Triết lý nhân sinh của Thiền Đại thừa thời Lý - Trần

Tóm tắt Triết lý nhân sinh của Thiền Đại thừa thời Lý - Trần: ...i sống thực tiễn nhằm đáp ứng nhu cầu đất nước: “Thanh Văn ngồi thiền, ta không ngồi. Bồ Tát thuyết pháp, ta nói thực”(8). Và khi giác ngộ là khi con người có thể “sống thực với mình”, an nhiên, tự tại trở về với cái bản thể chân như của chính mình, theo tinh thần Cư trần lạc đạo của T...ống trị và nhân dân đều dựa trên quan hệ bình đẳng, bác ái, vô ngã, vị tha. Đường lối chính trị thời Lý - Trần do chịu ảnh hưởng nhất định bởi nhân sinh của Thiền Đại thừa nên mang đậm dấu ấn của đường lối đức trị. Đường lối đức trị này mang màu sắc từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha của Phậ...c biệt, vua Trần Nhân Tông, người đã từ bỏ ngôi vua để xuất gia tu Phật, cũng là người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, chính là người hai lần lãnh đạo cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông. Ông đã lệnh cho quân sĩ xăm hai chữ “Sát Thát” để khuyến khích họ giết được nhiều gi...

pdf9 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 202 | Lượt tải: 1download
Nội dung tài liệu Triết lý nhân sinh của Thiền Đại thừa thời Lý - Trần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 ở thời Lý - Trần, các nhà sư thường là 
người có trí thức cao, được dùng như cố 
vấn chính trị, đồng thời là vị thầy tâm linh, 
có trách nhiệm giáo hóa đạo đức cho triều 
đại. Các vị vua, quan trong triều cũng đi tu 
và đều là những Phật tử thuần thành. Trách 
nhiệm của triều đình đối với người dân 
được coi là nghiệp thiện. Vua được dân tôn 
làm Phật, Bồ Tát cứu độ chúng sinh. Quan 
lại, trí thức yêu dân, thương dân được tôn 
làm Phật, Tổ, Thượng sỹ... Quan điểm nhân 
sinh cơ bản của Phật giáo thời này là “Phật 
tại Tâm”. Triết lý này chi phối trong cả 
quan niệm về ý nghĩa cuộc sống của con 
người; về chuẩn mực đạo đức; về con 
đường, cách thức tu hành... Quan niệm này 
được thể hiện rõ trong bài kệ của sư Diệu 
Nhân (1041 - 1113): Mê, phải cầu Phật/ 
Hoặc, phải cầu Thiền/ Chẳng cầu Thiền, 
Phật/ Mím miệng ngồi yên(7). 
Tuệ Trung - nhà thiền học sáng nhất thời 
Trần cũng cho rằng tất cả các giáo lý cao 
siêu sẽ trở thành hình thức xơ cứng và vô 
nghĩa nếu không biết vận dụng chúng vào 
đời sống thực tiễn nhằm đáp ứng nhu cầu 
đất nước: “Thanh Văn ngồi thiền, ta không 
ngồi. Bồ Tát thuyết pháp, ta nói thực”(8). 
Và khi giác ngộ là khi con người có thể 
“sống thực với mình”, an nhiên, tự tại trở 
về với cái bản thể chân như của chính 
mình, theo tinh thần Cư trần lạc đạo của 
Trần Nhân Tông: Ở trần vui đạo hãy tùy 
duyên/ Đói đến thì ăn, nhọc ngủ liền/ 
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm/ Đối cảnh, 
không tâm hỏi chi thiền(9). 
Quan niệm “Phật tại Tâm” nghĩa là: Phật 
ở trong tâm ta không cần phải tìm kiếm đâu 
xa, Tâm chính là Phật, Phật chính là tâm, 
muốn cầu giải thoát thì phải trở lại với 
chính cái bản thể chân như ở trong lòng ta, 
chứ không thể vin vào hình thức trì giới hay 
nhờ vào các thế lực siêu nhiên bên ngoài 
như Phật, Bồ Tát... Tu Phật nhằm mục đích 
cuối cùng là giải thoát - đạt đạo, nhưng 
không đối lập với cuộc sống thế tục. Chính 
vì vậy, triết lý “Phật tại Tâm” đã mở ra khả 
năng nhập thế tích cực của Phật giáo thời 
Lý - Trần. 
