Văn hóa, triết lý và triết học

Tóm tắt Văn hóa, triết lý và triết học: ...rèn luyện con người ngay từ thời thơ ấu; văn hóa bao hàm cả cái vô thức xã hội, được di truyền giữa các thế hệ, giữa người này với người kia. ở góc độ này, văn hóa cũng như các triết lý nói chung mang ý nghĩa và giá trị xã hội rất to lớn (1) Tuy nhiên, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa của riên... dụng, sát hợp với tâm thức, bản sắc, tính cách của cộng đồng và dễ đi sâu vào con người, dễ tiếp thu và định hướng hoạt động, giao tiếp của con người nhẹ nhàng hơn so với các nguyên lý lý luận trong các hệ thống triết học. Thực tiễn cho thấy, mọi nền văn hóa dân tộc không thể thiếu vắng các...riển của khoa học, của đời sống xã hội, của kinh nghiệm lịch sử và cá nhân, nói cách khác, là sự khái quát, tổng kết các bước phát triển của văn hoá; do đó, tính khái quát của các hệ thống triết học bác học cao hơn các triết lý và văn hóa nói chung. Các triết lý thường phản ánh các kinh nghi...

pdf13 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 298 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Văn hóa, triết lý và triết học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ù 
triết học dù chúng phản ánh hiện thực, thể hiện thành những quy tắc, chuẩn mực 
của hoạt động, thành những triết lý, thành các cái chung văn hóa. Các triết lý có 
thể hoạt động và phát triển cả ở bên ngoài các hệ thống triết học, nhưng chúng lại 
vốn có trong các nền văn hóa mà ở đó, chưa có những hình thức phát triển của các 
hệ thống triết học. 
Các triết lý xuất hiện, phát triển và hoạt động trong đời sống xã hội và cá 
nhân, mỗi yếu tố đều hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, liên hệ với nhau. Trong các 
triết lý đã có thể hiện những quan niệm khác nhau về các yếu tố cơ bản và các mặt 
của hoạt động sống của con người: vị trí con người, các quan hệ xã hội, đời sống 
tinh thần và các giá trị của cuộc sống con người. Những quan niệm ấy ẩn chứa bên 
trong các nội dung, chương trình phương thức hoạt động chung của xã hội và được 
cụ thể hóa bằng những quan niệm cụ thể hơn, định hướng cho hoạt động của các 
cá nhân và cộng đồng. 
Trong các triết lý mang tính thế giới quan có thể có những phương án sống 
và hoạt động riêng, đặc trưng cho những kiểu văn hóa khác nhau và ăn sâu trong ý 
thức con người. Đồng thời chúng cũng gắn liền với những nội dung, phương thức, 
chương trình hành động của quá khứ lẫn tương lai, thể hiện những đặc điểm của 
phương thức giao tiếp và hoạt động của con người, của việc bảo tồn, chuyển tải 
kinh nghiệm xã hội và thang bậc giá trị. Chúng mang đặc trưng dân tộc và chủng 
tộc trong mỗi nền văn hóa, xác định đặc điểm của các nền văn hóa khác nhau, ý 
nghĩa của những triết lý trong văn hóa sẽ được các cá nhân thận thức và chúng sẽ 
xác định tầm quan niệm về thế giới, hành động và cách xử thế của các cá nhân. Ý 
nghĩa của những triết lý ở tầm nhóm và cá nhân sẽ được hiệu chỉnh cho phù hợp 
với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của họ. 
Hoạt động của các chương trình sinh học (bản năng ăn uống, tự bảo vệ, tính 
dục .v.v.. ) ở con người trải qua quá trình xã hội hóa, giáo dục, được thực hiện 
dưới hình thức triết lý văn hóa xác định. Rất nhiều những biểu hiện có thể có của 
các chương trình sinh học bị cấm do văn hóa. Văn hóa “cấm kỵ” nhiều tham vọng, 
ước muốn thể hiện tự do các bản năng động vật thông qua việc giáo dục, rèn luyện 
con người ngay từ thời thơ ấu; văn hóa bao hàm cả cái vô thức xã hội, được di 
truyền giữa các thế hệ, giữa người này với người kia. ở góc độ này, văn hóa cũng 
như các triết lý nói chung mang ý nghĩa và giá trị xã hội rất to lớn (1) 
Tuy nhiên, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa của riêng mình. Trong văn hóa 
dân tộc có những định đề, nguyên tắc, cách hành xử được thể hiện theo cách riêng. 
