Xác định số lượng, chất lượng bùn đáy ao nuôi cá tra (pangasianodon hypophthalmus) và sử dụng trong canh tác rau

Tóm tắt Xác định số lượng, chất lượng bùn đáy ao nuôi cá tra (pangasianodon hypophthalmus) và sử dụng trong canh tác rau: ...để trồng rau muống 2.4.1 Thiết kế thí nghiệm và chăm sóc rau Thử nghiệm dùng bùn đáy ao để trồng rau muống được tiến hành từ tháng 02 đến tháng 4, tại xã An Nhơn, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Hạt giống rau muống trắng của công ty Trang Nông. Phân Urê 46% N và NPK 16-16-8 được sử d... thống cấp và thoát nước khác nhau Sự khác nhau ở 2 dạng ao này có thể dẫn tới sự khác nhau về lượng bùn đáy tích tụ. Khi xét tương quan giữa độ dày lớp bùn theo thời gian riêng theo từng dạng ao (2 hệ thống cấp nước khác nhau) cho thấy có sự tương quan cao hơn (R2 = 0,8968 và R2 = 0,946...a Trương Quốc Phú và Trần Kim Tính (2012) hàm lượng Pts trung bình trong 3 ao nuôi là 0,29% (0,085-0,616%). Các ao nuôi càng lâu thì hàm lượng lân tích lũy trong bùn đáy ao càng cao do quá trình lắng tụ nên hàm lượng lân ở ao II và IV có hàm lượng Nts cao nhất lần lượt là 0,80 và 0,91%. ...

pdf12 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 242 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Xác định số lượng, chất lượng bùn đáy ao nuôi cá tra (pangasianodon hypophthalmus) và sử dụng trong canh tác rau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẬN 
3.1 Khảo sát sự biến động bùn đáy trong ao 
nuôi cá tra thâm canh 
Ở thời điểm 180 ngày (thu hoạch ao I và ao II) 
lượng bùn tích tụ trong ao I và ao II lần lượt là 30,9 
cm và 45,38 cm tượng ứng với lượng thức ăn tiêu 
thụ là 59,38 và 91,69 kg thức ăn/m2 đáy ao. Bên 
cạnh đó, lượng bùn tích tụ trong ao III và ao IV lần 
lượt là 42,73 và 59,11 cm tương ứng với lượng 
thức ăn cá tiêu thụ là 39,87 và 63,22 kg thức ăn/m2 
đáy ao. 
Từ đó cho thấy lượng bùn tích tụ trong ao cao 
nhất ở ao III và ao IV và ngược lại là ao I và II. 
Bảng 4: Lượng thức ăn cá sử dụng và lượng bùn tích tụ theo thời gian 
Thời gian 
(ngày) 
Bùn tích tụ ( cm) Thức ăn cung cấp (kg/m2 đáy ao) 
Ao I Ao II Ao III Ao IV Ao I Ao II Ao III Ao IV 
30 2,03 4,36 5,62 6,45 3,80 3,07 0,75 1,75 
60 6,36 5,91 9,31 9,61 8,78 6,84 3,82 8,60 
90 15,44 13,16 14,71 22,15 21,25 27,76 7,08 15,50 
120 21,09 21,90 24,77 26,51 28,90 41,26 17,77 27,49 
150 27,81 39,71 27,12 37,41 46,77 79,77 23,21 44,69 
180 30,90 45,38 42,73 59,11 59,38 91,69 39,87 63,22 
210 61,31 70,77 47,91 73,27 
240 79,42 91,78 61,45 91,65 
270 98,62 98,94 
297 94,36 106,78 
Với lượng thức ăn cung cấp cho cá như ở các 
ao thí nghiệm (Bảng 4), có mối tương quan chặt 
chẽ giữa thời gian nuôi và lượng bùn đáy tích tụ 
(R2 = 0,9138) (Hình 4). Qua đó cho thấy, lượng 
bùn tích tụ trong ao tăng dần theo thời gian, nuôi 
càng lâu lượng bùn tích tụ càng cao. 
