Vài nét nhận thức luận về cái chết của phật giáo và công giáo
Tóm tắt Vài nét nhận thức luận về cái chết của phật giáo và công giáo: ...ị tộc nguyên thủy mà về sau niềm tin đó đ−ợc biến hiện trong nội dung giáo lí của các tôn giáo hiện nay. 2. Nhận thức luận về cái chết của Phật giáo “Luân hồi”, “Tái sinh”, “Đầu thai” là một loạt khái niệm hay đ−ợc nhắc đến khi bàn đến vấn đề đời sống sau khi chết theo quan điểm Phật...i khác. Cái gì tái sinh? ở con ng−ời, lực mạnh nhất là ý chí muốn sống, muốn tiếp tục tồn tại. Tham sống, ý chí muốn sống thể hiện trong tâm trí con ng−ời một cách có ý thức cũng nh− vô thức. Tham lam giống nh− các t− t−ởng khác chính là các năng l−ợng của con ng−ời. Năng l−ợng này..., tr. 121. Lê Thị Cúc. Vài nét nhận thức luận 25 25 Nh− đã bàn ở trên, Công giáo tin t−ởng có sự tồn tại của linh hồn và thế giới dành cho ng−ời chết. Vì vậy trong nhận thức luận về cái chết, Công giáo quan niệm “Chết là cửa dẫn vào cõi sống”, chết không phải là chấm dứt sự sống mà...
tinh tế phi vật thể của con ng−ời, nó giống nh− hơi, không khí hay bóng đêm. Nó là nguyên nhân của sự *. ThS., Đại học Văn hóa Hà Nội. Lê Thị Cúc. Vài nét nhận thức luận 21 21 sống và của ý t−ởng về một thực thể đ−ợc nó đem lại sự sống. Nó hoàn toàn độc lập chi phối ý thức, ý chí của cá nhân con ng−ời trong quá khứ cũng nh− trong hiện tại. Tuy vô hình nh−ng nó vẫn hiện lên với những ng−ời đang ngủ hay đang thức nh− một ảo ảnh, một bóng ma. Nó có thể nhập vào thân thể của những ng−ời khác, động vật hay đồ vật và chi phối chúng”(1). Qua khảo sát nhiều tộc ng−ời, các nhà nghiên cứu trên thế giới đã tổng hợp đ−ợc quan niệm đa chiều về những thuộc tính và những biểu hiện khác nhau của khái niệm linh hồn hay ma. Ng−ời Ai Cập cổ đại cho rằng con ng−ời có hai phần: linh hồn (ka) và thể xác. Khi con ng−ời còn sống, linh hồn và thể xác gắn bó với nhau nh− hình với bóng. Khi con ng−ời chết đi, linh hồn rời bỏ thể xác và đến nơi ở của linh hồn ở thế giới bên kia nh−ng vẫn có quay trở về nhập vào thể xác cũ và làm cho ng−ời chết sống lại với điều kiện thể xác phải còn nguyên vẹn nh− khi còn sống. Từ quan niệm này ng−ời Ai Cập rất thịnh hành phong tục −ớp xác và coi trọng nghi thức nghi lễ dành cho ng−ời chết. Giống nh− ng−ời Ai Cập cổ đại, ng−ời da đỏ Salish coi linh hồn là cái gì đó khác với sự sống, nó có thể lìa khỏi thân thể một thời gian mà con ng−ời không hay biết. Ng−ời Karen thì cho rằng linh hồn th−ờng đi lang thang lúc thân thể đang ngủ. Nếu nó bị giữ ở đâu đó dài hơn một thời gian nhất định ng−ời đó sẽ bị bệnh và nếu bị giữ mãi mãi ng−ời đó sẽ chết. Do đó khi một ng−ời bị bệnh ng−ời Karen th−ờng lấy gà mái luộc và xôi làm nghi lễ trên quần áo ng−ời bị bệnh cầu nguyện để linh hồn ng−ời ốm trở về. Quan niệm về biểu hiện của linh hồn trong cơ thể ng−ời, ng−ời Caribê cho rằng linh hồn nằm ở trong trái tim. Ng−ời Togan thì quan niệm linh hồn tỏa khắp cơ thể