Trình độ tổng hợp hoá và mối quan hệ với tăng trưởng ngành cơ khí TP.HCM: Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2008

Tóm tắt Trình độ tổng hợp hoá và mối quan hệ với tăng trưởng ngành cơ khí TP.HCM: Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2008: ...h đã sản xuất, nên tiến hành chế biến sâu, từ đó mở rộng các ngành nghề và số lượng sản phẩm mới. Nguyên nhân thứ ba là ngành sản xuất chuyên môn hóa càng phát triển sâu, nội bộ của nó sẽ phân hóa thành nhiều ngành sản xuất con. Thông thường các ngành sản xuất 4đều có cơ chế “tự sinh sôi tại...khảo sát trong mô hình. Tỷ lệ này càng cao có nghĩa là liên kết ngược của ngành đó càng lớn và ngành đó càng phát triển sẽ dẫn đến mức tăng trưởng càng cao của toàn bộ nền kinh tế. Như vậy, các nhà làm chính sách có thể dựa vào đây để đưa ra các quyết định hợp lý. Liên kết xuôi hàm ý mức độ ... sự phát triển của các phân ngành cơ khí hiện nay là khá tách biệt, tỉ suất tự cấp là khá thấp. Việc này sẽ dẫn đến tính tương tác và phụ trợ với nhau trong quá trình phát triển là không cao, làm cho nguồn lực của nền kinh tế nói chung và của ngành công nghiệp nói riêng bị hao phí và phân tán ...