Hình 4: Tương quan giữa bùn đáy và thời gian nuôi ở các ao 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần A: Khoa học Tự nhiên, Công nghệ và Môi trường: 35 (2014): 78-89 
 84 
Hình 5: Tương quan giữa bùn đáy và thời gian ở 2 dạng ao có hệ thống cấp và thoát nước khác nhau 
Sự khác nhau ở 2 dạng ao này có thể dẫn tới sự 
khác nhau về lượng bùn đáy tích tụ. Khi xét tương 
quan giữa độ dày lớp bùn theo thời gian riêng theo 
từng dạng ao (2 hệ thống cấp nước khác nhau) cho 
thấy có sự tương quan cao hơn (R2 = 0,8968 và R2 
= 0,9461) (Hình 5). 
Lượng bùn tích tụ theo thời gian khác nhau 
giữa 2 dạng ao có hệ thống thay nước khác nhau 
(Hình 5). Độ dày lớp bùn đáy tích tụ ở ao có hệ 
thống dẫn nước vào và thoát nước ra ở 2 đầu riêng 
biệt qua các tháng thứ 1, 2, 3, 4, 5 và 6 lần lượt là 
3,43; 7,81; 24,51; 35,08; 63,27 và 75,53 cm. Trong 
khi đó, độ dày bùn đáy ở ao có hệ thống dẫn nước 
vào và thoát nước ra ở cùng một phía bờ ao qua các 
tháng 1, 2, 3, 4, 5, 6,7, 8, 9 và 10 lần lượt là 6,04; 
9,46; 18,43; 25,64; 32,27; 50,92; 66,04; 85,60; 
98,62 và 94,36 cm. 
Từ kết quả trên cho thấy, độ dày lớp bùn đáy 
tích tụ ở ao có hệ thống dẫn nước vào và thoát 
nước ra ở 2 đầu riêng biệt thấp hơn ở ao có hệ 
thống dẫn nước vào và thoát nước ra ở cùng một 
phía bờ ao. 
3.2 Thể tích bùn đáy tích tụ trong ao nuôi 
Dựa vào công thức tính thể tích bùn đáy (m3) 
(trong phương pháp nghiên cứu) và phương trình 
tương quan ở Hình 4, kết hợp ẩm độ bùn đáy ao 
(58,56% nước) và ẩm độ bùn bơm lên (62,98% 
nước), lượng bùn tích tụ và sinh ra ở từng tháng 
được ước tính và trình bày ở Bảng 5. 
Thể tích (m3) bùn đáy có thể ước lượng được 
bằng cách dựa vào ẩm độ bùn dưới đáy ao. Giả sử 
dung trọng của bùn khô hoàn toàn bằng 1, có thể 
tính được thể tích (m3) bùn đáy khô hoàn toàn. 
Bảng 5: Tổng thể tích (m3) bùn sinh ra theo thời gian của một ao nuôi cá tra có diện tích 1 ha (bùn 
tích lũy từ khi bắt đầu nuôi đến thời gian khảo sát) 
Thời gian 
(ngày) 
Độ dày lớp 
bùn ( cm) 
Thể tích 
bùn (m3/ha) 
Thể tích bùn 
bơm lên 
(m3/ha) 
Thể tích bùn 
khô hoàn 
toàn (m3/ha) 
% diện tích ao lắng 
bùn (sâu 3m) cần thiết 
so với diện tích ao nuôi 
60 6,91 623,90 670,99 258,54 2,2 
90 18,00 1.624,86 1.747,50 673,34 5,8 
120 29,10 2.625,82 2.824,02 1.088,14 9,4 
150 40,19 3.626,79 3.900,53 1.502,94 13,0 
180 51,28 4.627,75 4.977,04 1.917,74 16,6 
210 62,37 5.628,71 6.053,56 2.332,54 20,2 
240 73,46 6.629,67 7.130,07 2.747,34 23,8 
270 84,55 7.630,64 8.206,58 3.162,14 27,4 
Như vậy nếu ao nuôi có diện tích 1ha và thời 
gian nuôi là 6 tháng thì cần phải chuẩn bị ao trữ 
bùn có thể chứa từ 5.000m3 trở lên (nếu bơm 1 lần 
vào cuối vụ như ao I), cần 16,6% diện tích ao lắng 
bùn (sâu 3m) so với diện tích ao nuôi và diện tích 
ao trữ bùn có thể nhỏ hơn nếu bơm nhiều hơn 1 
lần/vụ. Nếu thời gian nuôi kéo dài trên 8 tháng và 
chỉ bơm 1 lần vào cuối vụ thì cần ao trữ bùn có thể 
chứa ít nhất là 7.000 m3, đồng thời cần ao lắng bùn 
(sâu 3m) có diện tích ít nhất là 23,8% với diện tích 
ao nuôi. Đây là điều người nuôi cần đặc biệt quan 
tâm để thiết kế ao nuôi và ao trữ bùn phù hợp đảm 
bảo không thải bùn ra sông, rạch. Các nhà quy 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần A: Khoa học Tự nhiên, Công nghệ và Môi trường: 35 (2014): 78-89 
 85 
hoạch cũng cần chú ý thông tin này để quy hoạch 
diện tích nuôi cá Tra trong tương lai. 
