Vai trò của án lệ và kinh nghiệm áp dụng án lệ ở các nước trên thế giới

Tóm tắt Vai trò của án lệ và kinh nghiệm áp dụng án lệ ở các nước trên thế giới: ... của chủ nghĩa Mac - Lênin thì pháp luật là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, nó chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi kinh tế thuộc cơ sở hạ tầng. Mục đích của pháp luật là điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong khi các quan hệ xã hội lại liên tục thay đổi, chính vì thế, sẽ có nhiều quan hệ phát...an đến hoạt động tiếp thị và phân phối nên không thể gây ảnh hưởng đến thị trường và không được áp dụng các quy định của luật thương mại. Tuy vậy, Tòa án lại lập luận rằng, nếu Filburn trồng và tiêu thụ lúa mì của mình, ông sẽ không mua lúa mỳ từ thị trường, làm ảnh hưởng đến nguồn c...Nguyên tắc này với nội dung quy định rằng những bản án sắp được tuyên không được trái với những bản đã tuyên và có hiệu lực trước đó nếu như tình tiết của các vụ giống hoặc tương tự nhau. Nguyên tắc này xuất phát từ nước Anh thời trung cổ với tên gọi là thông luật (Commom law) sau đó đ...

pdf11 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 426 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Vai trò của án lệ và kinh nghiệm áp dụng án lệ ở các nước trên thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 áp dụng một cách thống nhất 
và đúng đắn. Trong đó, việc giải thích luật 
có sự đóng góp không hề nhỏ của án lệ. Có 
thể lấy ví dụ về một án lệ, mà ở đó Tòa án 
đã làm nhiệm vụ giải thích pháp luật để 
bảo vệ các quyền của công dân trước các 
cáo buộc vi phạm. Năm 1984, Gregory Lee 
Johnson, một người biểu tình chống chính 
quyền Ronald Reagan, đã đốt quốc kỳ Mỹ 
tại Hội nghị quốc gia của Đảng Cộng hòa 
và bị một Tòa án ở bang Texas kết án về 
tội xúc phạm các vật linh thiêng của nước 
Mỹ. Tuy vậy, đến năm 1989, Tòa án Tối 
cao Liên bang kết luận rằng, hành vi đốt 
cờ của Johnson là một phần mở rộng của 
Tu chính án số 1 của Hiến pháp Mỹ và 
được cho là hợp hiến. Vụ án này trở thành 
án lệ và đã làm thay đổi đường lối xét xử 
cũng như pháp luật của các bang. 
 vai trò của án lệ và kinh nghiệm áp dụng án lệ... 
 Nhân lực khoa học xã hội Số 5-2013 20 
2.3. Vai trò của án lệ trong việc 
tăng cường sự sáng tạo và khả năng 
lập luận của Thẩm phán 
Nhìn chung, một án lệ chỉ xuất hiện 
trong hai trường hợp: Một là, khi chưa có 
luật điều chỉnh vụ án mà Tòa đang xét xử, 
hoặc đã có luật nhưng chưa đầy đủ và 
chưa dự liệu được tình huống phát sinh; 
khi đó, Thẩm phán sẽ sáng tạo luật để 
điều chỉnh các vụ án tương tự. Hai là, có 
luật nhưng nội dung quy định của luật 
chưa rõ ràng và cụ thể; do đó, Thẩm phán 
sẽ làm nhiệm vụ giải thích pháp luật để 
áp dụng cho vụ án cụ thể. Điều đó có 
nghĩa là, một phán quyết chỉ có thể được 
coi là án lệ nếu nó giải quyết những vấn 
đề pháp luật mới. Và do phải giải quyết 
các vấn đề pháp luật mới, một án lệ phải 
chứa đựng những lập luận đủ sức thuyết 
phục của các Thẩm phán, hay còn được gọi 
là quan điểm của các Thẩm phán về vấn 
đề pháp luật đó. 