pdf10 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 171 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Trình độ tổng hợp hoá và mối quan hệ với tăng trưởng ngành cơ khí TP.HCM: Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2008, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1© 2008 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách 
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội 
Bài Nghiên cứu NC-07/2008 
Nghiên cứu của CEPR 
Trình độ tổng hợp hoá và mối quan hệ với tăng trưởng 
ngành cơ khí TP.HCM: Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2008 
ThS. Cao Ngọc Thành 
Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM 
Tóm tắt 
Bài viết này được thực hiện nhằm đánh giá trình độ tổng hợp hóa và mức độ 
liên quan giữa các phân ngành cơ khí tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai 
đoạn từ năm 2004 đến năm 2008. Tuy nhiên, bài viết trước hết sẽ đề cập đến 
các vấn đề liên quan đến khái niệm tổng hợp hóa kinh tế, mức độ liên quan 
giữa các ngành sản xuất để từ đó tạo cơ sở lí thuyết nền tảng để đánh giá các 
yếu tố này của ngành cơ khí TP.HCM. 
Quan điểm được trình bày trong bài nghiên cứu này là của (các) tác giả và không nhất 
thiết phản ánh quan điểm của CEPR.
2Mục lục 
Mục lục ...................................................................................................................................... 2 
1. Lời nói đầu ............................................................................................................................. 3 
2. Tổng hợp hóa kinh tế ............................................................................................................. 3 
3. Mức độ liên quan giữa các ngành sản xuất ............................................................................ 4 
4. Đánh giá trình độ tổng hợp hóa và mức độ liên quan ngành cơ khí TP.HCM ...................... 6 
5. Mối quan hệ giữa tính tổng hợp và tăng trưởng các phân ngành cơ khí tại TP.HCM ........... 8 
6. Kết luận .................................................................................................................................. 9 
31. Lời nói đầu 
Trình độ tổng hợp hóa và mức độ liên quan giữa các ngành kinh tế là hai vấn đề rất quan 
trọng để nền kinh tế đảm bảo sự ổn định và vững chắc trong quá trình phát triển. Sự rời rạc và 
tính gắn kết thấp trong sự phát triển giữa các ngành kinh tế sẽ không tạo nên các điều kiện để 
các thành phần của nền kinh tế phát triển. Điều này càng đặc biệt đối với các ngành thuộc 
lĩnh vực cơ khí. Đó là do sự phát triển của các phân ngành riêng lẻ không thể không chịu ảnh 
hưởng của các phân ngành khác, cũng như của toàn bộ lĩnh vực cơ khí. Mặt khác, đối với các 
doanh nghiệp, sự phát triển của từng doanh nghiệp không thể quá tách biệt mà không xem xét 
đến tính gắn kết (và do đó, trình độ phát triển) của ngành cơ khí. Với ý nghĩa đó, bài viết này 
được thực hiện nhằm đánh giá trình độ tổng hợp hóa và mức độ liên quan giữa các phân 
ngành cơ khí tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2008. Tuy 
nhiên, bài viết trước hết sẽ đề cập đến các vấn đề liên quan đến khái niệm tổng hợp hóa kinh 
tế, mức độ liên quan giữa các ngành sản xuất để từ đó tạo cơ sở lí thuyết nền tảng để đánh giá 
các yếu tố này của ngành cơ khí TP.HCM. 
2. Tổng hợp hóa kinh tế 
Thông thường, cơ cấu kinh tế nói chung, cũng như cơ cấu kinh tế nội ngành được hình thành 
theo sự chuyên môn hóa của ngành sản xuất. Ban đầu, các hệ thống này có đặc điểm một 
chiều và tương đối giản đơn. Các yếu tố sản xuất và hệ thống con không quá phức tạp. Tuy 
nhiên, một khi ngành phát triển, thì không chỉ nội bộ hệ thống các ngành sản xuất ngày càng 
phức tạp mà các hệ thống con cũng sẽ càng phát triển chi tiết và phức tạp. 
Diễn biến cơ cấu kinh tế của đô thị nói chung và của ngành sản xuất nói riêng thông thường 
trải qua nhiều giai đoạn. Trong thời kì đầu thì chức năng tương đối giản đơn và đơn nhất. 
Nhưng cùng với sự phát triển của các ngành và tính chuyên môn hóa nâng cao thì sẽ phát 
sinh xu hướng phát triển có tính tổng hợp. Nguyên nhân thứ nhất là trình độ chuyên môn hóa 