3.3 Thành phần lý hóa bùn đáy ao 
Ẩm độ bùn của bùn thu từ đáy ao là 58,56%, 
thấp hơn so với ẩm độ của bùn thu sau khi bơm lên 
từ đáy ao (62,98%) (Bảng 6). Ẩm độ bùn đáy của 4 
ao có sự khác biệt về ý nghĩa thống kê qua phép 
thử Kruskal-Wallis. Với nhóm ẩm độ bùn bơm lên 
giữa các ao không có sự khác biệt nhau về mặt 
thống kê qua phép thử Kruskal-Wallis. Ngoài sự 
khác nhau về ẩm độ, các chất hữu cơ có trong bùn 
đáy ao (3,95%) cũng cao hơn các chất hữu cơ bùn 
bơm lên (2,64%). Chất hữu cơ bùn đáy ở 4 ao cho 
thấy có sự khác biệt về mặt thống kê qua phép thử 
Kruskal-Wallis (Bảng 6). 
Bảng 6: Ẩm độ và chất hữu cơ bùn ở các ao. 
Chỉ tiêu Ao Trung bình I II III IV 
Ẩm độ bùn đáy ao (%) 61,08±0,42a 59,66±0,69a 57,01±0,59 b 58,53±1ab 58,56 
Ẩm độ bùn bơm lên (%) 64,21±1,41a 65,49±0,87a 59,24±2,37a 62,98 
CHC bùn đáy ao (%C) 3,64±0,06bc 3,94±0,09ab 3,49±0,12c 4,51±0,25a 3,95 
CHC bùn bơm lên (%C) 3,13±0,11a 2,29±0,11a 2,49±0,41a 2,64 
Trong cùng một hàng những nhóm có cùng chữ không khác biệt ý nghĩa thống kê qua phép thử Kruskal-Wallis và Mann-
Whitney (n=4-12). Trong đó ẩm độ là tỷ lệ % nước; CHC: chất hữu cơ (%C) 
Bùn đáy ao bơm lên bị ảnh hưởng rất nhiều yếu 
tố. Trong quá trình bơm bùn được hòa trộn với một 
lượng nước và sau khi bơm lên vườn cây ăn trái 
bùn tiếp tục bị ảnh hưởng bởi các nhân tố như: 
mưa, nhiệt độ, vi sinh vật đất, Do đó, thành phần 
dinh dưỡng của bùn đáy ao để khô tự nhiên và bùn 
sau khi bơm lên liếp có sự chênh lệch nhau rất lớn 
(Bảng 7). Bùn đáy để khô tự nhiên có hàm lượng 
chất hữu cơ trung bình là 3,88%C, cao hơn bùn sau 
khi bơm lên liếp (2,58%), trong khi đó kết quả 
nghiên cứu cũng phù hợp với nghiên cứu của 
Trương Quốc Phú và Trần Kim Tính (2012) thì 
CHC dao động từ 2,29-8,25%. Theo Lê Bảo Ngọc 
(2004), hàm lượng CHC trung bình trong bùn đáy 
ao cá tra nuôi ở Thốt Nốt (Cần Thơ) là 12,17%, có 
thể sự khác biệt về loại thức ăn và chế độ xử lý nền 
đáy ao đã dẫn đến kết quả khác biệt về hàm lượng 
CHC trong bùn giữa hai nghiên cứu. Trong nghiên 
cứu của Lê Bảo Ngọc (2004) thì cá được cho ăn 
bằng thức ăn tự chế (FCR≈2) và không sên hút bùn 
trong suốt quá trình nuôi nên CHC tích lũy trong 
bùn cao, trong khi đó cá tra nuôi ở Châu Thành 
(Đồng Tháp) được cho ăn bằng thức ăn công 
nghiệp (FCR≈1,5) và sên hút bùn đáy ao 2-3 lần 
trong một vụ nuôi nên ít tích lũy chất hữu cơ. 