Trong vụ Wickard kiện Filburn(6) năm 
1942, pháp luật thương mại Mỹ đã hoàn 
thiện thêm một bước với các lập luận của 
Thẩm phán Tòa án Tối cao về quyền 
thương mại. Theo đó, Filburn, chủ một 
trang trại nhỏ, bị phạt 117,11 đôla vì đã 
trồng 239 giạ lúa trên phần ruộng của 
mình để "tự cung tự cấp" và làm ảnh 
hưởng đến hoạt động thương mại giữa các 
tiểu bang. Mặc dù Filburn lập luận rằng 
hoạt động của ông chỉ là sản xuất chứ 
không bán ra thị trường, không liên quan 
đến hoạt động tiếp thị và phân phối nên 
không thể gây ảnh hưởng đến thị trường 
và không được áp dụng các quy định của 
luật thương mại. Tuy vậy, Tòa án lại lập 
luận rằng, nếu Filburn trồng và tiêu thụ 
lúa mì của mình, ông sẽ không mua lúa 
mỳ từ thị trường, làm ảnh hưởng đến 
nguồn cung lúa mì và điều này sẽ kéo theo 
ảnh hưởng đến sự ổn định về giá của thị 
trường. Nếu các chủ trang trại nhỏ đều 
làm như vậy thì sẽ ảnh hưởng lớn đến 
thương mại giữa các tiểu bang. Do đó, 
trong trường hợp này ông Filbum vẫn phải 
chịu sự điều chỉnh của luật thương mại. 
Và cách giải quyết này của Tòa án Tối cao 
về quyền thương mại sẽ trở thành khuôn 
mẫu cho các tòa án khi giải quyết những 
sự việc tương tự về sau.(6) 
Tuy nhiên, khi áp dụng án lệ, cách 
thức làm việc của Thẩm phán sẽ thay đổi. 
Họ cần cân nhắc và sử dụng những bản 
án trước đây trong quá trình ra quyết 
định của mình. Các Thẩm phán sẽ phải 
so sánh và đối chiếu với các vụ án trước 
đây, họ bắt buộc phải tập trung hơn để 
xác minh, củng cố và dẫn chứng cho các 
tình tiết trong mỗi vụ án cụ thể mà họ xét 
xử. Tiếp đó, họ phải nghiên cứu pháp lý 
rộng hơn và nhiều loại hơn. Việc này tốn 
rất nhiều thời gian và cần phải có sự trợ 
giúp của các thư ký Tòa án. Thẩm phán 
cũng yêu cầu phải được tiếp cận nhanh 
chóng và hiệu quả với các quyết định 
trước đó của cả hệ thống các Tòa cùng cấp 
và Tòa cấp trên. 
Sau đó, Thẩm phán cần giải thích quyết 
định của họ về mặt luật học, bao gồm cả 
viện dẫn án lệ cũng như quy định của 
pháp luật. Các quyết định bằng văn bản 
cần được giải thích kỹ lưỡng, và nếu cần 
thiết thì phân biệt vấn đề pháp luật với 
những tình tiết có trong vụ án trước đây, 
bổ sung thêm phần phân tích cho các phán 
(6)  
CR_0317_0111_ZO.html 
 đặng thị thơm, nguyễn đình phong 
Số 5-2013 Nhân lực khoa học xã hội 21 
quyết đó. Phương pháp tiếp cận án lệ sẽ 
tác động tới thói quen ban hành và phổ 
biến các ý kiến bất đồng. Trong một số nền 
tư pháp, ý kiến bất đồng không những 
được phép mà còn được khuyến khích, làm 
cho chúng trở thành một đặc điểm chính 
của việc tăng cường tính độc lập, sáng tạo 
cũng như khả năng lập luận của Thẩm 
phán. ý kiến bất đồng, nếu được nghiên 
cứu và phản biện kỹ, có thể mang tầm 
quan trọng lớn hơn và thậm chí có thể trở 
thành một nguồn luật nếu có điều kiện 
thích hợp. 
2.4. Vai trò của án lệ đối với giáo 
dục pháp luật 
Việc áp dụng án lệ là một điều không 
hề đơn giản. Như đã phân tích ở trên, khi 
áp dụng án lệ, các chuyên gia luật cần có 
kỹ năng nghiên cứu và lập luận cụ thể thì 
mới vận dụng được án lệ và quyết định 
của vụ án như một nguồn luật. Để hiểu án 
lệ, chuyên gia luật phải có khả năng so 
sánh, đối chiếu và phân biệt với các vụ án 
và tình huống thực tế khác nhau để đưa 
ra và áp dụng các nguyên tắc một cách 
nhất quán nhất trong toàn bộ quá trình. 