nh−ng chủ yếu cũng nằm ở trái tim. Ng−ời thổ dân Nicaragua lại quan niệm linh hồn gắn với hơi thở và họ cho rằng khi một ng−ời hấp hối từ miệng thoát ra cái gì đó giống nh− con ng−ời. Quan niệm này xem chừng giống với quan niệm dân gian của ng−ời Việt Nam về trạng thái thoát d−ơng của ng−ời hấp hối, hồn vía sẽ thoát ra ngoài cơ thể. Không chỉ thời xa x−a mà ngay thời hiện đại, quan niệm về sự tồn tại và mối quan hệ giữa hồn và thể xác đã đ−ợc một số ng−ời cho rằng bất kể ng−ời nào dù béo hay gầy, già hay trẻ khi chết đi đều hụt khoảng 250g. Nếu giả thuyết này đ−ợc chứng minh bằng độ tin cậy của y học thì phải chăng con số 250 g đó chính là phần khí (một cách gọi khác là linh hồn) thoát khỏi cơ thể khi con ng−ời chết. Thuyết về tồn tại linh hồn còn đ−ợc thể hiện qua các giấc mơ ở một số tộc ng−ời. Ng−ời Đan Mạch cho rằng vào ban đêm linh hồn th−ờng rời bỏ thân thể bay đi săn, nhảy múa và thăm viếng bạn bè Ng−ời Anh cho rằng khi con ng−ời đang ngủ, linh hồn rời bỏ thân thể và có thể đến nơi của ng−ời chết để trò chuyện với bạn bè và ng−ời thân. Trong các truyền thuyết phổ biến ở Châu Âu có câu chuyện về vua Gunthram ngủ trong rừng, gối đầu trên đùi một vệ sĩ trung thành của mình. Một con rắn bò từ miệng nhà vua ra và tr−ờn nhanh xuống suối nh−ng không thể bơi qua đ−ợc. Lúc đó, 1. E. B. Tylor, Văn hóa nguyên thủy, Nxb. Văn hóa thông tin, 2001, tr. 98. 22 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2013 22 ng−ời đầy tớ liền kê thanh g−ơm của mình cho con rắn bò qua. Sau đó con rắn trở về và chui vào miệng nhà vua. Nhà vua tỉnh dậy và kể lại giấc mơ ông thấy mình đi qua một chiếc cầu sắt để vào một hang núi chứa đầy vàng. Đến thời cận - hiện đại, quan niệm về sự tồn tại của linh hồn cũng đ−ợc thể hiện khá phổ biến ở hiện t−ợng đồng cốt. Các ông/bà đồng bằng khả năng giao cảm đặc biệt đã có tr−ờng hợp mô tả cụ thể những biểu biện của linh hồn hiện lên trong ảo giác của họ. Tóm lại, những ý niệm về linh hồn là mấu chốt cơ bản của thuyết Vật linh. Thuyết này là một trong những học thuyết về tôn giáo quan trọng nhất của con ng−ời, đó là niềm tin vào sự tồn tại của linh hồn sau khi chết. Lòng tin vào cuộc sống sau khi chết có tính phổ biến và tồn tại dai dẳng không chỉ ở các bộ lạc và thị tộc nguyên thủy mà về sau niềm tin đó đ−ợc biến hiện trong nội dung giáo lí của các tôn giáo hiện nay. 2. Nhận thức luận về cái chết của Phật giáo “Luân hồi”, “Tái sinh”, “Đầu thai” là một loạt khái niệm hay đ−ợc nhắc đến khi bàn đến vấn đề đời sống sau khi chết theo quan điểm Phật giáo. Về nghĩa từ Hán Việt: từ “Luân hồi” có thể đ−ợc hiểu là sự luân chuyển và hồi phục cái gì đó. Về lịch sử hình thành khái niệm, từ “Luân hồi” vốn đ−ợc đề cập nhiều trong học thuật Ph−ơng Tây. Ng−ợc lại, ng−ời ấn Độ lúc đầu không biết đến “luân hồi”. Thuyết luân hồi chỉ xuất hiện vào khoảng năm 750 tr. CN. Quan niệm “Luân hồi” của ng−ời ấn Độ lúc đó đ−ợc hiểu theo