mặt của dây PANi thay đổi khi được tổng hợp với nồng độ aniline khác nhau. Khi hàm lượng aniline là 0,3 M và 0,4 M thì thu được dây đường kính trung bình vào khoảng 70 nm (Hình 9A, B), giảm nồng độ aniline xuống còn 0,2 M thì nhận thấy cấu trúc dây PANi thay đổi rõ nét, trong đó đường kính của dây giảm xuống còn khoảng 30 nm đến 50 nm (Hình 9C). Tiếp tục giảm nồng độ aniline xuống còn 0,1 M nhận thấy cấu trúc dây PANi thay đổi nhưng lượng sản phẩm trên điện cực giấy bucky là tương đối ít (Hình 9D) và phân bố không đồng đều, điều này cũng phù hợp với các phân tích đường cong CV. Điều này có thể giải thích như sau: với nồng độ monomer cao, tốc độ polymer hình thành nhanh dẫn đến polymer có cấu trúc xốp và kích thước sợi lớn. Tuy nhiên, nếu nồng độ quá thấp, polymer tạo ra chậm, để đảm bảo độ dày cần thiết cho việc ứng dụng PANi, cần tăng thời gian tổng hợp polymer, tuy nhiên, đồng thời với quá trình oxy hóa monomer tạo thành polymer thì một phần polymer cũng bị oxy hóa dẫn đến tính chất của polymer bị biến đổi. Hình 9. Ảnh SEM của PANi trên giấy bucky, tổng hợp trong HCl 1M; tốc độ quét 10 mV/s; số vòng quét 10 vòng; (A) aniline 0,3 M; (B) aniline 0,4 M; (C) aniline 0,2 M; (D) aniline 0,1 M Rõ ràng với kết quả này, có thể khống chế được kích thước, hình dạng của dây nano PANi bằng cách thay đổi nồng độ monomer aniline trong dung dịch điện phân cho phù hợp với từng yêu cầu ứng dụng. Trong đề tài này, polyaniline được tổng hợp với điều kiện tốc độ quét 10 mV/s; số vòng quét 10 vòng; trong dung dịch HCl 1M; aniline 0,3 M sẽ tạo ra dây nano PANi được phủ đều trên toàn bộ điện cực, các dây khá đồng đều, ổn định và bám dính tốt của màng PANi, với đường kính dây trung bình từ 50–100 nm, chiều dài dây cỡ micromét. Ảnh SEM cũng chỉ ra cấu trúc của lớp vật liệu xốp và có chiều sâu, với diện tích bề mặt riêng lớn, đặc điểm này rất thích hợp cho việc ứng dụng làm điện cực cho siêu tụ điện. Ảnh hưởng của thời gian tổng hợp (số vòng quét CV) Kết quả ở đây cho thấy chỉ cần quét đến vòng thứ 3 thì đã xuất hiện PANi (Hình 10A). Hình 10 cho thấy ảnh FE-SEM của dây nano 1.00 µm 1.00 µm 1.00 µm 1.00 µm (A) (B) (C) (D) Science & Technology Development, Vol 19, No.T3-2016 Trang 110 PANi với số vòng quét lần lượt là 3 vòng, 5 vòng, 10 vòng, thời gian tổng hợp khác nhau sẽ cho hình dạng dây khác nhau. Nhận thấy số vòng quét là 10 vòng, dây nano PANi dài và phân bố đều trên toàn bộ vi điện cực Pt. Với số vòng quét 3 vòng thì dây nano PANi ngắn và lượng dây nano PANi bám lên điện cực giấy bucky là ít, đồng thời phân bố không đồng đều trên toàn bộ điện cực. Điều này hoàn toàn phù hợp vì theo nguyên tắc chung, thời gian tổng hợp polymer dẫn càng dài thì chiều dài sợi polymer tạo ra càng dài. Mặc dù vậy, nêu tăng thời gian quét lên quá dài khi mà các monomer đã oxy hóa hết thì chiều dài của dây sẽ đạt giá trị giới hạn mà không thể dài hơn. Hình 10A, B, C thể hiện khá rõ sự khác nhau của cấu trúc bề mặt với thời gian tổng hợp khác nhau. Kết quả đã chỉ ra cho thấy số vòng quét là 10 vòng sẽ cho một cấu trúc dây nano khá đồng đều, đường kính dây khoảng từ 50 nm đến 100 nm với độ dài khoảng vài µm. Hình 10. Ảnh SEM của PANi trên giấy bucky, tổng hợp trong HCl 1M; aniline 0.3M; tốc độ quét 10 mV/s; số vòng quét: (A) 3 vòng; (B) 5 vòng; (C) 10 vòng Như vậy, số vòng quét CV càng nhiều thì lượng dây PANi bám lên điện cực giấy bucky càng nhiều, tuy nhiên nếu số vòng quét quá nhiều thì xảy ra khả năng kết khối của màng PANi. Khả năng kết khối này xảy ra là do sự phát triển của sợi dẫn đến