Để làm được điều đó đòi hỏi cần có sự thay 
đổi ngay từ nền giáo dục dành cho các 
chuyên gia luật. 
Các hệ thống giáo dục dân luật thường 
dựa trên việc ghi nhớ, thuộc các quy định 
và nguyên tắc, khen thưởng việc nhắc lại 
thông tin trên lớp. Tuy nhiên, điều này 
không giúp cho việc rèn luyện, phát triển 
các kỹ năng lập luận và phân tích cần có. 
Nếu áp dụng án lệ, việc thay đổi nền giáo 
dục cũng như nhận thức là rất cần thiết, 
để đào tạo ra những chuyên gia luật có kỹ 
năng và tư duy ngày càng sắc bén, thể 
hiện qua các lợi ích mà nó mang lại. 
Thứ nhất, những án lệ có thể đóng vai 
trò như những bài tập (vụ việc) tình 
huống. Phương pháp tiếp cận này sẽ giúp 
sinh viên nắm kiến thức tốt hơn và hiệu 
quả hơn là những ví dụ do giảng viên giả 
định như trước đây. Sinh viên có thể tự 
tìm hiểu thêm các vụ việc đó trên các 
phương tiện thông tin đại chúng hoặc 
mạng internet, thu thập thêm các bài viết, 
bình luận mở rộng có liên quan hoặc kiểm 
chứng vụ việc. Điều này sẽ hỗ trợ tích cực 
cho việc phát triển mô hình giảng dạy 
hiện đại theo hướng tự nghiên cứu, đặc 
biệt là các bậc học cao hơn như cao học và 
nghiên cứu sinh. 
Thứ hai, việc tăng cường đưa các án lệ 
vào nghiên cứu và giảng dạy sẽ góp phần 
tích cực trong việc đào tạo sinh viên luật 
theo hướng rèn luyện tư duy pháp lý, 
thông qua việc tìm hiểu phương pháp lập 
luận, hệ thống, liên hệ các vấn đề cũng 
như khả năng chuẩn bị tốt về nội dung 
cho việc thực hành tranh tụng, bảo vệ một 
vấn đề. Điều này là cần thiết với một nền 
pháp lý tiên tiến, khi con người là một 
trong những yếu tố quan trọng. Nó sẽ giúp 
cho việc đào tạo các chuyên gia luật không 
chỉ dừng lại ở mức nắm được các quy định 
của pháp luật một cách máy móc, mà điều 
quan trọng là rèn luyện, phát triển tư duy 
pháp lý và khả năng lập luận. 
Thứ ba, việc đưa các án lệ vào trong 
giáo trình, tài liệu nghiên cứu, giảng dạy 
là cần thiết giúp cho chương trình đào tạo 
trở nên gần gũi với xu hướng chung của 
các nước phát triển trên thế giới. Việc làm 
quen với các án lệ ngay từ bậc học cử nhân 
luật trong nước giúp cho sinh viên và cán 
 vai trò của án lệ và kinh nghiệm áp dụng án lệ... 
 Nhân lực khoa học xã hội Số 5-2013 22 
bộ nghiên cứu khi ra nước ngoài, (đặc biệt 
là các nước sử dụng thông luật), không 
mất nhiều thời gian để tìm hiểu hoặc học 
lại từ đầu các khái niệm, các án lệ, cũng 
như có khả năng thực hành nghiên cứu 
theo tình huống (case study) - một phương 
pháp phổ biến ở các nền giáo dục tiên tiến. 
ý thức được những vai trò mà việc đưa 
án lệ vào giáo dục, tại Pháp - quốc gia tiêu 
biểu cho hệ thống Civil Law đã có sự thay 
đổi nhất định trong định hướng giáo dục 
với các sinh viên luật. Vai trò của án lệ 
đang khẳng định vị trí quan trọng của nó 
trong đào tạo luật tại Pháp. Trong vài 
thập kỉ gần đây, các quyết định của các 
Tòa án Pháp và lời bình luận về chúng 
được sử dụng như là những án lệ trong 
mỗi lĩnh vực pháp luật và được coi là tài 
liệu cần thiết cho đào tạo luật tại Pháp. 