cao cần có sự phối hợp của các ngành sản xuất khác nhau bao gồm sản xuất nguyên vật liệu, 
sản xuất linh kiện và chế biến sâu. Nguyên nhân thứ hai là do phần lớn ngành sản xuất 
chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm trung gian sau khi đã phát triển khá mạnh, vì chạy theo 
giá trị phụ gia tăng ngày càng lớn hơn, không muốn bán với giá rẻ theo giá nguyên vật liệu 
các sản phẩm của mình đã sản xuất, nên tiến hành chế biến sâu, từ đó mở rộng các ngành 
nghề và số lượng 
sản phẩm mới. Nguyên nhân thứ ba là ngành sản xuất chuyên môn hóa càng phát triển sâu, 
nội bộ của nó sẽ phân hóa thành nhiều ngành sản xuất con. Thông thường các ngành sản xuất 
4đều có cơ chế “tự sinh sôi tại chỗ” này. Nguyên nhân thứ tư là sản xuất lớn và hiện đại hóa sẽ 
sản sinh ra rất nhiều sản phẩm phụ và vật tư. Nguyên nhân thứ năm là sản xuất càng phát 
triển, nhiều ngành công dụng phục vụ cho sản xuất chính sẽ được phát triển và mở rộng 
tương ứng. Nguyên nhân thứ sáu là sự tiết kiệm đơn thuần về cước phí vận tải cũng có thể 
thúc đẩy tổng hợp kinh tế. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý là có bất kể bao nhiêu phân ngành 
công nghiệp, nếu không phải do nhu cầu nội tại của kinh tế phát triển và tự nhiên hình thành 
mà do con người gán ghép, tổng hợp nên một cơ cấu lớn hơn thì không những không phải là 
sự phát triển tổng hợp và hợp lí. 
3. Mức độ liên quan giữa các ngành sản xuất 
Sự tổng hợp cao của các ngành sản xuất không có nghĩa là sự chuyên môn hóa ngành sản 
xuất bị suy yếu mà sự chuyên môn hóa, tập trung hóa của ngành sản xuất càng được phát 
triển theo cấp độ sâu hơn. Ví dụ, một nhà máy mở rộng quy mô, phân xưởng thì phát triển 
thành nhà máy thì điều đó có nghĩa mức độ chuyên môn hóa càng cao. Sự nâng cao này nếu 
có mối liên hệ chặt chẽ với ngành sản xuất thì sự tổng hợp hóa này có thể tiếp nhận và có ích. 
Có thể sử dụng hệ số liên hệ và hệ số tương quan của các phân ngành để đo mức độ liên hệ 
bên trong của các ngành sản xuất. Đo toàn diện hệ số liên hệ ngành cần lập bảng đầu vào đầu 
ra, dùng ma trận lưu lượng sản phẩm trung gian giữa các ngành biểu thị mối liên hệ và quan 
hệ giữa các ngành trong quá trình sản xuất. Nhà kinh tế người Mỹ Albert O. Hirschman đã 
nêu lên hai khái niệm quan trọng đo mức độ liên quan ngành sản xuất là các liên kết xuôi và 
liên kết ngược. 
Các liên kết xuôi (forward linkages) và liên kết ngược (backward linkages) là những công cụ 
đo lường mối liên hệ của một ngành đối với các ngành khác, với vai trò là những người sử 
dụng đầu vào hoặc người cung cấp đầu vào. 
Liên kết ngược là phép đo mức độ quan trọng tương đối của một ngành với tư cách bên sử 
dụng các sản phẩm vật chất và dịch vụ làm đầu vào từ toàn bộ hệ thống sản xuất. Liên kết 
ngược được xác định bằng tỷ lệ của tổng các phần tử theo cột trong ma trận hệ số chi phí toàn 
phần (còn gọi là ma trận nghịch đảo Leontief) so với mức trung bình của toàn bộ hệ thống 
kinh tế. Tỷ lệ này còn được gọi là chỉ số lan toả (Index of the power of dispersion) và được 
xác định như sau: 
5Trong đó: rij là phần tử của ma trận hệ số chi phí toàn phần (I-A)
-1 với A là ma trận hệ số chi 
phí trực tiếp, I là ma trận đơn vị; n là số ngành được khảo sát trong mô hình. Tỷ lệ này càng 
cao có nghĩa là liên kết ngược của ngành đó càng lớn và ngành đó càng phát triển sẽ dẫn đến 
mức tăng trưởng càng cao của toàn bộ nền kinh tế. Như vậy, các nhà làm chính sách có thể 
dựa vào đây để đưa ra các quyết định hợp lý. 
Liên kết xuôi hàm ý mức độ quan trọng của một ngành với tư cách là nguồn cung sản phẩm 
vật chất và dịch vụ cho toàn bộ hệ thống sản xuất. Tỷ lệ này được xem như "độ nhạy" của 
nền kinh tế, được đo lường bằng tổng các phần tử theo hàng của ma trận nghịch đảo Leontief 
so với mức trung bình của toàn bộ hệ thống. 
Tuy nhiên, trong điều kiện thông thường thì rất khó có được số liệu đầu vào và đầu ra theo 
thứ tự thời gian. Do đó, giáo sư Đường Kiệt1 đã nêu lên phương pháp dùng số liệu thứ tự thời 
gian tương quan với nhau của tổng giá trị sản phẩm của ngành sản xuất để tìm ma trận tương 
quan các ngành sản xuất. 
Công thức tính hệ số tương quan được tính toán như sau: 
1 Giáo sư Đường Kiệt là giáo sư kinh tế của Học viện kinh tế Bắc Kinh 

