Tổng quan về các phương pháp tái chế vật liệu composite
Tóm tắt Tổng quan về các phương pháp tái chế vật liệu composite: ...er, 2009; J. Palmer và nnk., 2009) về khả năng sử dụng lại cốt sợi thủy tinh thu được từ tái chế, thay thế cho vật liệu gia cường trong sản xuất vật liệu composite nhiệt rắn mới. Cụ thể, quá trình tái chế cơ học (sử dụng kỹ thuật tách bằng Nhữ Thị Kim Dung và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuậ... hóa - tái sử dụng cốt sợi, được phát triển ở Đan Mạch để tái chế sợi thủy tinh và thu hồi nhiệt năng từ các cánh tua bin gió bị hỏng (K. Larsen, 2009). Trong quá trình này, các cánh tuabin gió được cắt thành những khối nhỏ có kích thước bằng bàn tay và được đưa liên tục vào lò quay kh...c Tự nhiên và Công nghệ quốc gia) hoàn thành công trình nghiên cứu và sản xuất trong phòng thí nghiệm tấm composite từ các loại phế thải như nhựa phế liệu, mạt cưa, Trần Vĩnh Minh và nhóm cộng sự ( đã nghiên cứu vật liệu composite từ polypropylene và bột trấu làm tấm cách âm. Nhóm nghi...
gió được cắt thành những khối nhỏ có kích thước bằng bàn tay và được đưa liên tục vào lò quay không chứa oxy ở nhiệt độ 5000C, tại đây nhựa trong các cánh quạt được nhiệt phân thành khí tổng hợp. Khí được sử dụng để sản xuất điện cũng như đốt nóng lò quay. Ở cuối lò quay hoặc trong lò quay thứ hai, vật liệu sợi thủy tinh được "làm sạch" trong điều kiện có không khí. Kim loại đen được tách bằng nam châm để tái chế lại, bụi còn lại được xử lý để thải. Các sợi thủy tinh thu được bị giảm độ bền nên được sử dụng để làm vật liệu chịu nhiệt và cách nhiệt, không nên sử dụng làm vật liệu để chế tạo lại các cánh tuabin mới. Tuy nhiên, quy trình này chưa được thương mại hóa, chủ yếu vì lý do kinh tế và việc Nhữ Thị Kim Dung và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 62(3b), 69 - 79 75 chôn lấp các cánh tuabin hỏng là lựa chọn rẻ hơn và vẫn đúng luật. 3.2.3. Tái chế hóa học Tái chế hóa học là quá trình phân hủy hoặc hòa tan vật liệu nền bằng hóa chất để giải phóng cốt sợi. Quá trình tái chế hóa học có thể tái tạo lại cả chất xơ và chất độn sạch cũng như chất nền đã phân hủy ở dạng monome hoặc nguyên liệu hóa dầu. Quá trình phân hủy có thể thực hiện trong các dung dịch như: nước, cồn, glycol và axit. Khi sử dụng cồn hoặc nước, quá trình phân hủy được tiến hành ở điều kiện nhiệt độ và áp suất cao hơn điểm tới hạn (gọi là siêu tới hạn) để đạt được sự hòa tan hoặc phân hủy vật liệu nền nhanh hơn và hiệu quả cao hơn. Khi sử dụng dung dịch axit, có thể tiến hành phân hủy ở điều kiện khí quyển nhưng tốc độ phản ứng có thể rất chậm (W. Dang và nnk., 2005). Quá trình sử dụng glycol có thể phân hủy nhựa epoxy thành các monome ban đầu để tạo ra nguyên liệu hóa học tiềm năng. Chất lỏng ở trạng thái siêu tới hạn (SCF) và đặc biệt là nước siêu tới hạn (SCW) và cồn siêu tới hạn cũng là những dung dịch tiềm năng để tái chế sợi và nhựa (R. Pinero-Hernanz và nnk., 2008a). Sử dụng nước hoặc cồn tương đối sạch về mặt môi trường và cả hai đều có thể được tách ra khỏi dung dịch hòa tan bằng cách sử dụng bay hơi (đối với nước) và chưng cất (đối với cồn). Quá trình này có thể được sử dụng cho các loại vật liệu gia cường khác nhau như sợi carbon và sợi thủy tinh. Sợi được tái tạo vẫn giữ được hầu hết các đặc tính cơ học. Để đạt được hiệu suất hòa tan cao hơn và tốc độ hòa tan nhanh hơn, kiềm thường được sử dụng làm chất xúc tác (ví dụ: NaOH và KOH). Tuy