Tinh thần nhập thế ở thiền Phật giáo đã 
có ảnh hưởng lớn trong mọi tư tưởng và 
trong hoạt động chính trị ở thời kỳ này. Các 
vị thiền sư được coi là đạt đạo, nhưng cũng 
có những đóng góp tích cực vào công cuộc 
dựng nước và giữ nước. Thời Lý, các vua 
rất coi trọng ý kiến đóng góp của các vị cao 
tăng và thường mời họ vào triều. Các vị sư 
Vạn Hạnh, Đa Bảo, Viên Thông đều rất tích 
cực tham chính. Tuy nhiên, họ không sa 
vào vòng danh lợi, xong việc thì lui về 
(7) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học 
(1977), Thơ văn Lý - Trần, t.1, Nxb Khoa học xã hội, 
Hà Nội, tr.340. 
(8) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học 
(1988), Thơ văn Lý - Trần, t.2, Sđd, tr.283. 
(9) Trương Văn Chung (1998), Tư tưởng triết học 
của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần, Nxb Khoa học 
xã hội, Hà Nội, tr.155. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 
 44 
chùa. Triết lý này đã được Thiền sư Vạn 
Hạnh thể hiện rất rõ: “Làm thì làm, nhưng 
không mắc kẹt vào công việc, không nương 
tựa vào hữu vi”(10). Các thiền sư tham gia 
chính sự bởi họ là người có học thức, có ý 
thức trách nhiệm với quốc gia, muốn đóng 
góp sức mình cho đất nước. Hơn ai hết họ 
hiểu rằng: muốn thành Phật thì ngoài việc 
phải có đủ tuệ mẫn, còn phải phát nguyện 
tâm từ bi để phổ độ chúng sinh mới đạt tới 
giải thoát. 
Kế thừa và phát huy truyền thống nhập 
thế “đạo Phật không rời cuộc sống” của 
thời Lý, các vị vua quan, thiền sư thời Trần 
cũng “đem đạo đi vào cuộc đời” một cách 
tích cực. Dù là Phật tử thuần thành, hay cư 
sĩ tại gia, khi đất nước bị xâm lăng họ sẵn 
sàng “cởi áo cà sa, khoác chiến bào”. 
Phong cách của các nhà sư nhập thế thời 
Trần là sống “hòa quan đồng trần” tức là 
sống hòa lẫn trong thế tục. Đây cũng là lời 
khuyên của Quốc sư Trúc Lâm, khi vua 
Trần Thái Tông muốn lên núi tu Phật: 
“Trong núi vốn không có Phật, Phật ở 
ngay trong lòng. Lòng lặng lẽ mà hiểu đó 
là chân Phật. Nay bệ hạ giác ngộ điều đó 
thì lập tức thành Phật, không phải khổ 
công tìm kiếm bên ngoài”(11). Chính vì 
vậy, khi tổ quốc bị đe dọa bởi họa xâm 
lăng, các thiền sư đều xung phong ra trận 
và không phải khi đất nước yên bình họ trở 
lại chiếu thiền, mà thiền ngay trong cuộc 
sống hằng ngày. Tuệ Trung Thượng Sỹ 
cũng cho rằng: tất cả các giáo lý cao siêu 
sẽ trở thành hình thức xơ cứng và vô nghĩa 
nếu không biết vận dụng chúng vào đời 
sống thực tiễn nhằm đáp ứng nhu cầu đất 
nước. Triết lý này được thể hiện rõ trong 
tư tưởng và hành động của Tuệ Trung 
Thượng Sỹ: “Đi cũng thiền! Ngồi cũng 
thiền! Trong lò lửa đỏ một bông sen”(12). 