hiện tượng chồng lẫn lên nhau tiến tới hình thành khối màng PANi. Nếu số vòng quét đạt đến số vòng quét nhất định thì sản phẩm không còn bám được lên điện cực làm việc nữa mà dần dần có khả năng bong ra khỏi điện cực làm việc. Chúng tôi đã khảo sát quét ở 20 vòng thì sản phẩm PANi bong ra khỏi điện cực. Tùy vào từng yêu cầu ứng dụng cụ thể mà có thể tổng hợp ở những số vòng quét khác nhau. Trong bài báo này, mục tiêu sử dụng PANi làm lớp vật liệu dẫn điện nêu đòi hỏi độ xốp, độ đồng đều, khả năng bám dính tốt của màng vào điện cực. Do vậy, với số vòng quét 10 được đánh giá là phù hợp cho việc chế tạo điện cực. Ảnh hưởng của tốc độ quét thế đến sự hình thành dây nano PANi Hình 11 là kết quả xác định hình dạng và sự phân bố polyaniline sau khi được quét thế tuần hoàn trên bề mặt điện cực bằng kính hiển vi điện tử quét. PANi được phân bố trên toàn bộ bề mặt điện cực phụ thuộc vào tốc độ quét thế tuần hoàn, sự hình thành mạng các dây nano PANi tương đối ít và mật độ dây không đều khi quét ở tốc độ 5 mV/s (Hình 11A), các dây nano PANi chưa có khả năng đâm mầm, chiều dài các sợi dây này ngắn, rời rạc. Nếu tốc độ quét tăng lên 10 mV/s sự hình thành mạng các dây PANi được thay đổi rõ nét (Hình 11B), các dây nano được phân bố đều trên toàn bộ điện cực, các dây đồng đều, đường kính dây cỡ 50 nm. Khi tốc độ quét 20 mV/s và 50 mV/s thì khả năng oxy hóa nhanh hơn, nên các phân tử polyaniline tạo thành được sắp xếp lại với nhau chặt chẽ tạo thành những đám sợi (Hình 11C, D), tuy nhiên đường kính dây nhỏ hơn, độ xốp kém hơn so với quét ở tốc độ 10 mV/s. Điều này có thể giải thích là với tốc độ quét cao thì khả năng oxy hóa aniline nhanh hơn vì vậy sự gắn kết tạo sợi lớn hơn. 1.00 µm 1.00 µm 1.00 µm (A) (B) (C) TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 19, SOÁ T3- 2016 Trang 111 Hình 11. Ảnh FE-SEM của PANi trên giấy bucky trong dung dịch HCl 1M; aniline 0,3 M; khoảng quét - 0,2 – 0,8V; số vòng quét 10 vòng; với tốc độ quét khác nhau (A) 5 mV/s; (B) 10 mV/s, (C) 20 mV/s, (D) 50 mV/s Từ những kết quả quan sát các ảnh FE-SEM ở trên cho thấy PANi đã được chế tạo và liên kết với nhau tạo thành mạng các dây nano. Các dây nano sắp xếp không theo trật tự, mà phân bố một cách ngẫu nhiên tạo ra một màng xốp với bề mặt riêng lớn. Đường kính dây đồng đều từ 50 nm đến 100 nm với chiều dài hàng chục micromet. Các dây nano bám dính tốt vào điện cực giấy bucky. Kích thước dây có thể được điều khiển tùy thuộc vào nồng độ aniline, tốc độ quét thế tuần hoàn và số vòng quét CV. Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài này, tác giả định hướng ứng dụng dây nano tổng hợp được cho việc chế tạo điện cực cho siêu tụ điện, nên lựa chọn tổng hợp dây nano PANi trong điều kiện là: nồng độ aniline 0,3 M; HCl 1 M; số vòng quét 10; tốc độ quét 10 mV/s. Với cấu trúc dây nano này được cho là thuận lợi cho quá trình truyền dẫn ở miền phân cực nhỏ, do đó có khả năng ứng dụng tốt cho điện cực của siêu tụ. KẾT LUẬN Bài báo đã trình bày kết quả thực nghiệm về vật liệu dây nano polyaniline được tổng hợp bằng phương pháp điện hóa trực tiếp lên điện cực Pt và điện cực giấy bucky. Dây nano PANi có khả năng bám dính tốt, phủ đều trên toàn bộ điện cực Pt cũng như giấy bucky. Quy trình tổng hợp vật liệu đơn giản trong điều kiện nhiệt độ phòng, với kỹ thuật điện hóa quét thế tuần hoàn (CV) có thể điều khiển được tốc độ phản ứng xảy ra. Sản phẩm dây nano PANi có thể thu được trong thời gian ngắn, đảm bảo chính xác thành phần vật liệu cần tổng hợp và đặc biệt là tổng hợp được trực tiếp lên