Điều đó có nghĩa là dân tộc nào cũng có những triết lý điều chỉnh cuộc sống và 
hoạt động của mình. Dân tộc nào cũng có nền văn hóa của mình, có những tư 
tưởng triết học và đặc biệt, có rất nhiều những triết lý phong phú, đa dạng. Nhưng 
không phải dân tộc nào cũng có các hệ thống triết học bác học, hàn lâm riêng. Các 
hệ thống triết học bác học, hàn lâm được các nhà tư tưởng tổng kết từ sự phát triển 
của khoa học, thực tiễn và lịch sử xã hội, hay nói cách khác, là sự phát triển của 
văn hóa dân tộc, trong đó có cả các hệ thống triết học bác học đã được xây dựng 
trước đó. 
Văn hóa là nguồn nuôi dưỡng các hệ thống triết học, các tư tưởng triết học; 
là điều kiện, chất liệu và nguồn gốc cho sự phát triển của triết học. Một dân tộc có 
thể không có hệ thống triết học riêng nhưng không thể không có văn hóa riêng của 
mình. Không có văn hóa riêng của mình, dân tộc sẽ không thể tồn tại được. Văn 
hóa là điều kiện cần thiết, tất yếu của sự tồn tại của mỗi dân tộc cả về phương diện 
đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần. Theo nghĩa đó, văn hóa cũng là điều kiện 
tất yếu cho sự tồn tại và phát triển của các hệ thống triết học. 
Trong mỗi một nền văn hóa dân tộc bao giờ cũng bao hàm những triết lý về 
con người, cuộc sống, xã hội và thế giới nói chung. Nhưng đó chưa phải là hệ 
thống triết học. Những cái chung, những triết lý đó có thể rời rạc, tản mạn, không 
liên kết chặt chẽ, lôgíc được với nhau, mặc dù chúng có thể là những triết lý sâu 
sắc. Chúng thể hiện sự suy tư, đúc kết kinh nghiệm, tri thức của con người về 
những mặt, những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ trong đời sống. Chúng có thể được 
thể hiện bằng ca dao, tục ngữ, văn học, nghệ thuật, kiến trúc, cách hành xử trong 
cuộc đời. Đối với người Việt Nam, "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác 
giống nhưng chung một giàn" từ lâu đã là một triết lý sống, một cách hành xử 
trong quan hệ giữa người với người. Nhưng đó chưa phải là triết học, càng chưa 
phải là một hệ thống triết học. 
Khác với các hệ thống triết học bác học do các nhà tư tưởng, các nhà khoa 
học hoàn toàn xác định tạo ra, các triết lý, thường là Vô danh, xuất hiện và tồn tại 
trong các hình thức khác nhau: ca dao, tục ngữ, trong cuộc sống thường ngày, 
trong kiến trúc, v.v.. Không thể xác định được chính xác thời gian ra đời của một 
cái chung, một triết lý cụ thể nào đó. Nhưng có thể xác định được tác giả và thời 
gian xuất hiện của một hệ thống triết học cụ thể. Những triết lý, những cái chung 
phong phú và đa dạng đó tồn tại lâu đời trong cuộc sống của mỗi cộng đồng dân 
tộc, nhưng chúng chỉ có thể tồn tại bên cạnh nhau, phản ánh các mặt, các quá trình 
cụ thể của đời sống xã hội mà không thể tạo thành một hệ thống triết học có kết 
cấu lôgíc bên trong, như một lý thuyết hay hệ thống lí luận triết học. Chúng không 
thể có tính khái quát cao và tính hệ thống chặt chẽ như các hệ thống triết học bác 
học. 
Các triết lý đó nằm ngay trong văn hóa dân tộc, chúng không tách rời mà 
gắn chặt với văn hóa theo cả nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp, trong cả văn hóa vật chất 
lẫn văn hóa tinh thần. Chúng hoà vào văn hóa dân tộc và là một yếu tố cấu thành 
căn bản có ý nghĩa quyết định chiều sâu của văn hóa dân tộc. Ở một góc độ nhất 
định, có thể nói, các triết lý ấy chính là lớp trầm tích cô đọng của văn hóa dân tộc. 
Tuy không phải là toàn bộ nền văn hóa, nhưng chúng là yếu tố cốt lõi tạo nên chất 
lượng của nền văn hóa, làm cho văn hóa phong phú và sâu sắc hơn. 