Các thiền sư cho rằng đừng có tìm chân 
lý ở ngoài cuộc đời và trong sách vở. Phật là 
tâm, nên lấy nó tự tìm hiểu nó. Bởi, để giác 
ngộ không được chấp vào bất cứ điều gì, vì 
vậy, không thể vin vào hình thức bên ngoài 
mà cầu mong giải thoát. Con người đã ngộ 
đạo, không cần khư khư giữ giới. Chỉ cần 
thân tâm trong sáng, thái độ sống tích cực, 
không nhất nhất phải tuân thủ nghiêm túc 
những giới luật. Theo các thiền sư: Ăn thịt 
và ăn cỏ/ Chúng sinh từng loài đó/ Xuân về 
cây cỏ sinh/ Họa phúc nào đâu có(13). 
Đạt đạo nghĩa là phải hòa mình vào cuộc 
sống bình thường, không chấp vào danh - 
lợi, luôn hành động và suy nghĩ vì lợi ích 
chung. Thiền sư Quang Nghiêm viết: Thoát 
tịch diệt xong, bàn tịch diệt/ Sau vô sinh, hãy 
nói vô sinh/Làm trai lập chí xông trời 
thẳm/Theo gót Như Lai luống nhọc mình(14). 
Tư tưởng này đã cổ vũ cho tinh thần: tu 
thiền phải gắn với đời sống thực tiễn; lý 
luận phải gắn với hành động. Chính tư 
tưởng tu Phật nhưng lại không câu nệ vào 
hình thức này đã mang lại một tư duy tích 
cực cho các thiền sư, Phật tử, khích lệ tinh 
thần xuất thế. Bởi tu thiền không chỉ dừng 
lại ở việc trì giới, niệm Phật mà còn ở 
những hành động, lý tưởng cao cả nhằm 
giúp đời, giúp nước. Tư tưởng “Phật tại 
(10) Nguyễn Duy Hinh (1999), Tuệ trung, nhân sĩ, 
thượng sĩ, thi sĩ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 
tr.21. 
(11) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn 
học (1988), Thơ văn Lý - Trần, t. 2, Sđd, tr.27. 
(12) Sđd, tr.277. 
(13) Sđd, tr.291. 
(14) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn 
học (1977), Thơ văn Lý - Trần, t.1, Sđd, tr.522. 
Triết lý nhân sinh của Thiền Đại thừa... 
 45 
Tâm” chính là nguyên nhân đem lại cho đời 
sống chính trị thời Lý - Trần sự “thuần từ”, 
hạnh phúc, mối quan hệ giữa vua và quan, 
tầng lớp thống trị và nhân dân đều dựa trên 
quan hệ bình đẳng, bác ái, vô ngã, vị tha. 
Đường lối chính trị thời Lý - Trần do 
chịu ảnh hưởng nhất định bởi nhân sinh của 
Thiền Đại thừa nên mang đậm dấu ấn của 
đường lối đức trị. Đường lối đức trị này 
mang màu sắc từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha 
của Phật giáo; khác với “đức trị” trong 
Khổng giáo. Bởi “đạo lý của Nho gia nhằm 
giữ vững quyền thống trị của thế lực vua 
quan phong kiến”(15), chứ chưa tạo được 
ảnh hưởng đáng kể trong đời sống tâm linh, 
tình cảm của người Việt. Thuyết chính 
danh, thiên tử, tu thân, tề gia, trị quốc, trung 
quân của Khổng giáo ít nhiều đã có ảnh 
hưởng đến đời sống chính trị, nhưng chủ 
yếu chỉ ảnh hưởng ở mô hình nhà nước và 
thiết chế bộ máy quan lại phong kiến tập 
quyền hoặc trong tư tưởng của một số nhà 
Nho trong triều đình. Tuy Khổng giáo là 
học thuyết bàn nhiều đến chính trị và các 
quan hệ trong thiết chế chính trị, được giai 
cấp thống trị sử dụng để xây dựng nhà nước 
và bộ máy thống trị của mình, nhưng thiện 
cảm của người dân dành cho Phật giáo vẫn 
rất lớn, khiến việc sử dụng Khổng giáo vẫn 
bị hạn chế, “chính quyền nhà Lý là một 
chính quyền sùng Phật và thân dân”(16). 