nghĩa khi con ng−ời chết đi, chỉ còn lại hữu - thể sâu xa nhất của nó, cái “nó”. Cái này đ−ợc liên kết bởi luật karma, nghĩa là, nói một cách đơn giản, bởi luật th−ởng phạt tùy theo các công việc. Vì vậy, ng−ời đã khuất bị buộc phải sống lại một cuộc sống trên Trái Đất, và cái “nó” của ng−ời ấy sẽ ở trong một thân thể khác. Quy trình này, tiếp tục mãi cho tới cái “nó” có thể tự giải thoát mình hoàn toàn. Còn khái niệm “Đầu thai” cũng t−ơng tự với nghĩa từ “luân hồi” (luân chuyển để hồi phục). Nó thể hiện sự chuyển dịch từ một xác thân vật chất này vào một xác thân vật chất khác của linh hồn bất tử. Cả hai từ “luân hồi” và “đầu thai” đều không phù hợp để truyền tải quan niệm về vấn đề đời sống sau khi chết của Phật giáo. Bởi vì giáo lí Phật giáo không bàn đến hai vấn đề căn bản mà nhiều tôn giáo chủ thuyết: thứ nhất ý t−ởng về Đấng Sáng tạo hay Th−ợng Đế có quyền th−ởng phạt những hành động tốt xấu của muôn loài. Thứ hai là ý t−ởng về một cái “tôi” vĩnh cửu hay thực thể của “cái tôi” đời đời. Bàn đến vấn đề đời sống sau khi chết trong quan điểm Phật giáo, từ “tái sinh” đ−ợc dùng mang tính phổ thông ít bị phản đối hơn hai từ “luân hồi” và “đầu thai” mặc dù nó cũng ch−a hoàn toàn thỏa đáng. Bản chất “Tái sinh” là gì? Cái gì sẽ tái sinh? Xét về bản chất, “Tái sinh” chính là sự tái tạo thành sự sống mới trong điều kiện mới. Để hiểu thuyết “tái sinh” của Phật giáo, phải dựa vào hai định luật: Định luật Vô th−ờng và định luật về Hoạt động và Phản ứng. Về định luật Vô th−ờng, nh− Đức Phật đã nói: “Tất cả những gì duyên hợp, có Lê Thị Cúc. Vài nét nhận thức luận 23 23 sinh khí hay không sinh khí đều vô th−ờng”. Điều này phản ánh nội dung của định luật Vô th−ờng là nêu lên chân lí không có cái gì trên thế giới này là vĩnh cửu. Nói cách khác, vạn vật đều phải chịu định luật biến đổi không ngừng. Biểu hiện của định luật Vô th−ờng thể hiện qua hai đặc tr−ng: thứ nhất, tất cả mọi thứ đều phải thay đổi, không có cái gì mất đi hay bị diệt vĩnh viễn. Chỉ có hình dáng của nó thay đổi. Điều này giống nh− trạng thái chất rắn có thể biến thành chất lỏng và chất lỏng có thể trở thành chất khí nh−ng không có thứ gì mất đi hay bị tiêu diệt và theo nguyên tắc của khoa học giống nh− định luật bảo toàn năng l−ợng. Nét đặc tr−ng thứ hai có định luật Vô th−ờng là không có ranh giới chia cắt rõ rệt giữa các hoàn cảnh và trạng thái kế cận nhau. Cái này sẽ lẫn vào cái kia. Bởi vậy sự thay đổi này sẽ là một tiến trình liên tục giống nh− một “dòng chảy” luôn trong trạng thái không ổn định. Về định luật “Hoạt động và Phản ứng” hay còn gọi là Luật “nguyên nhân và kết quả”, nội dung của định luật khẳng định mỗi hành động đều có kết quả hay phản ứng. Nguyên tắc Kết quả đ−ợc tạo ra sau các hành động đ−ợc áp dụng cho mọi lĩnh vực hoạt động dù hoạt động đó gây ra bởi thiên nhiên hay con ng−ời. Định luật này mang tính phổ quát có thể áp dụng cho cả thế giới vật chất và