Tương tự như chất hữu cơ, hàm lượng nitơ tổng 
trung bình trong bùn đáy để khô tự nhiên là 0,36% 
cao hơn hàm lượng nitơ có trong bùn đáy sau khi 
bơm lên liếp (0,23%) kết quả cũng phù hợp với 
nghiên cứu của Trương Quốc Phú và Trần Kim 
Tính (2012) hàm lượng Nts dao động trong khoảng 
0,13-0,38% với hàm lượng đạm này thì cao hơn 
trong đất (0,1-0,2%) (Hội Khoa học đất Việt Nam, 
2000) và hàm lượng Nts trong bùn bơm lên liếp 
thấp hơn hàm lượng đạm trong phân gia súc, phân 
bò chứa 0,341% N và phân lợn chứa 0,669% N (Lê 
Văn Căn, 1978). 
Bảng 7: Thành phần dinh dưỡng bùn đáy ao để khô tự nhiên và sau khi bơm lên liếp giữa các ao 
Chỉ tiêu Ao Trung bình I II III IV 
Ẩm độ bùn đáy khô (%) 13,83±0,10a 7,85±0,85a 7,34±1,65a 12,62±3,01a 9,60 
Ẩm độ bùn bơm khô (%) 14,13±0,35a 6,47±1,12b 4,90±0,48b 8,50 
CHC bùn đáy ao (%C) 3,58±0,08b 3,81±0,07b 3,63±0,21b 4,47±0,24a 3,88 
CHC bùn bơm lên (%C) 2,82±0,02a 2,22±0,16a 2,70±0,45a 2,58 
Nts bùn đáy ao (%) 0,37±0,01ab 0,34±0,01c 0,33±0,02bc 0,44±0,02a 0,36 
Nts bùn bơm lên (%) 0,23±0,01a 0,20±0,02a 0,25±0,04a 0,23 
Pts bùn đáy ao (%P2O5) 0,78±0,07a 0,68±0,03a 0,80±0,07a 0,91±0,06a 0,79 
Pts bùn bơm lên (%P2O5) 0,47±0,01a 0,31±0,06 a 0,45±0,10a 0,41 
Trong cùng một hàng những nhóm có cùng chữ không khác biệt ý nghĩa thống kê qua phép thử Kruskal-Wallis và Mann-
Whitney (n=3-9). Trong đó ẩm độ là tỷ lệ % nước; CHC: chất hữu cơ (%C) 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần A: Khoa học Tự nhiên, Công nghệ và Môi trường: 35 (2014): 78-89 
 86 
Giống với hai thành phần dinh dưỡng trên, hàm 
lượng lân tổng số trong bùn đáy ao để khô tự nhiên 
là 0,79% cũng cao hơn hàm lượng lân có trong bùn 
đáy ao sau khi bơm lên liếp (0,41%). Kết quả này 
cao hơn nghiên cứu của Trương Quốc Phú và Trần 
Kim Tính (2012) hàm lượng Pts trung bình trong 3 
ao nuôi là 0,29% (0,085-0,616%). Các ao nuôi 
càng lâu thì hàm lượng lân tích lũy trong bùn đáy 
ao càng cao do quá trình lắng tụ nên hàm lượng lân 
ở ao II và IV có hàm lượng Nts cao nhất lần lượt là 
0,80 và 0,91%. Kết quả nghiên cứu của Seo và 
Boyd (2001), hàm lượng Pts tổng trong bùn đáy ao 
nuôi cá da trơn Ictalurus punctatus tại Alabama, 
Hoa Kỳ có hàm lượng Pts dao động trong khoảng 
0,05-0,17%. Tuy nhiên, về mức độ thâm canh cũng 
như là quản lý khác nhau có thể dẫn đến tích lũy 
dinh dưỡng trong bùn sẽ khác nhau. 