Trên phương diện tư tưởng, nhiều vị vua 
vẫn chịu ảnh hưởng rất lớn bởi triết lý nhân 
sinh của thiền Phật giáo. Các vị vua đó vẫn 
chủ trương xây dựng và hoàn thiện một hệ 
tư tưởng Phật giáo riêng biệt, mang đậm 
bản sắc dân tộc, nhằm khẳng định nền độc 
lập và tạo ra nét khác biệt về văn hóa so với 
phong kiến Phương Bắc. Thời kỳ này, 
Trung Hoa không còn ưa dùng Phật giáo, 
nhà Tống (960 - 1278) trọng Khổng giáo, 
nhà Nguyên - Mông (1280 - 1341) lại đề 
cao Lạt Ma giáo. Thêm nữa, người dân Đại 
Việt vừa trải qua kiếp lầm than của 1000 
năm đô hộ, nếu triều đình đề cao Khổng 
giáo thì nhân dân sẽ không ủng hộ vì 
Khổng giáo mang lại cảm giác như “bị đô 
hộ một lần nữa”. Việc lựa chọn Phật giáo 
làm hệ tư tưởng chủ đạo là cần thiết và phù 
hợp với tình cảm người dân Đại Việt. Và 
trong thực tế chính trị thời Tiền Lý, Ngô, 
Đinh, Tiền Lê đã chứng minh, Phật giáo đã 
hoàn thành tốt sứ mệnh của mình trong vai 
trò cố vấn chính trị. Sang thời Lý - Trần, 
Phật giáo lại tiếp tục phát huy những ảnh 
hưởng tích cực đó. Phật giáo được sử dụng 
như là phương tiện để giai cấp thống trị 
củng cố chế độ và duy trì quyền hạn tối 
thượng của nhà vua, nhưng phương tiện ấy 
rất nhân văn làm cho nền chính trị mang 
đậm tính văn hóa.(15) 
3. Triết lý nhân sinh của Thiền Đại 
thừa với công cuộc dựng nước, giữ nước 
thời Lý - Trần 
Với những giá trị nhân văn, nhân đạo 
trong triết lý nhân sinh quan, Phật giáo dễ 
dàng dung hợp cho mọi nền văn hóa, thích 
hợp với nhiều đối tượng. Cũng nhờ đó mà 
Phật giáo vượt qua cả Khổng giáo, Đạo giáo 
để có tác động lớn hơn cả đến thực tiễn xã 
hội và tư tưởng chính trị trong nhà nước 
phong kiến giai đoạn Lý - Trần. Qua sự 
thẩm thấu trong đời sống tinh thần của mỗi 
(15) Lê Văn Quán (2008), Lịch sử tư tưởng chính trị - 
xã hội Việt Nam từ Bắc thuộc đến thời kỳ Lý - Trần, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.242. 
(16) Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên) (2003), Tiến 
trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.71. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 
 46 
người dân Đại Việt, Phật giáo dần có ảnh 
hưởng đến đời sống, tư tưởng chính trị của 
đất nước, góp phần không nhỏ cho những 
thành tựu trên mọi lĩnh vực ở thời Lý - Trần. 
Chủ trương tự giải thoát của Thiền Đại 
thừa đã góp phần khích lệ và đề cao khả 
năng của bản thân trong việc giải phóng 
mình khỏi cuộc sống lầm than, đã ảnh 
hưởng tích cực đến tinh thần, khí phách của 
quân dân Đại Việt. Vì vậy, khi quân giặc 
kéo sang, toàn dân đã đứng lên đánh giặc, 
tạo ra sức mạnh khó kẻ thù nào địch nổi. 
Tinh thần “quyết không chịu khuất phục” 
trước bất cứ kẻ thù nào đã tạo nên chiến 
thắng đối với kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều 
lần. Thời Lý, nhân dân tham gia chống 
quân Tống đông đảo đến mức Tể tướng 
Vương An Thạch phải thừa nhận: “Cả nước 
Giao Chỉ, nhà có 6 người thì 5 người tòng 
quân, còn một người không đi được nên 
phải ở lại”(17). Sang thời Trần, với sự lãnh 
đạo của các vị Vua - Phật và tướng lĩnh tài 
ba, nhân dân cũng hết lòng ủng hộ và 
hưởng ứng lời kêu gọi của triều đình: “Tất 
cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc 
ngoài đến đều phải liều chết mà đánh”, nếu 
không đánh lại được thì tránh, quyết không 
hàng giặc. Những nơi có giặc đi qua, nhân 
dân đều thực hiện mưu kế: cất giấu lương 
thực, vườn không nhà trống. Vì vậy, “trong 
cả ba lần chiến tranh, quân Nguyên - Mông 
đều khốn đốn vì thiếu lương ăn, không 
những bị quân nhà Trần đánh tan mà còn vì 
chúng không tài nào cướp được lương thực 
trong nhân dân”(18). 