nhiên, việc tách muối xúc tác tạo thành khỏi dầu và làm dầu có độ nhớt cao, vẫn còn là một thách thức (R. Pinero-Hernanz và nnk., 2008). Theo Henshaw và nnk (1996) có thể sử dụng phản ứng thủy phân để hòa tan bọt polyurethane thành diamine, polyol và CO2 dưới hơi nước áp suất cao và nhiệt độ cao (232÷3160C). Trong nghiên cứu được báo cáo bởi Pinero - Hernanz và nnk (2008), chất lỏng siêu tới hạn được thử nghiệm ở nhiệt độ 250÷4000C và áp suất 4÷27 MPa đối với nước, và ở nhiệt độ 300–4500C và áp suất 5÷17 MPa đối với cồn (metanol, etanol, 1- propanol và axeton) để tái chế vật liệu composite cốt sợi carbon. Kết quả nhận thấy rằng việc sử dụng chất xúc tác kiềm (ví dụ như KOH) cho hiệu suất khử vật liệu nền nhựa trên 90% trong nước siêu tới hạn và sợi carbon thu hồi có độ bền cơ học giảm 10% (R. Pinero-Hernanz và nnk., 2008a). Trong trường hợp sử dụng dung dịch cồn siêu tới hạn, hiệu suất phân hủy nhựa là 98% ở nhiệt độ 3500C và các sợi carbon thu được vẫn giữ lại 85÷99% độ bền so với sợi nguyên sinh (R. Pinero-Hernanz và nnk., 2008). Tuy nhiên, những thử nghiệm nêu trên được thực hiện ở quy mô rất nhỏ trong phòng thí nghiệm và thiết bị phản ứng là một nồi hấp làm bằng thép không gỉ dày 10 ml. Cần nhiều nghiên cứu và phát triển hơn nữa để mở rộng quy mô hệ thống thiết bị phản ứng. Hơn nữa, hiệu quả của quá trình hòa tan hoặc phân hủy hóa học phụ thuộc vào các loại nhựa hữu cơ sử dụng làm vật liệu nền, và việc phân tách trước các loại vật liệu composite là rất quan trọng. Do đó, quy trình này thường áp dụng cho vật liệu composite phế liệu phát sinh ra trong quá trình sản xuất vì các đặc tính của phế liệu đã được biết rõ, nhưng lại rất khó xử lý phế liệu composite thải sau tiêu dùng vì có lẫn nhiều vật liệu khác nhau mà việc tách cơ học không hiệu quả. 3.3. Tái chế vật liệu composite nền kim loại Vật liệu composite nền kim loại (MMC), phổ biến nhất là nền hợp kim nhôm, được sử dụng ngày càng nhiều trong các lĩnh vực khác nhau, ví dụ như trong ngành công nghiệp ô tô để làm vật liệu chế tạo các bộ phận động cơ. Hầu hết các sản phẩm MMC thương mại được gia cường bằng cốt sợi ngắn, râu hoặc cốt hạt như SiC, Al2O3, graphite, boron, boron cacbua và titan cacbua. Vật liệu MMC thường có giá trị kinh tế cao hơn nhiều so với các hợp kim cơ bản được sử dụng, do đó việc tái chế để tái sử dụng trực tiếp MMC như hình thức ban đầu của nó là mục đích chính và nên được xem xét đầu tiên (tái chế chính). Nếu điều đó là không thể, đặc biệt đối với MMC nền nhôm cốt sợi liên tục, việc tái chế MMC trở lại thành nhôm hoặc hợp kim được thực hiện và các vật liệu cốt sợi tách rời thường được xử lý ở bãi chôn lấp (D. Weiss, 2001). Trong hầu hết các trường hợp, MMC không liên tục, ví dụ: MMC nền nhôm cốt hạt SiC ở dạng phế liệu được nấu và đúc lại cho MMC mới để tái sử dụng trực tiếp. Chất lượng của MMC tái chế chỉ bị giảm nhẹ so với MMC sản xuất từ vật liệu mới. Chỉ có một chút 76 Nhữ Thị Kim Dung và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 62(3b), 69 - 79 thay đổi về đặc tính kéo của composite được quan sát thấy sau một số bước tái chế. Việc nấu lại nhiều lần sẽ dẫn đến giảm chất lượng của MMC, nhưng khi thêm MMC nguyên chất trong quá trình nấu lại có thể giải quyết được vấn đề này. Khi phế liệu bẩn hoặc cũ được sử dụng, nó đòi hỏi chất trợ dung và khử khí để làm sạch, hoặc chỉ thu kim loại nền thông qua quá trình nấu chảy tương tự như tái chế MMC cốt sợi liên