điện cực làm việc, điều này rất thích hợp với ứng dụng điện cực cho siêu tụ điện. Nghiên cứu hình thái cấu trúc của dây nano PANi bằng các phép phân tích ảnh FE-SEM, TEM, cho thấy dây nano PANi với đường kính từ 30 nm đến 100 nm có thể được điều khiển chế tạo trong các điều kiện tổng hợp khác nhau. Cụ thể với điều kiện chế tạo: nồng độ acid HCl 1 M; aniline 0,3 M; khoảng quét thế -0,2 V – 0,8 V; tốc độ quét 10 mV/s; số vòng quét 10 sẽ tạo ra một cấu trúc PANi đường kính trung bình cỡ 50 nm, chiều dài dây cỡ micromet, mật độ phân bố tương đối đồng đều trên toàn bộ vùng điện cực. Lớp màng dây nano PANi có cấu trúc xốp rất đặc biệt. Đây là một loại cấu trúc mới đang được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Với cấu trúc xốp rất thích hợp cho khả năng ứng dụng trong điện cực của vật liệu này. Ngoài ra với những phân tích về cấu trúc điện tử của dây nano PANi đã được trình bày ở trên, chứng tỏ rằng dây nano PANi là polymer dẫn điện dưới dạng muối emeraldine. Đây là dạng cấu trúc được đánh giá là dẫn điện tốt nhất trong những cấu trúc của polyaniline. Theo nhóm nghiên cứu nhận thấy, với những phân tích kết quả về tổng hợp vật liệu dây nano PANi ở trên thì khả năng ứng dụng làm lớp vật liệu dẫn điện trong điện cực là khả thi. 1.00 µm 1.00 µm (C) (D) Science & Technology Development, Vol 19, No.T3-2016 Trang 112 Synthesis of carbon nanotube/ polyaniline nano composite electrode by insitu electrochemical polymerization Tran Phuoc Toan Do Huu Quyet Research Laboratories of Saigon Hi-Tech Park, Ho Chi Minh City ABSTRACT The synthesis of polyaniline (PANI) containing different carbon nanotubes (CNTs) by in situ electrochemical polymerization is reported in this study. The samples were characterized by scanning electron microscopy. Fourier transform infrared and ultraviolet– visible spectroscopy were used to determine the change in structure of the polymer/CNT composites. Thermogravimetric analysis showed that the composites had better thermal stability than the pure PANI. In addition, the electrochemical measurements such as cyclic voltametric (CV) curves showed that the conductivity of the obtained nanocomposite increased. The results of measuring cyclic voltammetry also showed that the specific capacitance of nanocomposite was much higher than the pure PANI and CNTs. This is due to the fact that the composites consisting of electroactive species and carbon materials with highly specific surface areas are significantly promote the energy density of supercapacitors. Such supercapacitors exhibit simultaneously both double layer capacitance and Faradic pseducapacitance in energy storage. Key words: polyaniline, carbon nanotubes, cyclic voltammetry TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. M. Inagaki, H. Konno, O. Tanaike, Electrochemical supercapacitors for energy storage and delivery, Journal of Power Sources, 195, 7880 (2010). [1]. C.J. Xu, H.D. Du, B.H. Li, F.Y. Kang, Y.Q. Zeng, High energy density capacitor using coal tar pitch derived nanoporous carbon/MnO2 electrodes in aqueous electrolytes, Journal of the Electrochemical Society, 156, A435 (2009). [2]. B. Cheraghi, A. R. Fakhari, S. Borhani, A.A. Entezami, Characterization of synthesized Sn-doped polyaniline, Journal of Electroanalytical Chemistry, 626,116 (2009). [3]. G. Wee, H.Z. Soh, Y.L. Cheah, S.G. Mhaisalkar, and M. Srinivasan, Synthesis and electrochemical properties of electrospun V2O5 nanofibers as supercapacitor electrodes, Journal of Materials Chemistry, 20, 6720-6725 (2010). [4]. C.V. Tuan, M.A. Tuan, N.V. Hieu, T. Trung, Electrochemical synthesis of polyaniline nanowires on Pt interdigitated microelectrode for room temperature NH3 gas sensor application, Current Applied Physics, 12, 1011 – 1016 (2012). [5]. C. Liu, K. Hayashi, K. Toko, Electrochemical deposition of nanostructured polyaniline on an insulating substrate, Electrochemistry Communications, 12, 36 – 39 (2010). TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 19, SOÁ T3- 2016 Trang 113 [6]. C. Liu, K. Hayashi, K. Toko, Electrochemical deposition of nanostructured polyaniline on an insulating substrate, Electrochemistry Communications, 12, 36 – 39 (2010). [7]. C. Dhand, M. Das, M. Datta, B.D. Malhotra, Recent advances in polyaniline based biosensors, Biosensors and Bioelectronics, 26, 2811 – 2821 (2011). [8]. G.R. Li, Z.P. Feng, J.H. Zhong, Z.L. Wang, Y.X. Tong, Electrochemical synthesis of polyaniline nanobelts with predominant electrochemical performances, Macromolecules, 43, 2178 – 2183 (2010). [9]. J. Shi, P. Ci, F. Wang, H. Peng, P. Yang, L. Wang, S. Ge, Q. Wang, P.K. Chu, Nonenzymatic glucose sensor based on over- oxidized polypyrrole modified Pd/Si microchannel plate electrode, Biosensors and Bioelectronics, 26, 2579 – 2584 (2011). [10]. L.D. Tran, D.T. Nguyen, B.H. Nguyen, Q.P. Do, H.L. Nguyen, Development of interdigitated arrays coated with functional polyaniline/MWCNT for electrochemical biodetection: Application for human papilloma virus, Talanta, 85, 1560–1565 (2011). [11]. M. Matsuguchi, T. Asahi, Properties and stability of polyaniline nanofiber ammonia sensors fabricated by novel on-substrate method, Sensors and Actuators B: Chemical, 160, 999–1004 (2011). [12]. C.A. Amarnath, J.H. Chang, D. Kim, R.S. Mane, S.H. Han, D. Sohn, Electrochemical supercapacitor application of electroless surface polymerization of polyaniline nanostructures, Materials Chemistry and Physics, 113, 14–17 (2009). [13]. H. Cui, Q. Li, Y. Qian, R. Tang, H. An, J. Zhai, Defluoridation of water via electrically controlled anion exchange by 121 polyaniline modified electrode reactor, Water Research, 45, 5736 – 5744 (2011). [14]. H. Zhang, J. Wang, Z. Wang, F. Zhang, S. Wang, Electrodeposition of polyaniline nanostructures: A lamellar structure, Synthetic Metals, 159, 277 – 281 (2009). [15]. H. Li, J. Wangb, Q. Chub, Z. Wangb, F. Zhanga, S. Wang, Theoretical and experimental specific capacitance of polyaniline in sulfuric acid, Journal of Power Sources, 190, 578 – 586 (2009). [16]. N.A.R. Vázquez, R.S. Delgado, E.G. Hernández, A.M. M. Martínez, Characterization of copolymer based in polyurethane and polyaniline, Journal of the Mexican Chemical Society, 53, 248 – 254 (2009). [17]. C.F. Wirth, J. Coste, Nanotechnologies for pathogen detection: future alternatives, Biologicals, 38, 9 – 13 (2010). [18]. B. Somboonsub, M.A. Invernale, S. Thongyai, P. Praserthdam, D.A. Scola, G.A. Sotzing, Preparation of thermally stable conducting polymer PEDOT – Sulfonated polyimide, Polymer, 51, 1231 – 1236 (2010). [19]. B.X. Zou, X. X. Liu, D. Diamond, K.T. Lau, Electrochemical synthesis of WO3/PANI composite for electrocatalytic reduction of iodate, Electrochimica Acta, 55, 3915 – 3920 (2010). [20]. J.M. D’Arcy, H.D. Tran, V.C. Tung, A.K. TuckerSchwartz, R.P. Wong,Y. Yang, R.B. Kaner, Versatile solution for growing thin films of conducting polymers, Applied physical sciences, 107, 19673 – 19678 (2010).
File đính kèm:
- tong_hop_polyaniline_ben_trong_cau_truc_nano_cua_giay_bucky.pdf