Tư tưởng bình đẳng, dân chủ được đề 
cập nhiều trong triết lý nhân sinh của Phật 
giáo Đại thừa đã giúp con người tự vươn 
lên, đấu tranh để thoát khỏi nỗi khổ của sự 
áp bức, bóc lột. Tinh thần này kết hợp với 
lòng yêu nước - vốn là truyền thống của dân 
tộc ta, tạo nên khí thế “cả nước góp sức” 
đánh giặc. Đó chính là thành quả được dày 
công vun đắp của các vua quan, Phật tử thời 
Lý - Trần từ những năm tháng hòa bình. 
Khi giặc ngoại xâm đến, tinh thần ấy có 
điều kiện phát huy và ngày càng dâng cao. 
Chính vì vậy, dù là các vị thiền sư hay Phật 
tử thuần thành đến khi chiến tranh xảy ra, 
tất cả đều hăng hái lên đường diệt giặc. Đặc 
biệt, vua Trần Nhân Tông, người đã từ bỏ 
ngôi vua để xuất gia tu Phật, cũng là người 
sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, 
chính là người hai lần lãnh đạo cuộc kháng 
chiến chống giặc Nguyên - Mông. Ông đã 
lệnh cho quân sĩ xăm hai chữ “Sát Thát” để 
khuyến khích họ giết được nhiều giặc. Điều 
này nhân sinh quan Phật giáo nguyên thủy 
không thể chấp nhận, vì phạm giới luật: cấm 
sát sinh. Nhưng trong hoàn cảnh quân giặc 
tràn sang cướp phá, sát hại con dân Đại Việt, 
nếu cứ nệ luật, để mặc nhiên cho đồng bào 
và non sông chìm trong biển máu sẽ là trái 
đạo; chỉ cầu giải thoát cho mình mà vô tình 
với đồng loại thì thành Phật cũng chẳng có ý 
nghĩa gì. Vậy nên, lúc này “giới luật” của 
Phật giáo được vận dụng một cách sáng tạo 
trong điều kiện chiến tranh: giết kẻ thù xâm 
lược để cứu dân tộc là “từ bi”, đánh kẻ xâm 
phạm bờ cõi mới là “đạt đạo”.(17) 
Triết lý nhân sinh Phật tại Tâm vẫn 
nhằm mục đích là giác ngộ, nhưng giác ngộ 
(17) Hoàng Xuân Hãn (1941), Lý Thường Kiệt - Lịch 
sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, tr.275. 
(18) Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Kế sách 
giữ nước thời Lý - Trần, Nxb Chính trị quốc gia, Hà 
Nội, tr.192 - 193. 
Triết lý nhân sinh của Thiền Đại thừa... 
 47 
không phải để thoát khỏi vòng sinh - tử, mà 
để giải thoát ngay tại cõi trần. Bởi, Phật ở 
ngay chính trong tâm mỗi người, giải thoát 
là phải sống hòa mình với cuộc sống, sống 
không khác mọi người, sống có ích. Vì vậy, 
tinh thần nhập thế tích cực giúp các tăng ni, 
Phật tử luôn được hòa mình cùng với công 
cuộc dựng nước và giữ nước của nhân dân 
Đại Việt. “Cứu khổ, cứu nạn” nghĩa là phải 
hòa mình vào cuộc đấu tranh của nhân dân; 
giải phóng họ khỏi nỗi đau khổ của cảnh 
mất nước; bảo vệ quyền sống, quyền tự do 
và quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi 
người. Nên việc tu luyện để đạt đạo hay 
quan tâm kiến tính thành Phật sẽ được thực 
hiện ngay trên trần gian, trong cuộc sống 
thường nhật của mỗi người. 