Mặt khác, chính văn hóa dân tộc là nguồn sữa bất tận nuôi dưỡng và phát 
triển các triết lý. Quy mô, cường độ và năng lực lao động của một dân tộc càng 
lớn, nền văn hóa càng phát triển thì càng làm cho các triết lý của họ phong phú, 
sâu sắc, đa dạng, toàn diện, thể hiện đời sống con người và xã hội đầy đủ hơn. Sự 
phát triển của văn hóa dân tộc cung cấp chất liệu cho sự xuất hiện, tồn tại và phát 
triển các triết lý. Theo chiều ngược lại, các triết lý lại có tác dụng định hướng và 
thúc đẩy các hoạt động, hành vi và giao tiếp của con người, theo hướng có văn hóa, 
sáng tạo, mở rộng và phát triển văn hóa. Các triết lý là những khuôn mẫu, định 
hướng và do vậy, là cơ sở trực trếp cho sự phát triển tiếp theo của văn hoá. 
Chính vì vậy, các triết lý là bộ phận cấu thành cốt lõi và quan trọng của văn 
hóa. Hơn nữa, trong mỗi nền văn hóa dân tộc, các triết lý thường gần gũi, gắn bó 
trực tiếp với đời sống thường ngày của con người, nó được truyền tải thông qua 
giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình; được con người tiếp thu qua kinh nghiệm, 
học hỏi ở bạn bè Mặt khác, các triết lý mới đạt tầm kinh nghiệm chứ chưa phải 
ở tầm trình độ lý luận. Do vậy, chúng dễ hiểu, dễ vận dụng, sát hợp với tâm thức, 
bản sắc, tính cách của cộng đồng và dễ đi sâu vào con người, dễ tiếp thu và định 
hướng hoạt động, giao tiếp của con người nhẹ nhàng hơn so với các nguyên lý lý 
luận trong các hệ thống triết học. 
Thực tiễn cho thấy, mọi nền văn hóa dân tộc không thể thiếu vắng các triết 
lý, bởi đó chính là những định hướng hoạt động, giao tiếp và phát triển của họ. 
Một nền văn hóa càng phát triển thì số lượng và chiều sâu của các triết lý càng lớn. 
Càng gần với hiện đại thì số lượng và chiều sâu, tính đa dạng, đa diện của toàn bộ 
các triết lý càng lớn. Càng ngược về quá khứ xa xưa thì số lượng và chiều sâu, tính 
đa diện và đa dạng của tổng thể các triết lý càng nhỏ lại. Khi hệ thống các triết lý 
tăng thêm cả về số lượng lẫn chiều sâu thì những yếu tố khác của văn hóa dân tộc 
cũng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, bởi các triết lý phát triển và mở 
rộng đến đâu thì chúng mở đường, tạo hướng, dựng khuôn mẫu cho các hành vi, 
giao tiếp và hoạt động để tạo ra những giá trị văn hóa mới, môi trường văn hóa 
mới, sản phẩm văn hóa mới. 
Một chiều cạnh khác trong mối quan hệ văn hóa và triết học liên quan đến 
các triết lý trong nền văn hóa dân tộc là vai trò của các triết lý đối với các hệ thống 
triết học bác học. Chỉ một số dân tộc có các hệ thống triết học bác học. Các hệ 
thống triết học luôn ở tầm lý luận cao so với các triết lý trong nền văn hóa dân tộc. 
Chúng cũng là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn hóa dân tộc. Có thể nói, 
các học thuyết triết học bác học là sự kết tinh cao độ ở tầm lý luận các triết lý 
trong văn hóa dân tộc, thể hiện thế giới quan và nhân sinh quan của dân tộc ở thời 
đại đó được khúc xạ qua lăng kính của các nhà triết học cụ thể. Các triết lý trong 
nền văn hóa dân tộc chính là những chất liệu trực trếp để tạo nên kết cấu cho mọi 
yếu tố của các hệ thống triết học bác học. Một mặt, các triết lý có thể tham gia ít 
nhiều bằng nội dung kiến thức, bằng cách tư duy, suy luận vào hệ thống triết 
học dưới dạng nguyên mẫu. Mặt khác, nhiều triết lý tham gia vào học thuyết triết 
học bác học một cách gián tiếp thông qua việc tác động vào tư duy, ý thức của nhà 
triết học trong quá trình học tập, qua kinh nghiệm cuộc sống, qua tiếp thu kinh 
nghiệm của người khác ngay từ khi hệ thống đó bắt đầu hình thành, phát triển và 
được diễn đạt thành lý luận có hệ thống. 