Xu hướng này đã xóa dần đi hạn chế việc 
học “vẹt” của sinh viên Pháp, thúc đẩy sự 
phát triển tư duy pháp lý, chứ không đơn 
thuần dừng lại ở việc học thuộc các 
nguyên tắc. Những nguyên tắc, quy phạm 
trong bộ luật đã được giải thích bởi Tòa 
án trong những vụ việc cụ thể và khi nó 
được giới thiệu đến sinh viên đã thực sự 
có giá trị thực tế hơn là sự phân tích đơn 
thuần các nguyên tắc và quy phạm trong 
các bộ luật. ở Pháp hiện nay, có nhiều 
giáo trình luật phục vụ giảng dạy của 
một số môn như Dân sự, Hình sự - đã có 
sự phân tích án lệ được thiết lập bởi các 
Tòa án nước Pháp. 
Tuy nhiên, tại các nước áp dụng luật 
thành văn, để thực hiện được việc thay đổi 
quan niệm và cách thức đạo tạo lại là 
chuyện không hề dễ dàng. Để giải quyết 
vấn đề này tại Việt Nam, cần có nhiều 
thay đổi mang tính chất đột phá đối với hệ 
thống giáo dục đại học nói chung và tại 
các trường Đại học đào tạo chuyên về luật 
nói riêng. 
3. Kinh nghiệm áp dụng án lệ trên 
thế giới 
Thực tế trên thế giới, rất nhiều quốc gia 
đã áp dụng án lệ một cách rất hiệu quả. 
Ban đầu, án lệ được hiểu trước hết là một 
nguyên tắc tố tụng. Nguyên tắc này với 
nội dung quy định rằng những bản án sắp 
được tuyên không được trái với những bản 
đã tuyên và có hiệu lực trước đó nếu như 
tình tiết của các vụ giống hoặc tương tự 
nhau. Nguyên tắc này xuất phát từ nước 
Anh thời trung cổ với tên gọi là thông luật 
(Commom law) sau đó được áp dụng tại 
Mỹ, Canada, úc, New Zealand và một số 
nước châu á như ấn Độ, Malaysia, 
Singapore. Các nhà luật học chia pháp luật 
thế giới thành hai hệ thống: Hệ thống 
thông luật và hệ thống dân luật. Trong đó 
hệ thống thông luật bắt nguồn từ luật dân 
sự La Mã cổ đại dựa trên nguyên tắc: pháp 
luật là những gì được viết ra và ban hành 
và việc xét xử của Tòa án phải dựa vào đó. 
Các quốc gia theo hệ thống này bao gồm 
các nước lục địa châu Âu (Pháp, Đức, Hà 
Lan, Tây Ban Nha..) các nước Mỹ - La tinh 
và một số nước châu á như Trung Quốc, 
Việt Nam... Về cơ bản, các nước dân luật 
không theo nguyên tắc án lệ, những bản án 
này không được xem là luật và không 
mang tính ràng buộc pháp lý nhưng vẫn 
được Tòa cấp dưới dùng để tham khảo. 
Mặc dù vậy, nền tảng cơ bản cho sự 
tồn tại của án lệ trong hai hệ thống đều 
dựa vào nguyên tắc “Các vụ việc giống 
nhau thì cần phải được xét xử như 
 đặng thị thơm, nguyễn đình phong 
Số 5-2013 Nhân lực khoa học xã hội 23 
nhau”. Tuy nhiên, học thuyết về án lệ 
được thể hiện trong hai hệ thống pháp 
luật trên lại không giống nhau. Điều đó 
lý giải cho sự khác nhau của những quan 
điểm đối với án lệ trong những nước có 
hệ thống pháp luật thuộc hai hệ thống 
pháp luật nói trên. 
3.1. Kinh nghiệm áp dụng án lệ ở 
các nước thông luật 
Tại các nước thông luật, án lệ là nguồn 
chính thức trong hệ thống pháp luật. 