j = 1
n
n

i = 1
rij
n

j = 1
rij
n

i = 1

i = 1
n
n

j = 1
rij
n

j = 1
rij
n

i = 1
6yx .
y.xxy
r


 ;
hoặc 
y
x.br


 ;
Trong đó: 
n
xy
xy

 ;
n
x
x

 ;
n
y
y


  222
x n
x
n
x
n
xx





 





  222
y n
y
n
y
n
yy





 





Hệ số tương quan lấy giá trị trong khoảng từ -1 đến 1 ( 1r1  ):
Khi r càng gần 0 thì quan hệ càng lỏng lẻo, ngược lại khi r càng gần 1 hoặc -1 thì quan hệ 
càng chặt chẽ (r > 0 có quan hệ thuận và r < 0 có quan hệ nghịch). Trường hợp r=0 thì giữa x 
và y không có quan hệ. 
4. Đánh giá trình độ tổng hợp hóa và mức độ liên quan ngành cơ khí 
TP.HCM
Phần này của bài viết sẽ thực hiện việc đánh giá trình độ tổng hợp hóa và mức độ liên quan 
giữa các phân ngành cơ khí tại TP.HCM bằng cách tính toán các hệ số tương quan. Số liệu 
được lấy để thực hiện việc tính toán này là theo tháng, từ tháng 11 năm 2004 đến tháng 10 
năm 2008 theo phân ngành cấp hai. 
STT Ngành sản xuất Tổng hệ số tương quan
1 SX Kim loại -0.73956
2 SX SP từ kim loại (trừ máy móc, thiết bị) 2.837935
3 SX máy móc, thiết bị 2.708448
4 SX máy móc, thiết bị điện 2.805516
5 SX dụng cụ y tế, quang học 2.964681
6 SX xe có động cơ, rơmoóc 2.551166
7 SX phương tiện vận tải khác 2.234587
Tổng số 15.36277
Bảng 1. Trình độ liên hệ giữa phân ngành cơ khí TP.HCM năm 2004-2008 
Nguồn: Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM 
7Từ bảng 1, hầu hết các hệ số tương quan của các phân ngành cơ khí đều nằm trong khoảng 2-
3, nghĩa là phần lớn hệ số tương quan khoảng 0,35. Điều đó cho thấy trình độ tổng hợp hóa 
ngành cơ khí TP.HCM khá thấp trong giai đoạn vừa qua. Mặt khác, thông số này cũng cho 
thấy sự phát triển của các phân ngành cơ khí hiện nay là khá tách biệt, tỉ suất tự cấp là khá 
thấp. Việc này sẽ dẫn đến tính tương tác và phụ trợ với nhau trong quá trình phát triển là 
không cao, làm cho nguồn lực của nền kinh tế nói chung và của ngành công nghiệp nói riêng 
bị hao phí và phân tán không cần thiết. 
-2
-1
0
1
2
3
4
5
2005 2006 2007 2008
Năm
T
ổ
n
g
 h
ệ 
số
 t
ư
ơn
g
 q
u
an
SX Kim loại
SX SP từ kim loại
(trừ máy móc, thiết
bị)
SX máy móc, thiết
bị
SX máy móc, thiết
bị điện
SX dụng cụ y tế,
quang học
SX xe có động cơ,
rơmoóc
Hình 1. Trình độ liên hệ giữa các phân ngành cơ khí qua các năm 
Nguồn: Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM 
Qua hình 1 có thể nhận thấy rằng nhìn chung, từ năm 2004 đến năm 2007, các phân ngành cơ 
khí đều có mức độ liên hệ giảm dần. Đặc biệt, phân ngành sản xuất kim loại và phân ngành 
sản xuất dụng cụ y tế, quang học có hệ số tương quan liên tục giảm, cho thấy mức độ gắn kết 
của phân ngành này với các phân ngành khác rất thấp. Điều này cho thấy sự liên hệ giữa các 
phân ngành cơ khí ngày càng giảm, và do đó, tính tổng hợp hóa của ngành cơ khí theo thời 
gian trở nên thấp dần. 
Tuy nhiên, sang năm 2008, tình hình trở nên phát triển ngược lại. Các phân ngành sản xuất 
kim loại và phân ngành sản xuất dụng cụ y tế, quang học lại có sự tăng lên trở lại; trong khi 