thế giới tinh thần. Khi luật nguyên nhân – kết quả đề cập đến hoạt động của con ng−ời đ−ợc gọi là định luật của Nghiệp. Trong quan niệm của đạo Phật, Nghiệp cũng chính là nhân quả đạo đức hình thành số phận của chúng sinh và dẫn đến tái sinh. Nh− đã đề cập ở trên, theo thuyết duy vật, con ng−ời sẽ chấm dứt sự hiện hữu tồn tại của mình trên cõi đời vào lúc chết. Nh−ng theo nguyên lí của định luật Vô th−ờng, con ng−ời sẽ không bị hủy diệt mà có thứ vẫn tồn tại là năng l−ợng của ng−ời chết. Mà các lực l−ợng và năng l−ợng không chấm dứt lúc chết vì lực không hề bị mất đi, nó chỉ chịu sự biến đổi. Năng l−ợng không di chuyển từ nơi này đến nơi kia nh−ng có thể ngừng biểu lộ ở một nơi và bắt đầu tự biểu lộ ở nơi khác. Cái gì tái sinh? ở con ng−ời, lực mạnh nhất là ý chí muốn sống, muốn tiếp tục tồn tại. Tham sống, ý chí muốn sống thể hiện trong tâm trí con ng−ời một cách có ý thức cũng nh− vô thức. Tham lam giống nh− các t− t−ởng khác chính là các năng l−ợng của con ng−ời. Năng l−ợng này sẽ không thể mất hay bị tiêu hủy khi con ng−ời chết về thể xác sinh học. Vì tham sống là một động lực trội hơn thể hiện bên d−ới tất cả các hoạt động của con ng−ời, nhất là lúc hấp hối, lòng tham đó càng trỗi dậy mãnh liệt. Cái tham đó biến thành lực tham lôi cuốn chính nó đến một cuộc sống khác. Vào thời điểm hấp hối, từ ý thức muốn bám níu cuộc sống, năng l−ợng của ng−ời chết đ−ợc chuyển tải ra bên ngoài cơ thể ng−ời chết nh− tia chớp, bất chợt gặp dạ con của ng−ời mẹ mới đã đủ điều kiện thụ thai nên nó đ−ợc tái sinh và một đời sống mới bắt đầu. Đức Phật đã nói: “Cái gọi là chúng sinh hay cá nhân nó chẳng là gì cả mà chẳng qua là duyên hợp của lực vật chất và tinh thần hay năng l−ợng”(2). Theo 2. Nayaka Thera Piyadassi, Học thuyết Phật giáo về đời sống sau khi chết (bản dịch), Nxb. Tôn giáo, 2008, tr. 32. 24 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2013 24 sinh học hiện đại đời sống mới của con ng−ời bắt đầu vào thời khắc tế bào tinh trùng của ng−ời cha nhập với tế bào trứng hoặc trứng của ng−ời mẹ. Khoa học chỉ nói đến hai nhân tố vật chất thông th−ờng này. Tuy nhiên, Phật giáo còn nói đến nhân tố thứ ba là tinh thần (ý thức tái sinh của ng−ời chết) kết hợp với hai nhân tố vật chất trên thì mới có quá trình thụ thai hình thành sự sống mới. Con ng−ời là sinh vật có tâm - vật hết sức phức tạp. Mỗi ng−ời từ khi đ−ợc sinh ra đến khi tr−ởng thành đều có đặc điểm riêng từ hình dạng đến tính khí, kể cả những cặp song sinh giống hệt về hình dáng nh−ng tính tình, sở thích vẫn khác nhau. Vì vậy, nếu cho rằng con ng−ời đ−ợc sinh ra chỉ dựa vào hai nhân tố hoàn toàn vật chất: tế bào tinh trùng và tế bào trứng của cha mẹ là ch−a đủ. Chắc chắn phải có sự can thiệp của nhân tố thứ ba - yếu tố tâm linh. Nhân tố tâm linh phối hợp với hai nhân tố vật chất trên mới tạo thành sinh vật tâm - vật là thai nhi. 3. Nhận thức luận về c iá chết của Công giá o Quan