Trong hệ thống pháp luật của các nước 
theo hệ thống Common Law, đặc biệt là 
Anh - Mỹ, nguồn luật án lệ sẽ có nét đặc 
trưng riêng trong mỗi hệ thống pháp luật 
của một quốc gia. Xét ở khía cạnh lịch sử, 
án lệ xuất hiện lần đầu tiên ở Anh khi các 
thẩm pháp bắt đầu sử dụng các bản án 
quyết định của tòa án là nguồn cho việc 
xét xử các vụ việc tương tự xảy ra sau. 
Dần dần thói quen này đã trở thành tập 
quán ở nước Anh, sau đó nó phát triển và 
có ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác. 
Pháp luật Mỹ bị ảnh hưởng rất sâu sắc bởi 
pháp luật của nước Anh do Bắc Mỹ từng là 
thuộc địa của Anh. Tuy nhiên, thực tiễn 
pháp lý cho thấy, học thuyết án lệ của 
pháp luật Mỹ gắn với nguyên tắc tuân thủ 
án lệ và nó được áp dụng mềm dẻo hơn so 
với ở Anh trong quá trình phát triển pháp 
luật của cả hai hệ thống pháp luật Anh, 
Mỹ trong suốt quá trình xét xử. 
Nghiên cứu quá trình áp dụng án lệ ở 
hệ thống các nước thông luật ta có thể rút 
ra những khía cạnh xung quanh nguyên 
tắc tuân theo án lệ như sau: 
Thứ nhất, án lệ được coi là một nguồn 
luật có giá trị bắt buộc. Có những nghiên 
cứu đã so sánh án lệ “như là mạch máu” 
xuyên suốt hệ thống pháp luật Common 
law. Mặc dù không được ghi nhận trong 
bất kỳ một văn bản quy phạm pháp luật 
nào quy định phải tuân theo án lệ nhưng 
án lệ được thừa nhận áp dụng và được giải 
thích như một yếu tố tập quán, văn hóa 
pháp lý hơn là yếu tố quy định bắt buộc từ 
nguồn luật thành văn. Trong một khoảng 
thời gian khá dài, khi mà luật thành văn 
chưa phát triển thì án lệ được sử dụng 
như một nguồn luật cơ bản, được các 
Thẩm phán ở Anh, Mỹ áp dụng. Hiện nay, 
luật thành văn đã phát triển và thâm 
nhập tất cả các lĩnh vực của pháp luật ở 
các nước thông luật. Tuy nhiên, án lệ vẫn 
được áp dụng và tồn tại với tư cách là một 
nguồn luật độc lập, có giá trị bắt buộc 
trong các nước thông luật. 
Giá trị bắt buộc của án lệ đã làm cho 
những án lệ phải được viện dẫn chính 
thức và là một phần của nội dung các bản 
án, quyết định của Tòa án các nước thông 
luật. Khi có sự thay đổi và phát triển của 
pháp luật thì khi đó án lệ sẽ được thay đổi 
bởi một án lệ mới hoặc bị hủy bỏ. Không 
những thế, án lệ còn được viện dẫn nhằm 
giải thích một cách rõ ràng chi tiết cho các 
điều luật của luật thành văn. 
Giá trị bắt buộc của án lệ còn thể hiện 
vai trò hiệu lực tối cao của nó trong thực 
tiễn hệ thống pháp luật Mỹ liên quan đến 
những vụ án có tranh cãi về sự giải thích 
Hiến pháp Mỹ. 
Thứ hai, trong các nước thông luật, Tòa 
án cấp dưới có nghĩa vụ tuân theo Tòa án 
cấp trên. 
Trong hệ thống các nước thông luật, 
tính ràng buộc của án lệ và hiệu lực pháp 
lý của nó gắn chặt với mô hình tổ chức của 
 vai trò của án lệ và kinh nghiệm áp dụng án lệ... 
 Nhân lực khoa học xã hội Số 5-2013 24 
hệ thống tòa án. Trong hệ thống pháp luật 
Mỹ, án lệ của tiểu bang cấp dưới sẽ phải 
tuân thủ án lệ tiểu bang cấp cao và án lệ 
của Tòa án tối cao mỗi tiểu bang sẽ có giá 
trị pháp lý cao nhất. Trong hệ thống Tòa 
án liên bang Mỹ, án lệ của Tòa án tối cao 
Mỹ sẽ có giá trị pháp lý ràng buộc đối với 
tất cả các Tòa án cấp dưới. Đối với Tòa 
phúc thẩm liên bang Mỹ thì án lệ của nó 
chỉ có giá trị ràng buộc đối với các Tòa án 
cấp dưới trong phạm vi lãnh thổ xác định 
của khu vực Tòa án phúc thẩm liên bang. 
