Triết lý nhân sinh của Thiền Đại thừa thời Lý - Trần
Tóm tắt Triết lý nhân sinh của Thiền Đại thừa thời Lý - Trần: ...i sống thực tiễn nhằm đáp ứng nhu cầu đất nước: “Thanh Văn ngồi thiền, ta không ngồi. Bồ Tát thuyết pháp, ta nói thực”(8). Và khi giác ngộ là khi con người có thể “sống thực với mình”, an nhiên, tự tại trở về với cái bản thể chân như của chính mình, theo tinh thần Cư trần lạc đạo của T...ống trị và nhân dân đều dựa trên quan hệ bình đẳng, bác ái, vô ngã, vị tha. Đường lối chính trị thời Lý - Trần do chịu ảnh hưởng nhất định bởi nhân sinh của Thiền Đại thừa nên mang đậm dấu ấn của đường lối đức trị. Đường lối đức trị này mang màu sắc từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha của Phậ...c biệt, vua Trần Nhân Tông, người đã từ bỏ ngôi vua để xuất gia tu Phật, cũng là người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, chính là người hai lần lãnh đạo cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông. Ông đã lệnh cho quân sĩ xăm hai chữ “Sát Thát” để khuyến khích họ giết được nhiều gi...
ở thời Lý - Trần, các nhà sư thường là người có trí thức cao, được dùng như cố vấn chính trị, đồng thời là vị thầy tâm linh, có trách nhiệm giáo hóa đạo đức cho triều đại. Các vị vua, quan trong triều cũng đi tu và đều là những Phật tử thuần thành. Trách nhiệm của triều đình đối với người dân được coi là nghiệp thiện. Vua được dân tôn làm Phật, Bồ Tát cứu độ chúng sinh. Quan lại, trí thức yêu dân, thương dân được tôn làm Phật, Tổ, Thượng sỹ... Quan điểm nhân sinh cơ bản của Phật giáo thời này là “Phật tại Tâm”. Triết lý này chi phối trong cả quan niệm về ý nghĩa cuộc sống của con người; về chuẩn mực đạo đức; về con đường, cách thức tu hành... Quan niệm này được thể hiện rõ trong bài kệ của sư Diệu Nhân (1041 - 1113): Mê, phải cầu Phật/ Hoặc, phải cầu Thiền/ Chẳng cầu Thiền, Phật/ Mím miệng ngồi yên(7). Tuệ Trung - nhà thiền học sáng nhất thời Trần cũng cho rằng tất cả các giáo lý cao siêu sẽ trở thành hình thức xơ cứng và vô nghĩa nếu không biết vận dụng chúng vào đời sống thực tiễn nhằm đáp ứng nhu cầu đất nước: “Thanh Văn ngồi thiền, ta không ngồi. Bồ Tát thuyết pháp, ta nói thực”(8). Và khi giác ngộ là khi con người có thể “sống thực với mình”, an nhiên, tự tại trở về với cái bản thể chân như của chính mình, theo tinh thần Cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông: Ở trần vui đạo hãy tùy duyên/ Đói đến thì ăn, nhọc ngủ liền/ Trong nhà có báu thôi tìm kiếm/ Đối cảnh, không tâm hỏi chi thiền(9). Quan niệm “Phật tại Tâm” nghĩa là: Phật ở trong tâm ta không cần phải tìm kiếm đâu xa, Tâm chính là Phật, Phật chính là tâm, muốn cầu giải thoát thì phải trở lại với chính cái bản thể chân như ở trong lòng ta, chứ không thể vin vào hình thức trì giới hay nhờ vào các thế lực siêu nhiên bên ngoài như Phật, Bồ Tát... Tu Phật nhằm mục đích cuối cùng là giải thoát - đạt đạo, nhưng không đối lập với cuộc sống thế tục. Chính vì vậy, triết lý “Phật tại Tâm” đã mở ra khả năng nhập thế tích cực của Phật giáo thời Lý - Trần. Tinh thần nhập thế ở thiền Phật giáo đã có ảnh hưởng lớn trong mọi tư tưởng và trong hoạt động chính trị ở thời kỳ này. Các vị thiền sư được coi là đạt đạo, nhưng cũng có những đóng góp tích cực vào công cuộc dựng nước và giữ nước. Thời Lý, các vua rất coi trọng ý kiến đóng góp của các vị cao tăng và thường mời họ vào triều. Các vị sư Vạn Hạnh, Đa Bảo, Viên Thông đều rất tích cực tham chính. Tuy nhiên, họ không sa vào vòng danh lợi, xong việc thì lui về (7) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý - Trần, t.1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.340. (8) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý - Trần, t.2, Sđd, tr.283. (9) Trương Văn Chung (1998), Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.155. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 44 chùa. Triết lý này đã được Thiền sư Vạn Hạnh thể hiện rất rõ: “Làm thì làm, nhưng không mắc kẹt vào công việc, không nương tựa vào hữu vi”(10). Các thiền sư tham gia chính sự bởi họ là người có học thức, có ý thức trách nhiệm với quốc gia, muốn đóng góp sức mình cho đất nước. Hơn ai hết họ hiểu rằng: muốn thành Phật thì ngoài việc phải có đủ tuệ mẫn, còn phải phát nguyện tâm từ bi để phổ độ chúng sinh mới đạt tới giải thoát. Kế thừa và phát huy truyền thống nhập thế “đạo Phật không rời cuộc sống” của thời Lý, các vị vua quan, thiền sư thời Trần cũng “đem đạo đi vào cuộc đời” một cách tích cực. Dù là Phật tử thuần thành, hay cư sĩ tại gia, khi đất nước bị xâm lăng họ sẵn sàng “cởi áo cà sa, khoác chiến bào”. Phong cách của các nhà sư nhập thế thời Trần là sống “hòa quan đồng trần” tức là sống hòa lẫn trong thế tục. Đây cũng là lời khuyên của Quốc sư Trúc Lâm, khi vua Trần Thái Tông muốn lên núi tu Phật: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng lẽ mà hiểu đó là chân Phật. Nay bệ hạ giác ngộ điều đó thì lập tức thành Phật, không phải khổ công tìm kiếm bên ngoài”(11). Chính vì vậy, khi tổ quốc bị đe dọa bởi họa xâm lăng, các thiền sư đều xung phong ra trận và không phải khi đất nước yên bình họ trở lại chiếu thiền, mà thiền ngay trong cuộc sống hằng ngày. Tuệ Trung Thượng Sỹ cũng cho rằng: tất cả các giáo lý cao siêu sẽ trở thành hình thức xơ cứng và vô nghĩa nếu không biết vận dụng chúng vào đời sống thực tiễn nhằm đáp ứng nhu cầu đất nước. Triết lý này được thể hiện rõ trong tư tưởng và hành động của Tuệ Trung Thượng Sỹ: “Đi cũng thiền! Ngồi cũng thiền! Trong lò lửa đỏ một bông sen”(12). Các thiền sư cho rằng đừng có tìm chân lý ở ngoài cuộc đời và trong sách vở. Phật là tâm, nên lấy nó tự tìm hiểu nó. Bởi, để giác ngộ không được chấp vào bất cứ điều gì, vì vậy, không thể vin vào hình thức bên ngoài mà cầu mong giải thoát. Con người đã ngộ đạo, không cần khư khư giữ giới. Chỉ cần thân tâm trong sáng, thái độ sống tích cực, không nhất nhất phải tuân thủ nghiêm túc những giới luật. Theo các thiền sư: Ăn thịt và ăn cỏ/ Chúng sinh từng loài đó/ Xuân về cây cỏ sinh/ Họa phúc nào đâu có(13). Đạt đạo nghĩa là phải hòa mình vào cuộc sống bình thường, không chấp vào danh - lợi, luôn hành động và suy nghĩ vì lợi ích chung. Thiền sư Quang Nghiêm viết: Thoát tịch diệt xong, bàn tịch diệt/ Sau vô sinh, hãy nói vô sinh/Làm trai lập chí xông trời thẳm/Theo gót Như Lai luống nhọc mình(14). Tư tưởng này đã cổ vũ cho tinh thần: tu thiền phải gắn với đời sống thực tiễn; lý luận phải gắn với hành động. Chính tư tưởng tu Phật nhưng lại không câu nệ vào hình thức này đã mang lại một tư duy tích cực cho các thiền sư, Phật tử, khích lệ tinh thần xuất thế. Bởi tu thiền không chỉ dừng lại ở việc trì giới, niệm Phật mà còn ở những hành động, lý tưởng cao cả nhằm giúp đời, giúp nước. Tư tưởng “Phật tại (10) Nguyễn Duy Hinh (1999), Tuệ trung, nhân sĩ, thượng sĩ, thi sĩ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.21. (11) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý - Trần, t. 