Thiền tông khuyên con người phải làm 
chủ suy nghĩ và hành động của mình, để 
thấy được cái chân tâm tự tính nơi bản thân 
mình để giác ngộ thành Phật. Vậy phải tu 
luyện nghiêm túc mới chứng ngộ được 
“Chân tâm” ấy. Chính sự tu tập công phu, 
nhiều thiền sư đã tạo nên những kỳ tích hai 
lần chiến thắng giặc Tống ở thời Lý. Lý 
Thường Kiệt cũng là người rất mộ đạo. 
Tinh thần yêu nước đã được kết hợp với 
lòng mộ đạo đã tạo ra một nhân cách lớn: 
“Thái úy tuy thân vướng việc đời mà lòng 
vẫn luôn hướng về Tam thừa (chỉ tiểu thừa, 
trung thừa, đại thừa, tức là Phật giáo nói 
chung)... không ngừng hộ trì Phật pháp”(19). 
Vị tướng quân kiệt suất Trần Hưng Đạo 
cũng là một người tu thiền: “Tiết chế đã đến 
chùa Vĩnh Nghiêm tọa thiền, không phải tự 
giác giải thoát cho mình, như thế chưa đủ 
trước thế giặc mạnh, mà phải cưu mang 
chúng sinh”(20). Trong Hịch tướng sĩ, tư 
tưởng thiền được thể hiện rõ: “Đã một lần 
ta nghĩ đến ta không phải ta như người bộ 
hành sau bao thuở lang thang trên khắp nẻo 
đường hoang vắng để tìm lại ta tự ngã cho 
lòng thanh thản, siêu thoát, từ tự giác đi vào 
tha giác”(21). Chính vì tu thiền nên ông đã 
trang bị cho bản thân một thể lực dẻo dai và 
trí tuệ minh mẫn, tạo ra bản lĩnh của một vị 
tướng tài ba trên chiến trận, luôn bình tĩnh, 
linh hoạt trước mọi biến cố. Ông đã sáng 
suốt tuyển chọn được nhiều tướng tài, đóng 
góp tích cực vào thắng lợi của cuộc kháng 
chiến. Với Phạm Ngũ Lão, khi thấy ông bị 
quân lính đâm giáo vào đùi vì ngồi chắn 
giữa đường đi, nhưng vẫn thản nhiên không 
lay động, Trần Hưng Đạo liền mời nhập đội 
quân và giao nhiều trọng trách, bởi ông biết 
“Phạm Ngũ Lão tu luyện thiền tới trình độ 
cao, và ở thời ấy, một người như vậy cũng 
rất có khả năng là võ thuật vô cùng cao 
siêu”(22). 
Phương pháp tu luyện công phu của 
thiền đã giúp rèn luyện thân thể và tâm tính 
của cả vua quan, tướng lĩnh, làm cho mối 
quan hệ giữa tướng lĩnh và quân lính như 
“là thầy giáo, là giáo sĩ, giáo chủ”(23). Chính 
vì tập hợp và xây dựng được một đội quân 
tinh nhuệ, lại có sự gắn bó chặt chẽ “đội 
quân cha con”(24), cộng thêm sự ủng hộ, 
giúp sức của toàn dân, nên dù lực lượng 
(19) Nguyễn Khắc Thuần (2007), Lần theo dấu xưa, 
Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.5. 
(20) Viện Khoa học xã hội Việt Nam, (1993), Tuệ 
Trung Thượng Sỹ với Thiền tông Việt Nam, (Kỷ yếu 
hội thảo khoa học), Tp. Hồ Chí Minh, tr.126. 
(21) Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1993), Tuệ Trung 
Thượng Sỹ với Thiền tông Việt Nam, Sđd, tr.228. 
(22) Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2012), Đạo pháp - dân 
tộc - chủ nghĩa xã hội, Nxb Tổng hợp, Hà Nội, tr.350. 
(23) Sđd, tr.351. 
(24) Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn 
học (1988), Sđd, tr.397. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 
 48 
không nhiều, phương tiện chiến đấu còn 
hạn chế nhưng quân dân Đại Việt đều lập 
nên chiến thắng vẻ vang trước những kẻ thù 
hùng mạnh. Hồ Quý Ly sau này cũng rất 
muốn tiếp nối tinh thần ấy nhưng đã không 
làm được, quân đội của ông “trăm vạn quân 
như trăm vạn lòng”(25) nên đã nhanh chóng 
thất bại và tan rã khi đối đầu với quân xâm 
lược nhà Minh. Chính được rèn luyện bởi 
tinh thần thiền định, đội quân nhà Trần mới 
có được sự đoàn kết, ý chí và lòng quả cảm 
tạo nên sức mạnh quân sự. 