Nghiên cứu mối quan hệ này, nhà nghiên 
cứu Rupert Cross đã hệ thống 3 nguyên 
tắc như sau trong mối quan hệ giữa Tòa 
án trong hệ thống Tòa án của Vương quốc 
Anh với sự tuân thủ án lệ như sau: 
“1. Tất cả các Tòa án phải lưu ý đến các 
án lệ có liên quan đến vụ án trong hoạt 
động xét xử. 
2. Tất cả các Tòa án cấp dưới phải tuân 
thủ án lệ của các Tòa án cấp trên trong hệ 
thống Tòa án. 
3. Các Tòa án phúc thẩm nhìn chung bị 
ràng buộc bởi chính án lệ của nó trong 
hoạt động xét xử”(7) 
Thứ ba, Tòa án tối cao của các nước 
Thông luật không bị ràng buộc một cách 
cứng nhắc với những án lệ của nó. Lịch sử 
áp dụng án lệ đã trải qua một thời gian áp 
dụng nguyên tắc Tòa án tối cao cứng nhắc 
và luôn phải tuân theo án lệ của nó. Cho 
đến tận năm 1966, Thượng Nghị viện Anh 
(Tòa án tối cao Vương quốc Anh) mới đưa 
ra tuyên bố sẽ không tuân theo án lệ của 
chính nó khi nhận thấy có lý do để làm 
vậy. Trong khi đó, ở Mỹ, học thuyết án lệ 
được tiếp cận hết sức mềm dẻo khi vào 
năm 1910, Tòa án tối cao Liên bang Mỹ đã 
tuyên bố “Nguyên tắc của việc tuân thủ 
theo án lệ (the rule of.state decisis) mặc dù 
có xu hướng tạo tính ổn định và thống 
nhất của pháp luật, nhưng nguyên tắc này 
không cứng nhắc”(8) 
Thứ tư, án lệ có thể bị thay đổi, bị bãi 
bỏ. Trong các nước theo hệ thống thông 
luật thì sự thay đổi và bãi bỏ các án lệ và 
sự thiết lập án lệ mới thể hiện cho lịch sử 
phát triển của pháp luật trong từng lĩnh 
vực pháp luật cụ thể. Khi án lệ bị thay đổi 
hay bãi bỏ cũng là những biểu hiện cho sự 
phản ứng linh hoạt của Tòa án với những 
sự thay đổi của pháp luật trước những 
điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội thay 
đổi. Thông thường có hai cách để một án lệ 
có thể bị thay đổi, bãi bỏ: Thứ nhất, án lệ 
có thể bị thay đổi, bãi bỏ bởi chính Tòa án 
đã tạo ra nó hoặc một Tòa án cấp cao hơn 
Tòa án đã tạo ra án lệ; thứ hai, án lệ có 
thể bị bãi bỏ bởi một luật do cơ quan lập 
pháp thông qua. 
3.2. Kinh nghiệm áp dụng án lệ ở 
các nước dân luật 
Trong thực tiễn áp dụng án lệ của các 
nước dân luật thành văn, do sự ảnh hưởng 
văn hoá pháp lý giữa hệ thống thông luật 
và hệ thống dân luật thành văn nên các 
Thẩm phán, các luật gia ở các nước dân 
luật thành văn đã dần lưu ý đến các yếu 
tố kỹ thuật trong việc tham khảo và viện 
dẫn án lệ. Cụ thể như sau:(7) 
Cần so sánh án lệ với vụ việc tương tự 
nảy sinh về sau; 
(7) Rupert Cross, The House of Lords and Rule of 
Precedent, in Law, Morality and Society (1977), ed. 