2, Sđd, tr.27. (12) Sđd, tr.277. (13) Sđd, tr.291. (14) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý - Trần, t.1, Sđd, tr.522. Triết lý nhân sinh của Thiền Đại thừa... 45 Tâm” chính là nguyên nhân đem lại cho đời sống chính trị thời Lý - Trần sự “thuần từ”, hạnh phúc, mối quan hệ giữa vua và quan, tầng lớp thống trị và nhân dân đều dựa trên quan hệ bình đẳng, bác ái, vô ngã, vị tha. Đường lối chính trị thời Lý - Trần do chịu ảnh hưởng nhất định bởi nhân sinh của Thiền Đại thừa nên mang đậm dấu ấn của đường lối đức trị. Đường lối đức trị này mang màu sắc từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha của Phật giáo; khác với “đức trị” trong Khổng giáo. Bởi “đạo lý của Nho gia nhằm giữ vững quyền thống trị của thế lực vua quan phong kiến”(15), chứ chưa tạo được ảnh hưởng đáng kể trong đời sống tâm linh, tình cảm của người Việt. Thuyết chính danh, thiên tử, tu thân, tề gia, trị quốc, trung quân của Khổng giáo ít nhiều đã có ảnh hưởng đến đời sống chính trị, nhưng chủ yếu chỉ ảnh hưởng ở mô hình nhà nước và thiết chế bộ máy quan lại phong kiến tập quyền hoặc trong tư tưởng của một số nhà Nho trong triều đình. Tuy Khổng giáo là học thuyết bàn nhiều đến chính trị và các quan hệ trong thiết chế chính trị, được giai cấp thống trị sử dụng để xây dựng nhà nước và bộ máy thống trị của mình, nhưng thiện cảm của người dân dành cho Phật giáo vẫn rất lớn, khiến việc sử dụng Khổng giáo vẫn bị hạn chế, “chính quyền nhà Lý là một chính quyền sùng Phật và thân dân”(16). Trên phương diện tư tưởng, nhiều vị vua vẫn chịu ảnh hưởng rất lớn bởi triết lý nhân sinh của thiền Phật giáo. Các vị vua đó vẫn chủ trương xây dựng và hoàn thiện một hệ tư tưởng Phật giáo riêng biệt, mang đậm bản sắc dân tộc, nhằm khẳng định nền độc lập và tạo ra nét khác biệt về văn hóa so với phong kiến Phương Bắc. Thời kỳ này, Trung Hoa không còn ưa dùng Phật giáo, nhà Tống (960 - 1278) trọng Khổng giáo, nhà Nguyên - Mông (1280 - 1341) lại đề cao Lạt Ma giáo. Thêm nữa, người dân Đại Việt vừa trải qua kiếp lầm than của 1000 năm đô hộ, nếu triều đình đề cao Khổng giáo thì nhân dân sẽ không ủng hộ vì Khổng giáo mang lại cảm giác như “bị đô hộ một lần nữa”. Việc lựa chọn Phật giáo làm hệ tư tưởng chủ đạo là cần thiết và phù hợp với tình cảm người dân Đại Việt. Và trong thực tế chính trị thời Tiền Lý, Ngô, Đinh, Tiền Lê đã chứng minh, Phật giáo đã hoàn thành tốt sứ mệnh của mình trong vai trò cố vấn chính trị. Sang thời Lý - Trần, Phật giáo lại tiếp tục phát huy những ảnh hưởng tích cực đó. Phật giáo được sử dụng như là phương tiện để giai cấp thống trị củng cố chế độ và duy trì quyền hạn tối thượng của nhà vua, nhưng phương tiện ấy rất nhân văn làm cho nền chính trị mang đậm tính văn hóa.(15) 3. Triết lý nhân sinh của Thiền Đại thừa với công cuộc dựng nước, giữ nước thời Lý - Trần Với những giá trị nhân văn, nhân đạo trong triết lý nhân sinh quan, Phật giáo dễ dàng dung hợp cho mọi nền văn hóa, thích hợp với nhiều đối tượng. Cũng nhờ đó mà Phật giáo vượt qua cả Khổng giáo, Đạo giáo để có tác động lớn hơn cả đến thực tiễn xã hội và tư tưởng chính trị trong nhà nước phong kiến giai đoạn Lý - Trần. Qua sự thẩm thấu trong đời sống tinh thần của mỗi (15) Lê Văn Quán (2008), Lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Việt Nam từ Bắc thuộc đến thời kỳ Lý - Trần, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.242. (16) Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên) (2003), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.71. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 46 người dân Đại Việt, Phật giáo dần có ảnh hưởng đến đời sống, tư tưởng chính trị của đất nước, góp phần không nhỏ cho những thành tựu trên mọi lĩnh vực ở thời Lý - Trần. Chủ trương tự giải thoát của Thiền Đại thừa đã góp phần khích lệ và đề cao khả năng của bản thân trong việc giải phóng mình khỏi cuộc sống lầm than, đã ảnh hưởng tích cực đến tinh thần, khí phách của quân dân Đại Việt. Vì vậy, khi quân giặc kéo sang, toàn dân đã đứng lên đánh giặc, tạo ra sức mạnh khó kẻ thù nào địch nổi. Tinh thần “quyết không chịu khuất phục” trước bất cứ kẻ thù nào đã tạo nên chiến thắng đối với kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần. Thời Lý, nhân dân tham gia chống quân Tống đông đảo đến mức Tể tướng Vương An Thạch phải thừa nhận: “Cả nước Giao Chỉ, nhà có 6 người thì 5 người tòng quân, còn một người không đi được nên phải ở lại”(17). Sang thời Trần, với sự lãnh đạo của các vị Vua - Phật và tướng lĩnh tài ba, nhân dân cũng hết lòng ủng hộ và hưởng ứng lời kêu gọi của triều đình: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến đều phải liều chết mà đánh”, nếu không đánh lại được thì tránh, quyết không hàng giặc. Những nơi có giặc đi qua, nhân dân đều thực hiện mưu kế: cất giấu lương thực, vườn không nhà trống. Vì vậy, “trong cả ba lần chiến tranh, quân Nguyên - Mông đều khốn đốn vì thiếu lương ăn, không những bị quân nhà Trần đánh tan mà còn vì chúng không tài nào cướp được lương thực trong nhân dân”(18). Tư tưởng bình đẳng, dân chủ được đề cập nhiều trong triết lý nhân sinh của Phật giáo Đại thừa đã giúp con người tự vươn lên, đấu tranh để thoát khỏi nỗi khổ của sự áp bức, bóc lột. Tinh thần này kết hợp với lòng yêu nước - vốn là truyền thống của dân tộc ta, tạo nên khí thế “cả nước góp sức” đánh giặc. Đó chính là thành quả được dày công vun đắp của các vua quan, Phật tử thời Lý - Trần từ những năm tháng hòa bình. Khi giặc ngoại xâm đến, tinh thần ấy có điều kiện phát huy và ngày càng dâng cao. Chính vì vậy, dù là các vị thiền sư hay Phật tử thuần thành đến khi chiến tranh xảy ra, tất cả đều hăng hái lên đường diệt giặc. Đặc biệt, vua Trần Nhân Tông, người đã từ bỏ ngôi vua để xuất gia tu Phật, cũng là người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, chính là người hai lần lãnh đạo cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông. Ông đã lệnh cho quân sĩ xăm hai chữ “Sát Thát” để khuyến khích họ giết được nhiều giặc. Điều này nhân sinh quan Phật giáo nguyên thủy không thể chấp nhận, vì phạm giới luật: cấm sát sinh. Nhưng trong hoàn cảnh quân giặc tràn sang cướp phá, sát hại con dân Đại Việt, nếu cứ nệ luật, để mặc nhiên cho đồng bào và non sông chìm trong biển máu sẽ là trái đạo; chỉ cầu giải thoát cho mình mà vô tình với đồng loại thì thành Phật cũng chẳng có ý nghĩa gì. Vậy nên, lúc này “giới luật” của Phật giáo được vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện chiến tranh: giết kẻ thù xâm lược để cứu dân tộc là “từ bi”, đánh kẻ xâm phạm bờ cõi mới là “đạt đạo”.