các phân ngành còn lại thì có khuynh hướng giảm. Tình huống này sẽ làm cho nền cơ khí sẽ 
trở nên ngày càng yếu và khả năng cạnh tranh là điểm yếu một khi có ngoại lực lớn tác động. 
Mặt khác, tuy rằng xem xét cụ thể về mức tương quan giữa các phân ngành với nhau thì có 
thể thấy một số phân ngành có tương quan lớn với nhau; nhưng khi xét một cách tổng thể thì 
mức tương quan của các phân ngành với các phân ngành khác là khá thấp. 
85. Mối quan hệ giữa tính tổng hợp và tăng trưởng các phân ngành cơ khí 
tại TP.HCM 
Mối quan hệ giữa tính tổng hợp và tăng trưởng các phân ngành cơ khí sẽ được đánh giá trong 
phần sau đây. Số liệu được tính toán theo các phân ngành qua các năm từ năm 2005 đến năm 
2008.
Qua hình 2 ở dưới có thể thấy mối quan hệ giữa tính tổng hợp và tốc độ tăng trưởng tuy 
không theo một dạng nhất định nhưng nhìn chung có thể thấy mối tương quan dương giữa hai 
yếu tố (với hệ số là 0.519). Việc đánh giá để có thể rút ra mối quan hệ tối ưu cần có số liệu 
dài hơn, tuy nhiên, qua kết quả thực nghiệm dựa trên các số liệu có được thì ta có thể đưa ra 
nhận xét rằng để có tốc độ tăng trưởng cao thì tính tổng hợp của các phân ngành phải cao. 
Điều này cho thấy sự cần thiết về mối quan hệ chặt giữa các phân ngành cơ khí trong quá 
trình phát triển. 
-2
-1
0
1
2
3
4
5
-2.00% 0.00% 2.00% 4.00% 6.00% 8.00%
Tốc độ tăng trưởng
T
ín
h 
tổ
n
g 
h
ợ
p
Hình 2. Mối quan hệ giữa tính tổng hợp và tăng trưởng các phân ngành cơ khí tại 
TP.HCM
Nguồn: Tính toán của tác giả 
96. Kết luận 
Thành phố Hồ Chí Minh cùng với nền kinh tế Việt Nam đã bước vào thời kì hội nhập một 
cách toàn diện vào nền kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp sẽ có cơ hội nhiều hơn trong việc 
tiếp cận với các nguồn lực có mức chi phí rẻ hơn để tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh 
doanh của mình. Tuy nhiên, Chính quyền và cơ quan chức năng của Thành phố cần có những 
chính sách để xu hướng này không phát triển quá mức. Mặt khác, các doanh nghiệp hoạt 
động trong ngành cơ khí cũng có thể có những hoạt động hỗ trợ và liên kết chặt chẽ hơn với 
nhau để vừa phát triển nhu cầu nội tại của bản thân, vừa góp phần tăng tính tổng hợp cao cho 
ngành và nền kinh tế để từ đó, cơ cấu phát triển kinh tế sẽ càng vững chắc hơn. Mặt khác, 
chính quá trình liên kết chặt chẽ này cũng sẽ đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển của 
bản thân các phân ngành trong nội bộ ngành cơ khí. 
10
LIÊN HỆ: 
Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR) 
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà nội 
Địa chỉ: 
Phòng 704, Nhà E4,
144 Đường Xuân Thủy, Quận Cầu Giấy 
Hà nội, Việt nam 
Tel: (84) 4 3754 7506/ext 704 -714
Fax: (84) 4 3704 9921
Email: Info@cepr.org.vn
Website: www.cepr.org.vn
© 2008 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách 
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

File đính kèm:

  • pdftrinh_do_tong_hop_hoa_va_moi_quan_he_voi_tang_truong_nganh_c.pdf