niệm về cái chết và thế giới của ng−ời chết Công giáo cho rằng con ng−ời có hai đời sống: đời sống hiện thực nơi trần thế và đời sống sau khi chết. Đời sống hiện thực thì ngắn ngủi, hữu hạn còn đời sống sau khi chết là vĩnh cửu. Khi một ng−ời Công giáo chết, hồn sẽ lìa khỏi xác, căn cứ vào những việc ng−ời đó đã làm trên trần thế mà hồn sẽ đến nơi dành cho họ. Sách Kinh bổn, đoạn thứ ba (dạy về Sự chết, Sự phán xét riêng, Ngày Tận thế, Sự phán xét chung, Thiên Đàng, Luyện Ngục cùng Hỏa Ngục) cho biết: Chết là linh hồn rời khỏi xác. Linh hồn là tính thiêng liêng chẳng hay h−, chẳng hay nát. Linh hồn phải đến tr−ớc tòa Đức Chúa Giêsu mà chịu phán xét riêng về tội phúc, mà chịu th−ởng phạt tùy theo việc lành, dữ đã làm khi còn ở thế gian. Những ng−ời sạch mọi tội cùng những ng−ời đã đền tội cho đủ mới đ−ợc lên Thiên Đàng. Thiên Đàng là nơi đầy rẫy những sự thanh nhàn vui vẻ đời đời, mà Phúc nhất trên Thiên Đàng là đ−ợc chiêm ng−ỡng dung nhan Đức Chúa Trời. Những ng−ời lành, nh−ng còn mắc tội mọn hay là đền tội ch−a đủ thì phải chịu hình phạt nơi Luyện Ngục. Có thể cứu rỗi linh hồn nơi Luyện Ngục bằng cách cầu nguyện, ăn chay, nhất là xin làm lễ cho các linh hồn ấy. Những ng−ời chỉ cần phạm một tội trọng là đã phải chịu hình phạt Hỏa Ngục. Hỏa Ngục là chốn đầy lửa sinh, lửa diêm cùng mọi giống hình khổ để mà phạt ma quỷ cùng những kẻ chết trong khi mắc tội trọng. Những kẻ đã sa Hỏa Ngục thì không thể cứu giúp và hình phạt cũng không thể giảm bớt”(3). Theo Nguyễn Hồng D−ơng, quan niệm thế giới quan của Kitô giáo gồm ba tầng: tầng Trời (Thiên Đàng), tầng Luyện Ngục và tầng Đất (Địa/Hỏa Ngục). Thiên Đàng dành cho những ng−ời sạch tội cùng những ng−ời đã đền tội đủ. Luyện Ngục là nơi giam giữ những ng−ời lành nh−ng còn mắc tội mọn hay là đền tội ch−a đủ. Địa/Hỏa Ngục là nơi giam giữ những ng−ời phạm tội trọng(4). Quan niệm về “sự sống lại” của Công giáo: 3. Sách Kinh bổn, Tòa Giám mục Phát Diệm xuất bản, 1991. 4. Nguyễn Hồng D−ơng. Thờ cúng tổ tiên của ng−ời Công giáo qua các thời kỳ lịch sử, Kỉ yếu Tọa đàm về tôn kính tổ tiên do Tòa Tổng Giám mục Huế tổ chức tháng 10/1999, tr. 121. Lê Thị Cúc. Vài nét nhận thức luận 25 25 Nh− đã bàn ở trên, Công giáo tin t−ởng có sự tồn tại của linh hồn và thế giới dành cho ng−ời chết. Vì vậy trong nhận thức luận về cái chết, Công giáo quan niệm “Chết là cửa dẫn vào cõi sống”, chết không phải là chấm dứt sự sống mà sẽ có ngày con ng−ời đ−ợc “sống lại”. “Sống lại” chính là “Phục sinh” Theo nhãn giới đức tin Công giáo, “Sự sống lại” không phải là “tồn sinh”, “hồi sinh” mà là “Phục sinh”. Ng−ời Công giáo tin t−ởng: con ng−ời sau khi chết, thân xác có phải mục nát đi theo quy luật vật lí nh−ng Thiên Chúa sẽ làm cho sống lại trong ngày Chung cuộc. Vì vậy, ng−ời chết rồi không phải cố níu kéo sự nhớ th−ơng của ng−ời sống dành cho ng−ời chết (tồn sinh trong tâm trí ng−ời sống) mà cố gắng đi vào trong kí ức của