tục (D. Weiss, 2001). Vật liệu composite nền kim loại được tái chế bằng cách nấu chảy phế liệu composite trong nhiều loại lò khác nhau như: lò cảm ứng, lò nung và lò thùng quay, đúc thành thỏi (V. Kamavaram và nnk., 2005). Kỹ thuật nấu chảy và tinh luyện rất giống với việc tái chế kim loại nhôm và hợp kim nhôm. Nishida và nnk. (1999, 2001) phân loại việc tách kim loại nhôm ra khỏi cốt thép thành hai phương pháp: cơ học và hóa học. Trong phương pháp cơ học, kim loại nền ở trạng thái nóng chảy có thể được ép ra khỏi hỗn hợp hoặc loại bỏ các hạt cốt gia cường bằng cách lọc. Trong phương pháp hóa học, thêm các hỗn hợp NaCl + KCl với muối flo bổ sung (Na2SiF6, NaF) để tạo dòng muối nóng chảy và thấm ướt tốt các hạt cốt (SiC) tách khỏi nền kim loại nóng chảy. Một phương pháp tách mới được báo cáo bởi Kamavaram và nnk. (2005) để thu hồi kim loại nhôm từ MMC bằng cách sử dụng điện phân trong chất lỏng ion. Dung dịch điện phân nóng chảy gồm 1-butyl-3-metylimidazolium clorua (BMIC) và AlCl3 khan. Hỗn hợp composite nền kim loại nhôm (Hợp kim nhôm 380 + 20 % SiC) được hòa tan điện hóa ở cực dương và nhôm nguyên chất (>98%) được lắng đọng trên cực âm bằng đồng ở 1030C. Mật độ dòng catot nằm trong khoảng 200÷500 A/m2 và hiệu suất dòng đạt khoảng 70÷90%. Mức tiêu thụ năng lượng nằm trong khoảng 3,2÷6,7 kWh/kg-Al. Mức tiêu thụ năng lượng vẫn còn quá cao so với quá trình nấu chảy lại bằng chất trợ dung hay lọc, hoặc quy trình tái chế nhôm thông thường. 4. Định hướng công tác tái chế vật liệu composite ở Việt Nam Ở Việt Nam, nghiên cứu về composite mới được chú trọng trong những năm gần đây và đã đạt được một số thành tựu ban đầu. Một trong số những đơn vị, tổ chức tiến hành nghiên cứu đầu tiên là Phân viện Khoa học vật liệu tại Thành phố Hồ Chí Minh (thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc gia) hoàn thành công trình nghiên cứu và sản xuất trong phòng thí nghiệm tấm composite từ các loại phế thải như nhựa phế liệu, mạt cưa, Trần Vĩnh Minh và nhóm cộng sự ( đã nghiên cứu vật liệu composite từ polypropylene và bột trấu làm tấm cách âm. Nhóm nghiên cứu tại Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Đà Nẵng (Đoàn Thị Thu Loan, 2014) đã nghiên cứu chế tạo composite sợi đay, mùn cưa, Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu ở Việt Nam chưa có tính hệ thống. Trong tình hình thực tế đó, việc nghiên cứu mo ̣ t cách he ̣ thóng về vật liệu composite là rất cần thiết. Cả nước hiện phát thải 28,5 triệu tấn chất thải rắn mỗi năm (gồm cả composite). Khoảng 50÷70% lượng rác thải có chứa những hợp chất có thể tái chế, tạo ra nguồn năng lượng mới. Vì vậy, một lượng lớn rác thải composite ở Việt Nam cần được tái chế thành các vật liệu mới cho ngành xây dựng, giúp giải quyết được sức ép rác thải công nghiệp, đồng thời tạo ra các vật liệu mới và thân thiện với môi trường. Mục tiêu chính là tạo ra hướng đi mới để ngăn chặn việc hình thành thêm các bãi chôn lấp chất thải gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, khó khăn là chưa có đơn vị đầu mối thu gom, các vật dụng composite qua sử dụng được bỏ rải rác khắp nơi. Hiện tại, Việt Nam có rất ít các nhà máy tái chế composite phế thải. Hiện nay, chỉ có nhà máy dự kiến được xây dựng tại tỉnh Tiền Giang với tổng vốn đầu tư 50 triệu USD. Nhà máy tái chế vật liệu composite sợi thủy tinh bằng công nghệ cao được đầu tư bởi GFSI - MHE Manufacturing of Texas LLC (Mỹ) và Minh Hưng Group (Việt Nam). Trong giai đoạn đầu, nhà máy sẽ nhập nguyên liệu composite phế thải đã qua xử lý cơ bản từ nhà máy của GFSI- MHE tại Mỹ và tiến tới xử lý các vật liệu thải bỏ từ composite đang phổ biến tại Việt Nam như: vỏ tàu thuyền, ca nô, bồn nước, tủ điện, cánh quạt gió,... Thành phẩm sau tái chế là ván ép và sau đó hướng đến phát triển các loại vật dụng composite khác như: nắp cống, tủ điện, gạch ngói, ( Một quy trình tái chế composite mới định hướng sử dụng ở Việt Nam trong tương lai là có thể chuyển đổi vật liệu composite thành các thành phần tái chế, dầu và chất xơ ban đầu. Quá trình này đặc biệt hữu ích đối với ngành công Nhữ Thị Kim Dung và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 62(3b), 69 - 79 77 nghiệp ô tô, bên cạnh đó còn mở ra khả năng ứng dụng mới cho vật liệu composite tiên tiến bằng cách tái chế. Quá trình tái chế mới kết hợp phân huỷ và phân ly vật lý. Vật liệu composite được nghiền thành khí, dầu, một ít cacbon và sợi. Dầu tái chế và chất xơ được tái chế thành chất dẻo tổng hợp. Nhiệt độ liên quan đến việc gia nhiệt chất dẻo khi không có oxy, ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ đốt, và các sợi giữ được sức kéo ban đầu thay vì trở nên giòn. Dầu và các sợi có thể được xử lý trở lại thành nhựa composite hoặc có thể được tái sử dụng theo những cách khác nhau. 5. Kết luận Hiện nay, có ba giải pháp chính để xử lý chất thải composite là chôn lấp, đốt và tái chế. Các phương pháp xử lý truyền thống (chôn lấp và đốt) ngày càng bị hạn chế và bị cấm do tác động tiêu cực đến môi trường và hệ sinh thái. Vì vậy các công ty hoạt động trong lĩnh vực vật liệu composite và khách hàng của họ đang tìm kiếm các giải pháp bền vững hơn để xử lý chất thải composite. Tuy nhiên, hiện nay những chất thải đưa ra bãi rác để chôn lấp và đốt vẫn là cách xử lý phổ biến nhất. Điều này sẽ thay đổi trong tương lai gần khi nhiều quốc gia hạn chế lựa chọn phương pháp chôn lấp do số lượng chất thải vật liệu composite từ các thiết bị hỏng ngày càng tăng nhanh. Để phát triển công nghệ tái chế vật liệu composite bền vững, cần phải lựa chọn các phương pháp tái chế tối ưu cho các loại vật liệu composite khác nhau. Các phương pháp tái chế bao gồm: cơ học, nhiệt và hóa học. Tuy nhiên, việc lựa chọn phương pháp phụ thuộc vào loại vật liệu được tái chế và ứng dụng mà nó được tái sử dụng. Đối với tái chế cơ học, chủ yếu được sử dụng để tái chế các vật liệu composite nền polyme cốt sợi thủy tinh. Các sản phẩm tái chế thu được có chất lượng tương đối thấp, các cốt sợi ngắn và không đủ sạch nên chỉ được sử dụng chủ yếu làm chất độn hoặc vật liệu gia cường trong sản xuất composite mới, chất lượng thấp hơn. Do đó, phương pháp này cũng bị hạn chế khi ứng dụng trong thực tế. Với phương pháp nhiệt thì nhiệt phân là công nghệ tái chế được áp dụng rộng rãi trong thực tế ở quy mô công nghiệp để tái chế vật liệu composite nền polyme và cốt bằng sợi thủy tinh hay sợi cacbon. Mặc dù, vật liệu nền nhựa polyme cũng có thể được thu hồi dưới dạng nhiên liệu thứ cấp hoặc polyme nguyên liệu (với các phân tử nhỏ hơn), nhưng thu hồi sợi (thủy tinh hay carbon) là mục đích chính và thiết thực đối với quá trình này. So với phương pháp tái chế cơ học và tái chế nhiệt thì phương pháp tái chế hóa học vẫn chưa phát triển. Các hệ thống hòa tan hoặc phân hủy hóa học sử dụng các dung môi khác nhau đã được nghiên cứu gần đây trong quy mô phòng thí nghiệm. Các vấn đề