(17) Triết lý nhân sinh Phật tại Tâm vẫn nhằm mục đích là giác ngộ, nhưng giác ngộ (17) Hoàng Xuân Hãn (1941), Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.275. (18) Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Kế sách giữ nước thời Lý - Trần, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.192 - 193. Triết lý nhân sinh của Thiền Đại thừa... 47 không phải để thoát khỏi vòng sinh - tử, mà để giải thoát ngay tại cõi trần. Bởi, Phật ở ngay chính trong tâm mỗi người, giải thoát là phải sống hòa mình với cuộc sống, sống không khác mọi người, sống có ích. Vì vậy, tinh thần nhập thế tích cực giúp các tăng ni, Phật tử luôn được hòa mình cùng với công cuộc dựng nước và giữ nước của nhân dân Đại Việt. “Cứu khổ, cứu nạn” nghĩa là phải hòa mình vào cuộc đấu tranh của nhân dân; giải phóng họ khỏi nỗi đau khổ của cảnh mất nước; bảo vệ quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người. Nên việc tu luyện để đạt đạo hay quan tâm kiến tính thành Phật sẽ được thực hiện ngay trên trần gian, trong cuộc sống thường nhật của mỗi người. Thiền tông khuyên con người phải làm chủ suy nghĩ và hành động của mình, để thấy được cái chân tâm tự tính nơi bản thân mình để giác ngộ thành Phật. Vậy phải tu luyện nghiêm túc mới chứng ngộ được “Chân tâm” ấy. Chính sự tu tập công phu, nhiều thiền sư đã tạo nên những kỳ tích hai lần chiến thắng giặc Tống ở thời Lý. Lý Thường Kiệt cũng là người rất mộ đạo. Tinh thần yêu nước đã được kết hợp với lòng mộ đạo đã tạo ra một nhân cách lớn: “Thái úy tuy thân vướng việc đời mà lòng vẫn luôn hướng về Tam thừa (chỉ tiểu thừa, trung thừa, đại thừa, tức là Phật giáo nói chung)... không ngừng hộ trì Phật pháp”(19). Vị tướng quân kiệt suất Trần Hưng Đạo cũng là một người tu thiền: “Tiết chế đã đến chùa Vĩnh Nghiêm tọa thiền, không phải tự giác giải thoát cho mình, như thế chưa đủ trước thế giặc mạnh, mà phải cưu mang chúng sinh”(20). Trong Hịch tướng sĩ, tư tưởng thiền được thể hiện rõ: “Đã một lần ta nghĩ đến ta không phải ta như người bộ hành sau bao thuở lang thang trên khắp nẻo đường hoang vắng để tìm lại ta tự ngã cho lòng thanh thản, siêu thoát, từ tự giác đi vào tha giác”(21). Chính vì tu thiền nên ông đã trang bị cho bản thân một thể lực dẻo dai và trí tuệ minh mẫn, tạo ra bản lĩnh của một vị tướng tài ba trên chiến trận, luôn bình tĩnh, linh hoạt trước mọi biến cố. Ông đã sáng suốt tuyển chọn được nhiều tướng tài, đóng góp tích cực vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. Với Phạm Ngũ Lão, khi thấy ông bị quân lính đâm giáo vào đùi vì ngồi chắn giữa đường đi, nhưng vẫn thản nhiên không lay động, Trần Hưng Đạo liền mời nhập đội quân và giao nhiều trọng trách, bởi ông biết “Phạm Ngũ Lão tu luyện thiền tới trình độ cao, và ở thời ấy, một người như vậy cũng rất có khả năng là võ thuật vô cùng cao siêu”(22). Phương pháp tu luyện công phu của thiền đã giúp rèn luyện thân thể và tâm tính của cả vua quan, tướng lĩnh, làm cho mối quan hệ giữa tướng lĩnh và quân lính như “là thầy giáo, là giáo sĩ, giáo chủ”(23). Chính vì tập hợp và xây dựng được một đội quân tinh nhuệ, lại có sự gắn bó chặt chẽ “đội quân cha con”(24), cộng thêm sự ủng hộ, giúp sức của toàn dân, nên dù lực lượng (19) Nguyễn Khắc Thuần (2007), Lần theo dấu xưa, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.5. (20) Viện Khoa học xã hội Việt Nam, (1993), Tuệ Trung Thượng Sỹ với Thiền tông Việt Nam, (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Tp. Hồ Chí Minh, tr.126. (21) Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1993), Tuệ Trung Thượng Sỹ với Thiền tông Việt Nam, Sđd, tr.228. (22) Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2012), Đạo pháp - dân tộc - chủ nghĩa xã hội, Nxb Tổng hợp, Hà Nội, tr.350. (23) Sđd, tr.351. (24) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học (1988), Sđd, tr.397. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 48 không nhiều, phương tiện chiến đấu còn hạn chế nhưng quân dân Đại Việt đều lập nên chiến thắng vẻ vang trước những kẻ thù hùng mạnh. Hồ Quý Ly sau này cũng rất muốn tiếp nối tinh thần ấy nhưng đã không làm được, quân đội của ông “trăm vạn quân như trăm vạn lòng”(25) nên đã nhanh chóng thất bại và tan rã khi đối đầu với quân xâm lược nhà Minh. Chính được rèn luyện bởi tinh thần thiền định, đội quân nhà Trần mới có được sự đoàn kết, ý chí và lòng quả cảm tạo nên sức mạnh quân sự. Như vậy, do chịu ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo mà vua, quan lại và nhân dân thời Lý - Trần phần đông đều sống theo tinh thần nhân văn, nhân đạo của Phật giáo: hướng thiện bằng việc phục vụ nhân sinh, xã hội mà không màng đến danh lợi, địa vị cho bản thân. Vì vậy, triều đình đã tạo được: “Một cuộc chiến toàn diện, toàn dân đánh giặc dưới sự lãnh đạo tài tình của một bộ tham mưu thống nhất, nhiều mưu lược”(26). Cũng bởi, xuyên suốt trong phong thái hành đạo và hoạt động chính trị của các thiền sư là thái độ “vô ngã, vị tha”, nên dù ảnh hưởng lớn đến chính trị, nhưng Phật giáo không chủ trương xây dựng giáo quyền áp đặt lên trên quyền lực chính trị. Ngay cả khi các thế lực Phật giáo đủ quyền uy có thể lật đổ ngai vàng nhưng đại diện của Phật giáo luôn giữ quan hệ hợp tác, giúp đỡ triều đình tối đa, mà không có tham vọng tranh giành quyền lực, nêu cao gương sáng về đạo đức, trí tuệ xuất thế, và họ được cả triều đình và người dân kính trọng. Ngày nay, ảnh hưởng của Phật giáo trên lĩnh vực tư tưởng vẫn còn khá rõ nét. Đồng thời lối ứng xử vị tha, nhân văn, từ bi của nhân dân trước những diễn biến chính trị của đất nước cũng có ảnh hưởng nhất định và góp phần không nhỏ tạo nên sức mạnh trên mặt trận quân sự - ngoại giao của Việt Nam. Đó là lý do nên tìm hiểu, tái hiện ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với sức mạnh chính trị, tư tưởng, quân sự thời Lý - Trần, để học hỏi, để kế thừa và đồng thời cũng để loại bỏ những yếu tố không còn phù hợp.(25) Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tuệ trung, nhân sĩ, thượng sĩ, thi sĩ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 2. Nguyễn Hùng Hậu (1997), Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 3. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên) (2003), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 4. Lê Văn Quán (2008), Lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Việt Nam từ Bắc thuộc đến thời kỳ Lý - Trần, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Nguyễn Đăng Thục (1997), Thiền học Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Long An. 6. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, (1993), Tuệ Trung Thượng Sĩ với Thiền tông Việt Nam (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Tp. Hồ Chí Minh. 7. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Kế sách giữ nước thời Lý - Trần, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học (1977 - 1988), Thơ văn Lý - Trần, t.1, 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 9. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1986), Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội. (25) (1976), Nguyễn Trãi Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.130. (26) Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Kế sách giữ nước thời Lý - Trần, Sđd, tr.196. Triết lý nhân sinh của Thiền Đại thừa... 49
File đính kèm:
- triet_ly_nhan_sinh_cua_thien_dai_thua_thoi_ly_tran.pdf