Thiên Chúa. Vào ngày Chung cuộc, Thiên Chúa sẽ cho thân xác đ−ợc sống lại nh−ng không phải xác chết “hồi sinh” nguyên hình nh− khi còn sống mà là một thân xác đã đ−ợc biến đổi trong sự Phục sinh của Chúa Kitô. Sau khi đ−ợc Phục sinh, cuộc sống của linh hồn hiển hiện còn thân xác sẽ chìm vào thanh thoát, khác với khi còn sống thân xác hiển hiện còn linh hồn chìm khuất sâu lắng. Giống nh− sự Phục sinh của Chúa, “Khi Phục sinh, Đức Kitô không trở về với cuộc sống trần thế, không còn bị lệ thuộc thời gian và không gian. Thân thể Phục sinh của Ng−ời tràn đầy quyền năng của Chúa Thánh thần, tham dự vào sự sống thần linh trong vinh quang”(5). Nh− vậy, Phục sinh là kết quả biện chứng sống - chết ở Chúa Kitô và cũng là kết quả biện chứng xác - hồn ở mỗi tín đồ. Qua cái chết và sự sống lại, Đức Giêsu loan báo cho con ng−ời một Tin Mừng khi khẳng định cái chết không phải là một ngõ cụt mà là một cửa ngõ dẫn vào một đời sống mới. Tất cả kho tàng Kitô giáo đ−ợc xây dựng trên niềm tin ấy. 4. So sánh nhận thức luận về cái chết giữa Phật giáo và Công giáo Quan niệm về sự tồn tại của con ng−ời sau khi chết Phật giáo và Công giáo đều có quan điểm trái ng−ợc với các nhà duy vật khi tin t−ởng chết không phải là hết. Cái chết không thể khiến con ng−ời biến mất và bị tiêu diệt vĩnh viễn. Sự tồn tại của con ng−ời sau khi chết theo nhãn quan riêng mà Phật giáo và Công giáo quan niệm khác nhau. Công giáo xác tín vào sự tồn tại của cái đ−ợc gọi là linh hồn ng−ời chết. “Trong Kinh Thánh, linh hồn khi thì chỉ “toàn bộ nhân vị”, khi thì chỉ “cái thâm sâu nhất, giá trị nhất của con ng−ời” làm cho con ng−ời là hình ảnh của Thiên Chúa và bất tử. Linh hồn con ng−ời đ−ợc tạo dựng trực tiếp bởi Thiên Chúa chứ không phải do cha mẹ sinh ra. Linh hồn và thân xác khi còn sống tại thế kết hợp mật thiết với nhau nh− một ngôi vị hay chủ thể duy nhất; khi chết tách rời nhau nh−ng sẽ tái hợp với nhau ngày sống lại sau hết, trong một dạng thức mới nh− Đức Chúa Kitô Phục sinh”(6). Nh− vậy, Linh hồn trong quan niệm của Công giáo giống nh− một thực thể tồn tại vĩnh cửu và bất biến ngay cả khi con ng−ời đã chết. Trong khi đó cái linh hồn hay cái ta th−ờng còn trong kinh điển Phật giáo đ−ợc gọi là “Atta” hoặc 5. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Từ điển Công giáo 500 mục từ, Nxb. Tôn giáo, 2011, tr. 275. 6. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Từ điển Công giáo 500 mục từ, Sđd, tr. 205. 26 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2013 26 Atma (Vô ngã). “Atta” có nghĩa là không có cái ta nào hết. Nói cách khác không có cá nhân vĩnh cửu, không có linh hồn bất biến. Cá nhân hay cá tính theo Phật giáo không phải là một thực thể mà là tiến trình của trỗi lên và mất đi và không t−ơng ứng với một thực thể cố định nào. Quan niệm về “thế giới vô hình” Phật giáo và Công giáo đều quan niệm về sự tồn tại “thế giới vô hình”- một thế giới song