Văn hóa dân tộc là môi trường sống, nguồn nuôi dưỡng các hệ thống triết 
học bác học. Các hệ thống triết học bác học là sản phẩm trước hết của nền văn hóa 
dân tộc, chúng được tích tụ, chưng cất và thăng hoa qua tài năng nhận thức, suy tư 
và bản lĩnh của các triết gia. Không chỉ chất liệu của các hệ thống triết học bác học 
được tích tụ và trầm lắng, tinh luyện từ văn hóa mà cả năng lực nhận thức, suy tư 
và bản lĩnh cùng những phẩm chất khác của các triết gia sáng tạo nên các hệ thống 
triết học bác học cũng đều được nẩy mầm, nuôi dưỡng trong nền văn hóa dân tộc. 
Bản thân các hệ thống triết học bác học cũng là một yếu tố cấu thành cơ 
bản và quan trọng của văn hóa dân tộc, nếu nền văn hóa dân tộc đó có các hệ 
thống triết học bác học. Không thể nói rằng phải có một nền văn hóa phát triển cao 
mới có thể có được các hệ thống triết học bác học. Nhưng không có một nền văn 
hóa dân tộc phát triển đến một mức độ nhất định thì không thể có các hệ thống 
triết học bác học. Trong lịch sử phát triển của các dân tộc trên thế giới từ thời cổ 
đại đến nay, các hệ thống triết học bác học đều được ra đời trong lòng những nền 
văn hóa phát triển sâu rộng và rực rỡ: Hy Lạp, La Mã cổ đại, Ấn Độ, Trung Hoa, 
Đức, Pháp, Anh, Nga Mặt khác, cũng phải thấy một thực tế là mỗi một dân tộc 
đều có nền văn hóa riêng của mình bao chứa trong đó vô vàn các triết lý khác nhau. 
Trong nền văn hóa dân tộc, các triết lý là nguồn dinh dưỡng trực tiếp của 
các hệ thống triết học bác học, bởi chúng đã được chưng cất, gạn lọc, tồn tại dưới 
dạng những tri thức khái quát, những định hướng cho các hành vi, hoạt động và 
giao tiếp của con người. Một nền văn hóa chưa phát triển đến mức có những triết 
lý thì chưa thể có được các hệ thống triết học bác học. Các yếu tố khác của nền 
văn hóa cũng có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động vào sự hình thành và phát 
triển của tư duy triết học, và các tư tưởng triết học, các hệ thống triết học bác học. 
Nhưng tác động thông qua các triết lý là tác động cơ bản và quan trọng nhất. 
Giống như các tác phẩm văn học bác học, các hệ thống triết học bác học cũng 
được nuôi dưỡng từ chính nền văn hóa dân tộc. 
Trên thực tế, không có sự tách rời giữa văn hóa dân tộc và toàn bộ các triết 
lý của dân tộc tồn tại trong nền văn hóa đó. Các hệ thống triết học bác học cũng 
vậy, nhưng điểm khác với hệ thống triết lý là chúng thuộc một tầng bậc cao hơn về 
mức độ khái quát; về lập luận lôgíc và về tính hệ thống. 
Các triết lý đơn lẻ thường không dựa trên lập luận lôgíc, mức độ khái quát 
thấp; do đó, tính hệ thống của chúng không cao như trong các hệ thống triết học 
bác học. Là kết quả của sự tổng kết, khái quát thành tựu phát triển của khoa học, 
của đời sống xã hội, của kinh nghiệm lịch sử và cá nhân, nói cách khác, là sự khái 
quát, tổng kết các bước phát triển của văn hoá; do đó, tính khái quát của các hệ 
thống triết học bác học cao hơn các triết lý và văn hóa nói chung. Các triết lý 
thường phản ánh các kinh nghiệm, sự việc, hành động đơn lẻ, tản mạn, rời rạc, 
không thể hiện được những quy luật chung hoặc bản chất sâu xa của hiện tượng, 
quá trình: Bởi vậy, nó không thể mang tính hệ thống, tính lập luận. Nhưng nó lại 
là chất liệu quan trọng cho các hệ thống triết học bác học, là khâu trung gian 
không thể thiếu giữa các yếu tố, bộ phận, tầng bậc khác của văn hóa với các hệ 
thống triết học của dân tộc đó. Cả hai dạng đặc biệt này (triết học và triết lý) trong 
văn hóa dân tộc bổ sung lẫn nhau tạo thành thế giới quan, nhân sinh quan chung 
của dân tộc đó, có tác dụng định hướng cho con người trong giao tiếp và hoạt 
động thực tiễn. 