Hàm lượng chất dinh dưỡng bùn bơm lên liếp 
như chất hữu cơ, đạm tổng, lân tổng ở từng chỉ tiêu 
giữa các ao khác nhau không có ý nghĩa thống kê 
(p>0,05). Ngược lại, chất hữu cơ, đạm tổng thu từ 
bùn đáy ao khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) 
(Bảng 7) khi so sánh giữa các ao. Trong đó, chất 
hữu cơ ao IV có hàm lượng cao nhất 4,47±0,24%C 
và khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) so với nhóm chất 
hữu cơ ao I, ao II và ao III. Đạm tổng số cao nhất ở 
ao IV (4,47±0,24%), ao II và ao III có đạm tổng số 
thấp nhất. Hàm lượng lân tổng số có trong bùn đáy 
ao giữa các ao khác biệt không có ý nghĩa thống kê 
(p>0,05) và trung bình khoảng 0,41% P2O5. 
3.4 Đặc điểm dinh dưỡng đất trước khi thí 
nghiệm trồng rau muống 
Dinh dưỡng bùn đáy ao phơi khô và đất tại địa 
phương sử dụng trồng rau muống có hàm lượng 
các chất khác nhau (Bảng 8). Chất hữu cơ của bùn 
đáy ao khoảng 2,45%±0,03 trong khi đó đất địa 
phương chỉ bằng 0,66 lượng chất hữu cơ của bùn 
đáy ao (1,62%±0,01). Ẩm độ của bùn đáy ao là 
12,63%, cao gấp 3,4 lần ẩm độ của đất địa phương. 
Nitơ tổng số (Nts) của bùn đáy ao là 0,21%, cao 
gấp 1,5 lần đất địa phương. Lân tổng của bùn đáy 
ao là 0,45% nhưng của đất địa phương chỉ 0,16%. 
N-NH4+ trong bùn đáy ao và đất địa phương không 
chênh lệch nhau nhiều, từ 17,7 (đất địa phương) 
đến 20,4 mg/kg (bùn đáy ao). Qua đó cho thấy, đất 
tại địa phương có hàm lượng các chất dinh dưỡng 
thấp hơn đất từ bùn đáy ao, ngoại trừ chỉ tiêu Kali 
dễ tiêu. 
Bảng 8: Các chỉ tiêu về hóa đất bùn đáy phơi 
khô và đất tại địa phương trước khi thí 
nghiệm 
Chỉ tiêu Đơn vị Đất bùn đáy phơi khô 
Đất tại địa 
phương 
CHC % C 2,45±0,03 1,62±0,01 
Ẩm độ % 12,63±0,12 3,75±0,10 
Nts %N 0,21±0,02 0,14±0,01 
Pts %P2O5 0,45±0,00 0,16±0,01 
N-NH4+ mg/kg 20,40±0,96 17,70±0,95 
N-NO3- mg/kg 95,60±2,62 0,73±0,19 
P bray mgP/kg 52,70±0,98 69,03±2,37 
K tdd meq/100g 0,22±0,01 0,25±0,02 
3.5 Sinh trưởng rau muống 
3.5.1 Chiều cao và tốc độ tăng trưởng về 
chiều cao cây 
Chiều cao cây tăng dần theo thời gian và đến 
lúc thu hoạch đợt I (28 ngày), chiều cao cây ở 
nghiệm thức ĐC, NPK, BĐA và BĐA+NPK lần 
lượt là 11,37; 16,71; 28,60 và 23,77cm, được chia 
làm 4 nhóm khác biệt có ý nghĩa thống kê rõ rệt và 
cao nhất là ở nghiệm thức BĐA (Hình 6). 
Tương tự, ở đợt II sau 56 ngày thu hoạch chiều 
cao cây được phân làm 3 nhóm khác biệt có ý 
nghĩa thống kê (p<0,05) và cao nhất ở nghiệm thức 
BĐA và BĐA+NPK lần lượt là 32,94-34,95 cm. 