Như vậy, do chịu ảnh hưởng của nhân 
sinh quan Phật giáo mà vua, quan lại và 
nhân dân thời Lý - Trần phần đông đều 
sống theo tinh thần nhân văn, nhân đạo của 
Phật giáo: hướng thiện bằng việc phục vụ 
nhân sinh, xã hội mà không màng đến danh 
lợi, địa vị cho bản thân. Vì vậy, triều đình 
đã tạo được: “Một cuộc chiến toàn diện, 
toàn dân đánh giặc dưới sự lãnh đạo tài tình 
của một bộ tham mưu thống nhất, nhiều 
mưu lược”(26). Cũng bởi, xuyên suốt trong 
phong thái hành đạo và hoạt động chính trị 
của các thiền sư là thái độ “vô ngã, vị tha”, 
nên dù ảnh hưởng lớn đến chính trị, nhưng 
Phật giáo không chủ trương xây dựng giáo 
quyền áp đặt lên trên quyền lực chính trị. 
Ngay cả khi các thế lực Phật giáo đủ quyền 
uy có thể lật đổ ngai vàng nhưng đại diện 
của Phật giáo luôn giữ quan hệ hợp tác, 
giúp đỡ triều đình tối đa, mà không có tham 
vọng tranh giành quyền lực, nêu cao gương 
sáng về đạo đức, trí tuệ xuất thế, và họ 
được cả triều đình và người dân kính trọng. 
Ngày nay, ảnh hưởng của Phật giáo trên 
lĩnh vực tư tưởng vẫn còn khá rõ nét. Đồng 
thời lối ứng xử vị tha, nhân văn, từ bi của 
nhân dân trước những diễn biến chính trị 
của đất nước cũng có ảnh hưởng nhất định 
và góp phần không nhỏ tạo nên sức mạnh 
trên mặt trận quân sự - ngoại giao của Việt 
Nam. Đó là lý do nên tìm hiểu, tái hiện ảnh 
hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với 
sức mạnh chính trị, tư tưởng, quân sự thời 
Lý - Trần, để học hỏi, để kế thừa và đồng 
thời cũng để loại bỏ những yếu tố không 
còn phù hợp.(25) 
Tài liệu tham khảo 
1. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tuệ trung, nhân sĩ, 
thượng sĩ, thi sĩ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
2. Nguyễn Hùng Hậu (1997), Lược khảo tư 
tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam, Nxb Khoa học xã 
hội, Hà Nội. 
3. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên) (2003), Tiến 
trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
4. Lê Văn Quán (2008), Lịch sử tư tưởng chính 
trị - xã hội Việt Nam từ Bắc thuộc đến thời kỳ Lý - 
Trần, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
5. Nguyễn Đăng Thục (1997), Thiền học Việt 
Nam, Nxb Thuận Hóa, Long An. 
6. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, (1993), Tuệ 
Trung Thượng Sĩ với Thiền tông Việt Nam (Kỷ yếu 
hội thảo khoa học), Tp. Hồ Chí Minh. 
7. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Kế 
sách giữ nước thời Lý - Trần, Nxb Chính trị quốc 
gia, Hà Nội. 
8. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn 
học (1977 - 1988), Thơ văn Lý - Trần, t.1, 2, Nxb 
Khoa học xã hội, Hà Nội. 
9. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1986), 
Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt 
Nam, Viện Triết học, Hà Nội. 
(25) (1976), Nguyễn Trãi Toàn tập, Nxb Khoa học xã 
hội, Hà Nội, tr.130. 
(26) Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Kế sách 
giữ nước thời Lý - Trần, Sđd, tr.196. 
Triết lý nhân sinh của Thiền Đại thừa... 
 49 

File đính kèm:

  • pdftriet_ly_nhan_sinh_cua_thien_dai_thua_thoi_ly_tran.pdf