Cùng với sự phát triển của văn hóa và đời sống dân tộc, các triết lý cũng 
như triết học biến đổi không ngừng. Có những triết lý sẽ mất tác dụng và bị quên 
lãng, có những triết lý mới nảy sinh phản ánh những hiện tượng, sự vật, quá trình 
mới, cũng như có hệ thống triết học sẽ đi dần vào quên lãng. Những hệ thống triết 
học mới đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của đời sống xã hội sẽ ra đời và phát triển. 
Những người của thời đại nguyên thuỷ hoặc thời đại nô lệ có những triết lý mà 
ngày nay con người hiện đại không có. Ngược lại, những người hiện đại đang có 
những triết lý mà người cổ đại không thể có. Chắc chắn là người nguyên thuỷ 
không nói “quý như vàng”, một triết lý mà người hiện đại vẫn thường dùng. Tình 
hình cũng tương tự như vậy trong các hệ thống triết học bác học. Những hệ thống 
triết học mới của thời đại sau bao giờ cũng kế thừa các triết lý, tư tưởng, lập luận, 
thành tựu của các hệ thống triết học trước đó, cải biến chúng cho phù hợp với hệ 
thống triết học mới, thu nhận các triết lý mới và những yếu tố mới khác của nền 
văn hoá. 
Triết học mới ra đời lại bổ sung, khắc phục những thiếu sót nhất định của 
văn hóa dân tộc thúc đẩy nó phát triển lên một trình độ cao hơn. Triết học vừa thể 
hiện sự phản tư của văn hóa dân tộc, vừa là một mặt cơ bản, một khu vực trọng 
yếu của văn hóa dân tộc. Triết học chính là văn hóa dân tộc ở tầm lý luận cao nhất, 
là sự khái quát các thành tựu của văn hóa trong các lĩnh vực khác nhau từ khoa 
học đến thực tiễn, từ trí thức đến kinh nghiệm sống, từ quá khứ lịch sử đến hiện tại 
và tương lai. Chính vì vậy triết học có tác dụng định hướng thế giới quan cho sự 
phát triển trếp theo của văn hóa dân tộc, chỉ đạo hành vi, hoạt động và giao tiếp 
của con người trong sáng tạo văn hóa mới, trong tiếp nhận và hưởng thụ các thành 
tựu văn hóa nói chung. 
Triết học muốn đạt đến đỉnh cao lý luận thì phải tổng kết và khái quát được 
sự phát triển của toàn bộ các lĩnh vực văn hóa. Điều đó đòi hỏi các nhà triết học 
phải có nhãn quan văn hóa rộng lớn, sự hiểu biết rộng và sâu sắc các lĩnh vực khác 
nhau của đời sống văn hóa dân tộc. Triết học càng đứng ở đỉnh cao lý luận, phạm 
vi và mức độ khái quát, tổng kết càng sâu sắc sẽ càng có tác động định hướng lớn 
cho nhiều lĩnh vực khác nhau của văn hóa. Sự tác động định hướng này có thể 
thông qua con đường trực tiếp bằng cách tiếp nhận các tri thức lý luận triết học, có 
thể bằng con đường gián tiếp, thông qua việc tiếp nhận các triết lý nằm trong 
chính hệ thống triết học hoặc được triết học cải biến, chỉnh sửa, chính xác hóa 
trong quá trình phát sinh và tồn tại. Mỗi con người sống, hoạt động và giao tiếp 
luôn được chỉ đạo bởi một số lý luận triết học và triết lý xác định. 
Trong ý thức và cuộc sống của mỗi người, dù tự giác hoặc không tự giác 
thì họ vẫn bị các triết lý và triết học chi phối. Toàn bộ văn hóa, trong đó cốt lõi là 
các triết lý và triết học tạo thành khung mẫu, chuẩn mực, giá trị, thước đo, định 
hướng của các hành vi, hoạt động và giao tiếp của con người. Trong quan hệ với 
văn hóa, toàn bộ các triết lý và triết học lại tạo thành một hệ thống khung mẫu, 
chuẩn mực, giá trị, thước đo, định hướng, cơ sở, nền tảng cho sự sáng tạo, tiếp 
nhận và hưởng thụ văn hóa của con người. Mặt khác, đời sống văn hóa, trong quá 
trình phát triển lại góp phần làm bộc lộ những hạn chế, thiếu sót, sai lầm của các 
triết lý và hệ thống triết học; từ đó, hoàn thiện, sửa chữa hoặc loại bỏ chúng ra 
khỏi ý thức và cuộc sống của con người. 
Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại và phát triển, các triết lý và hệ thống triết 
học khi tạo thành khung mẫu, chuẩn mực, giá trị, thước đo, định hướng cho văn 
hóa thì chúng lại có thể trói buộc, kìm hãm sự phát triển của văn hóa, đặc biệt là 
kìm hãm tư duy và năng lực sáng tạo văn hóa của con người. Các triết lý, hệ thống 
triết học đã lạc hậu, lỗi thời, hoặc có sai lầm thường bắt đầu có tác dụng ngược 
bằng việc thể hiện những mâu thuẫn của chúng với các triết lý, hệ thống triết học 
và với văn hóa nói chung, thậm chí giữa chúng với văn hóa sẽ bắt đầu một thời kỳ 
xung đột. Trong quá trình xung đột văn hóa dần dần thể hiện nhu cầu đổi mới, 
thay thế các triết lý và triết học cũ bằng các triết lý và triết học mới. Đồng thời văn 
hóa sẽ tạo ra, bồi đắp và tích tụ dần các chất liệu cho sự ra đời các triết lý mới 
hoặc hệ thống triết học mới. 
Sự xung đột giữa triết học và văn hóa dần tạo nên những tiền đề văn hóa 
cho việc giải quyết cuộc xung đột ấy và sau đó là các phương tiện giúp cho việc 
giải quyết xung đột .Văn hóa sẽ tiến triển từng bước, giải quyết dần các vấn đề 
đơn lẻ, nhỏ bé và tiến tới những vấn đề lớn hơn, tạo ra những chất liệu văn hóa 
mới, đáp ứng những đòi hỏi mới của sự phát triển, bổ sung vào kho tàng văn hóa 
dân tộc những kiến thức mới, những triết lý mới, những giá trị văn hóa mới. Trên 
cơ sở tích tụ đó, văn hóa đẩy triết học làm nên những đột phá mới, tạo ra các hệ 
thống triết học mới hơn, phù hợp hơn với sự phát triển. Văn hóa tham gia sàng lọc, 
gạt bỏ, bảo tồn, phát huy và chuyển tải các giá trị của triết học cũ vào triết học mới. 
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời cũng là nền tảng tinh 
thần của triết học. Văn hóa, theo nghĩa rộng, là nền tảng của sự sinh tồn của loài 
người, đồng thời cũng là nền tảng quyết định sự ra đời, tồn tại, phát triển và diệt 
vong của các hệ thống triết học. Văn hóa dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp đều là 
động lực của sự phát triển xã hội, trong đó có sự phát triển của triết học. Các dân 
tộc có thể vay mượn các hệ thống triết học nhưng không thể vay mượn các triết lý 
và càng không thể vay mượn nền văn hóa nói chung. Việc du nhập, vay mượn, cải 
biên, tiếp nhận các hệ thống triết học từ bên ngoài cũng bị quy định bởi văn hóa 
dân tộc nói chung và tổng thể các triết lý nói riêng. 
Không hoàn toàn đồng nhất, nhưng cũng có thể hình dung rằng triết học là 
ánh hào quang rực rỡ của quả cầu lửa văn hóa. Quả cầu ấy càng lớn, càng sáng thì 
ánh hào quang càng rực rỡ, càng tỏa xa. Văn hóa, các triết lý và các hệ thống triết 
học là ba tầng bậc khác nhau của văn hóa, đó chính là "ba trong một" - một nền 
văn hóa theo nghĩa rộng. 
(l) Xem: Lương Việt Hải. Lý luận và thực tiễn hiện đại hóa xã hội ở các nước 
Đông và Đông Nam Á, Mátxcơva, 998; L.I.Ionin. Xã hội học văn hóa, Mátxcơva. 
996; V.X.Stepin. Thời đại của những biến đổi và kịch bản của tương lai. 
Mátxcơva,. 996; Văn hóa// Bách khoa triết học mới, Mátxcơva, 200; A. ra.Phlier. 
Di truyền văn hóa, Mátxcơva, 995, G.F.Mclean. Tự do, truyền thông văn hóa và 
trên bộ, CRVP, 2000; Lương Đình Hải. Toàn cầu hóa và văn hóa dân tộc, Istanbul, 
2003;... 

File đính kèm:

  • pdfvan_hoa_triet_ly_va_triet_hoc.pdf