hành với thế giới của những con ng−ời đang sống. Trong thế giới đó có tồn tại một lực l−ợng Tối Th−ợng trong vũ trụ (năng l−ợng vũ trụ - năng l−ợng của tạo hóa - theo quan điểm tác giả). Cả hai tôn giáo này, cũng nh− mọi tôn giáo khác, đều lấy lực l−ợng Tối Th−ợng này là trung tâm của đời sống tôn giáo, là mục đích tối hậu của đời sống tâm linh. Nếu Phật giáo nói Niết Bàn là mục đích của mình thì ắt có sự t−ơng quan giữa Niết Bàn và lực l−ợng Tối Th−ợng đó. Phật đã thành Phật thì mới vào Niết Bàn, mà “kiến tánh” thì mới “thành Phật”, và “kiến tánh” chính là thấy đ−ợc, cảm nghiệm đ−ợc lực l−ợng Tối Th−ợng đó nơi bản thân mình. Lúc đó, ta sẽ thấy đ−ợc cái “tôi” của mình chỉ là “vọng ngã” (cái tôi ảo t−ởng) không hề hiện hữu, chỉ còn duy nhất một thực tại hiện hữu là lực l−ợng Tối th−ợng. Do đó, phải chăng Niết Bàn chính là tình trạng hiệp nhất giữa cái ta với lực l−ợng Tối Th−ợng, giữa lực và năng l−ợng của chúng sinh với năng l−ợng của càn khôn? T−ơng tự, mục đích của Công giáo là h−ớng con ng−ời đến Thiên Đàng. Thiên Đàng cũng chính là sự hiệp nhất với Thiên Chúa - lực l−ợng Tối Th−ợng? Đ−ơng nhiên khi đã lên Thiên Đàng cũng là lúc sinh linh chấm dứt mọi −ớc mơ, ham muốn, do đã đ−ợc hoàn toàn thỏa mãn. Nh− vậy, quan niệm của Công giáo về Thiên Đàng trùng hợp với quan niệm về Niết Bàn của Phật giáo vì đó là những nơi sinh linh không còn ham muốn, dục vọng gì nữa và cũng là nơi sinh linh hiệp nhất hoàn toàn lực l−ợng Tối Th−ợng - Tạo hóa. Tuy nhiên, giữa Phật giáo và Công giáo quan niệm về lực l−ợng Tối Th−ợng đó có khác biệt. Phật giáo quan niệm lực l−ợng Tối Th−ợng đó là vô ngã, không có bản vị, không phải là một ai đó cụ thể. Còn Công giáo quan niệm lực l−ợng Tối Th−ợng đó có bản vị. Đó chính là một Thiên Chúa chẳng phải chỉ có một ngôi vị mà là ba ngôi vị. Kết luận Chết là một thực tại thật bí hiểm, không ai còn sống mà kinh nghiệm đ−ợc. Và giả sử có ai kinh nghiệm đ−ợc mà về nói lại thì không chắc đã có mấy ng−ời tin. Có nhiều lí do rất hợp lí để ng−ời ta không tin: tr−ớc hết là nó có thể khác với những gì họ vẫn tin t−ởng, hai là đã có nhiều ng−ời tự nhận mình có kinh nghiệm đó, nh−ng những ng−ời này lại nói khác nhau. Chính các tôn giáo cũng nói khác nhau, mà tôn giáo nào cũng đầy uy tín. Lí do thứ ba là ng−ời ta không có cách gì kiểm chứng đ−ợc nguồn tin nghe đ−ợc gọi là kinh nghiệm đó xuất phát từ chính thực tại hay do thị kiến, do tâm thức biến hiện? Cuối cùng, cái chết vẫn luôn luôn là một bí hiểm, những gì ng−ời ta nói về cuộc sống sau cái chết đều chỉ là niềm tin. Khảo cứu quan niệm về cái chết của Phật giáo và Công giáo - hai tôn giáo lớn trên thế giới và có ảnh h−ởng đến đời sống văn hóa tâm linh của ng−ời Việt cũng là một cách để chúng ta có cái nhìn thông suốt và ứng xử phù hợp mỗi khi đối diện với cái chết của ai đó trong cộng đồng./.
File đính kèm:
- vai_net_nhan_thuc_luan_ve_cai_chet_cua_phat_giao_va_cong_gia.pdf