môi trường tiềm ẩn (tạo ra các chất thải độc hại, sử dụng và thải bỏ các chất xúc tác kiềm) cần phải được giải quyết. Phương pháp tái chế hóa học vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu. Quá trình sử dụng nước siêu tới hạn trong tái chế hóa học cho thấy tương lai đầy hứa hẹn, do tính chất thân thiện với môi trường. Nếu vấn đề môi trường và chi phí sản xuất được giải quyết, công nghệ tái chế hóa học sẽ có tiềm năng lớn khi áp dụng thương mại, vì sợi tái chế thu được hầu như không bị giảm chất lượng và vật liệu nền nhựa polyme thu được có thể sản xuất lại thành nhựa mới. Ở Việt Nam nhu cầu sử dụng vật liệu composite ngày càng tăng, khi các hãng đóng tàu, ô tô, điện gió, hàng không, đang dần chiếm được thị trường lớn trong nước và ngoài nước. Do đó việc tái chế và tái sử dụng vật liệu composite cũng được xã hội quan tâm nhiều hơn. Về mặt công nghệ, chúng ta hoàn toàn có thể tiếp cận theo công nghệ tái chế tiên tiến của thế giới. Vật liệu thải composite của Việt Nam cũng rất đa dạng, đòi hỏi các phương pháp tái chế phải phù hợp với từng loại. Công nghệ kết hợp các phương pháp tái chế cơ học, nhiệt, hóa học, tương lai có thể tạo ra các vật liệu mới có giá trị và thân thiện môi trường. Bốn quy trình chính trong tái chế vật liệu composite nhiệt đề xuất ứng dụng tại Việt Nam là: (i) nghiền, (ii) phân hủy hóa học và thu hồi sợi, (iii) nhiệt phân và (iv) đốt. Tái chế các vật liệu composite nhiệt bằng cách nghiền cho phép tái sử dụng các sợi thuỷ tinh, canxi cacbonat và nền polyme mà không cần tách các thành phần. Composite được xé nhỏ, xay thành sợi nhỏ và được sử dụng làm chất độn trong một quy trình sản xuất mới. Các sản phẩm này có cùng tính chất cơ học giống như vật liệu composite thế hệ đầu tiên. 78 Nhữ Thị Kim Dung và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 62(3b), 69 - 79 Tuy nhiên, cũng như rác thải điện tử, việc thu gom và phân loại vật liệu composite cho tái chế vẫn là khó khăn lớn nhất, đòi hỏi phải có cơ chế và sự vào cuộc của các cơ quan nhà nước ngay từ thời điểm bây giờ thì công cuộc tái chế vật liệu composite trong nước đến năm 2030 mới có thể thành hiện thực ở quy mô sản xuất. Đóng góp của các tác giả Nhữ Thị Kim Dung lên ý tưởng bài báo; Trần Trung Tới, Trần Văn Được, Phùng Tiến Thuật thu thập số liệu chỉnh sửa bài báo. Tài liệu tham khảo Directive, (2000)/53/EC on end-of-life vehicles. Official Journal of the European Union, L 269/34, 21.10.2000. Directive, (2002)/96/EC on waste electrical and electronic equipment 27 January 2003. Official Journal of the European Union, L 37/24, 13.2.2003. D. Weiss, (2001). Recycling and disposal of metal– matrix composites, in: D.B. Miracle, S.L. Donaldson (Eds.), ASM Handbook, Volume 21: Composites, ASM International®, pp. 1013- 1016. Đoàn Thị Thu Loan, (2014). Nghiên cứu chế tạo vật liệu composite từ trấu với polyethylene và polypropylene để ứng dụng làm vật liệu nội thất và gia dụng. Trường Đại học Bách Khoa – Đại học Đà Nẵng . H.L.H. Yip, S.J. Pickering, C.D. Rudd, (2002). Characterisation of carbon fibres recycled from scrap composites using fluidised bed process, Plastics, Rubber and Composites 6 (31) 278–282. https://vnexpress.net/viet-nam-se-co-nha-may-tai- che-composite-lam-van-ep-3715665.html J.M. Henshaw, (2001). Recycling and disposal of polymer–matrix composites, in: D.B. Miracle, S.L. Donaldson (Eds.), ASM Handbook, Volume 21: Composites, ASM