P.M.S Hacker and J.Raz 
(8) Case: “Hertz v. Woodman - 218 U.S. 205 (1910)”, at 
e.html 
 đặng thị thơm, nguyễn đình phong 
Số 5-2013 Nhân lực khoa học xã hội 25 
Từ án lệ rút ra những nguyên tắc 
pháp lý và áp dụng nó cho thực tiễn xét 
xử sau này; 
Thẩm phán cần áp dụng một cách mềm 
dẻo, linh hoạt khi áp dụng án lệ nhất là 
những án lệ được cho là đã lạc hậu; 
Xu hướng áp dụng án lệ của Toà án 
tối cao sẽ được ưu tiên vì nó có phạm vi 
ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống Toà án 
cấp dưới; 
Luật thành văn có giá trị áp dụng cao 
hơn án lệ; 
án lệ không phải là nguồn bắt buộc của 
hệ thống pháp luật nhưng có cơ chế 
khuyến khích việc tham vấn án lệ trong 
hoạt động xét xử của Thẩm phán. 
Cũng theo lộ trình này, Trung Quốc đã 
có nhiều thay đổi trong việc thừa nhận 
“các vụ án có giá trị hướng dẫn xét xử” 
trong “Quy định của Tòa án nhân dân tối 
cao” được ban hành vào ngày 26/11/2010. 
Quy định này bao gồm những nội dung cơ 
bản sau: 
Thẩm quyền công bố các vụ án có giá trị 
hướng dẫn xét xử là Tòa án nhân dân tối 
cao nhằm “hướng dẫn công tác xét xử và 
thực thi bản án tại toà án”. 
Điều kiện để các vụ án được lựa chọn là 
vụ án có giá trị hướng dẫn xét xử. Trong 
đó điều kiện chung là các vụ án được lựa 
chọn phải có giá trị pháp lý chung thẩm. 
Quy trình lựa chọn vụ án có giá trị 
hướng dẫn xét xử gồm hai lộ trình: một là, 
“đề xuất nội bộ”, tại đó Toà án các cấp đều 
có thẩm quyền cũng như nghĩa vụ đề xuất 
vụ án; hai là, lộ trình “đề xuất từ bên 
ngoài”, liên quan đến các đại biểu Quốc 
hội, các chuyên gia, học giả, luật sư,.. 
Nghĩa vụ biên soạn các vụ án có giá 
trị hướng dẫn xét xử của Văn phòng phụ 
trách các vụ án có giá trị hướng dẫn xét 
xử của Tòa án nhân dân tối cao sẽ phải 
thực hiện để các vụ án có tính thống 
nhất, hệ thống và không trái pháp luật, 
quy định và giải thích pháp luật. Nhiệm 
vụ này sẽ thường xuyên được kiểm tra 
để hoàn thiện tính hệ thống và thống 
nhất của các vụ án có giá trị hướng dẫn 
xét xử. 
Tóm lại, trên đây là những nghiên cứu 
sơ lược về khái niệm, đặc điểm, vai trò của 
án lệ và kinh nghiệm áp dụng nó trong hệ 
thống các nước thông luật và dân luật 
thành văn. Có thể nói, vai trò mà án lệ 
mang lại đối với các nước áp dụng là dễ 
thấy và quan trọng. Việc học hỏi kinh 
nghiệm và xem xét áp dụng án lệ vào thực 
tiễn xét xử của Việt Nam là hoàn toàn cần 
thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội 
nhập và giao lưu quốc tế hiện nay. 
TàI LIệU THAM KHảO 
1. Nguyễn Văn Nam (2012), Lý luận và 
thực tiễn về án lệ trong hệ thống pháp luật 
của các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức và 
những kiến nghị đối với Việt Nam, Luận 
án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật 
Hà Nội. 
2. TS. Nguyễn Thị Hồi (2008), “Các loại 
nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay”, 
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tr.13. 
3. Case: “Hertz v. Woodman - 218 U.S. 
205 (1910)”, at Rupert Cross, The House of 
Lords and Rule of Precedent, in Law, 
Morality and Society (1977), ed. P.M.S 
Hacker and J.Raz 
4. Bryan A, Garner (2004), Black’s Law 
Dictionary Nineth Edition, West Group. 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_an_le_va_kinh_nghiem_ap_dung_an_le_o_cac_nuoc_tr.pdf