International®, pp. 1006–1012. J. Palmer, O.R. Ghita, L. Savage, K.E. Evans, (2009). Successful closed-loop recycling of thermoset composites, Composites Part A: Applied Science and Manufacturing 40 (4) 490–498. J. Palmer, (2009). Mechanical recycling of automotive composites for use as reinforcement in thermoset composites. Ph.D. Thesis, University of Exeter, May 2009, UK. K. Larsen, (2009). Recycling wind, Reinforced Plastics 1 (53), 20–23, 35. Also available in “Renewable Energy Focus”, 31 January (www. renewable energyfocus. com). K.L. Pickering, M.D.H. Berg, (2010). Quality and durability of recycled composite materials, in: V. Goodship (Ed.), Management Recycling and Reuse of Waste Composites, WP and CRC Press, Cambridge, UK, pp. 303–327 M. Blazsó, (2010). Pyrolysis for recycling waste composites, in: V. Goodship (Ed.), Management, Recycling and Reuse of Waste Composites, WP and CRC Press, Cambridge, UK, pp. 102–121. M.E. Otheguy, et al., (2009). Recycling of end-of-life thermoplastic composite boats, Plastics, Rubber and Composites 9/10 (38) 406–411. Nguyễn Hoa Thịnh (2002), Vật liệu Composite Cơ học & Công nghệ, NXB KHKT, Hà Nội. R. Pinero-Hernanz, C. Dodds, J. Hyde, J. García-Serna, M. Poliakoff, E. Lester, M.J. Cocero, S. Kingman, S. Pickering, K.H. Wong (2008a). Chemical recycling of carbon fibre reinforced composites in near critical and supercritical water. Composites: Part A (Applied Science and Manufacturing) 39, 454–461. R. Pinero-Hernanz, J. García-Serna, C. Dodds, J. Hydec, M. Poliakoff, M.J. Cocero, S. Kingman, S. Pickering, E. Lester, (2008b). Chemical recycling of carbon fibre composites using alcohols under subcritical and supercritical conditions. Journal of Supercritical Fluids 46, 83–92. S. Pimenta, S.T. Pinho, (2011). Recycling carbon fibre reinforced polymers for structural applications: Technology review and market outlook. Waste Management 31, 378–392. S.J Pickering, (2010). Thermal methods for recycling waste composites, in: V. Goodship (Ed.), Management, Recycling and Reuse of Waste Composites. WP and CRC Press, Cambridge, UK, pp. 65–101. S.J. Pickering, (2006). Recycling technologies for thermoset composite materials – current status, Nhữ Thị Kim Dung và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 62(3b), 69 - 79 79 Composites: Part A (Applied Science and Manufacturing) 37, 1206–1215. Trần Minh Tú, Trần Ích Thịnh, (2016), Cơ học vật liệu kết cấu và Composite, NXB Xây Dựng, Hà Nội. W. Kamingsky, (2010). Fluidised bed pyrolysis of waste polymer composites for oil and gas recovery, in: V. Goodship (Ed.), Management, Recycling and Reuse of Waste Composites, WP and CRC Press, Cambridge, UK, pp. 192–213. W. Dang, M. Kubouchi, H. Sembokuya, Ken Tsuda, (2005). Chemical recycling of glass fibre reinforced epoxy resin cured with amine using nitric acid. Polymer 46, 1905–1912. V. Kamavaram, D. Mantha, R.G. Reddy, (2005). Recycling of aluminium metal matrix composite using ionic liquids: effect of process variables on current efficiency and deposit characteristics. Electrochimica Acta 50 3286–3295. Y. Nishida, N. Izawa, Y. Kuramasu, (1999). Recycling of aluminium matrix composites, Metallurgical and Materials Transactions B 30A 839–844. Y. Nishida, (2001). Recycling of metal matrix composites. Advanced Engineering Materials 5 (3) 315–317.
File đính kèm:
- tong_quan_ve_cac_phuong_phap_tai_che_vat_lieu_composite.pdf