Kết quả này ở nghiệm thức BĐA và BĐA+NPK 
cũng phù hợp với nghiên cứu của Lê Xuân Công et 
al. (2009) có chiều cao dao động từ 26,87-42,6 cm. 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần A: Khoa học Tự nhiên, Công nghệ và Môi trường: 35 (2014): 78-89 
 87 
Hình 6: Chiều cao cây giữa các nghiệm thức 
35*, 42*, 49*, 56* tương ứng với 7, 14, 21 và 28 ngày sau khi thu đợt 1. ĐC: Đối chứng; BĐA: bùn đáy ao phơi khô; 
NPK: N, P2O5, K2O; BĐA+NPK: bùn đáy ao phơi khô+N, P2O5, K2O. Trong cùng một hàng những số có cùng chữ 
không khác biệt ý nghĩa thống kê và ngược lại thì có sự khác biệt ở mức độ 5% qua phép thử Duncan 
3.5.2 Số lá và tốc độ ra lá 
Sau khi gieo số lá trung bình trên cây ở các 
nghiệm thức được phân làm 3 nhóm khác nhau có 
ý nghĩa thống kê (p<0,05) và số lá bình quân trên 
cây tăng dần theo thời gian trồng. Lúc thu hoạch 
đợt I (28 ngày sau khi gieo), số lá trung bình trên 
cây ở các nghiệm thức cũng được phân làm 3 
nhóm khác nhau có ý nghĩa thống kê (p<0,05); 
nghiệm thức ĐC và NPK là nhóm có số lá ít nhất, 
bình quân từ 7,2-7,73 lá/cây; nghiệm thức NPK và 
BĐA là nhóm trung gian có số lá bình quân từ 
7,73-8,2 lá/cây; nghiệm thức BĐA+NPK thuộc 
nhóm có số lá nhiều nhất (9,27 lá/cây) (Hình 7). 
Hình 7: Số lá trên cây giữa các nghiệm thức 
35*, 42*, 49*, 56* tương ứng với 7, 14, 21 và 28 ngày sau khi thu đợt 1. ĐC: Đối chứng; BĐA: bùn đáy ao phơi khô; 
NPK: N, P2O5 , K2O; BĐA+NPK: bùn đáy ao phơi khô +N, P2O5 , K2O. Trong cùng một hàng những số có cùng chữ 
không khác biệt về ý nghĩa thống kê và ngược lại chúng có sự khác biệt ở mức độ 5% qua phép thử Duncan 
Cũng tương tự, ở đợt II sau 56 ngày thu hoạch 
số lá bình quân trên cây được chia làm 2 nhóm 
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05); nhóm có số 
lá ít gồm ĐC, NPK, BĐA, số lá bình quân từ 9,07-
10,47 lá/cây; nhóm còn lại gồm NPK, BĐA và 
BĐA+NPK có số lá từ 10,07-11,53 lá/cây (Hình 7). 
Nhưng theo nghiên cứu của Lê Xuân Công et al, 
(2009) thì số lá trên cây (11-13 lá/cây) cao hơn so 
với nghiên cứu ngày, nguyên nhân có thể là do thời 
gian thu hoạch kéo dài hơn (31-36 ngày/đợt). 
3.5.3 Năng suất rau muống 
Năng suất rau muống ở các nghiệm thức khi thu 
hoạch đợt I chia làm 4 nhóm khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p<0,05). Thứ tự năng suất có thể sắp xếp 
như sau BĐA > BĐA+NPK > NPK > ĐC, tương 
ứng với năng suất 15,32±0,33 >12,51±0,98> 
6,69±1,15>3,58±0,74 tấn/ha (Hình 8). 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần A: Khoa học Tự nhiên, Công nghệ và Môi trường: 35 (2014): 78-89 
 88 
Hình 8: Năng suất rau muống đợt I, II 
ĐC: Đối chứng; BĐA: bùn đáy ao phơi khô; NPK: N, P2O5, K2O; BĐA+NPK: bùn đáy ao phơi khô+N, P2O5, K2O 
Các cột cùng màu, có cùng chữ không khác biệt nhau về ý nghĩa thống kê ở mức 5% qua phép thử Duncan 
Ở đợt II, năng suất ở các nghiệm thức chia làm 
2 nhóm khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 
Nhóm có năng suất thấp (2,78-10,6 tấn/ha) gồm 
ĐC và NPK; các nghiệm thức còn lại thuộc nhóm 
có năng suất cao (22,72-22,34 tấn/ha) (Hình 8). 
Qua đó cho thấy, năng suất ở đợt I thấp hơn đợt II. 
Sự khác biệt này một phần là do ở đợt II cây phát 
triển từ chồi của gốc nên mật độ cây cao hơn, số lá 
trên cây cũng nhiều hơn từ đó dẫn đến năng suất 
cao hơn nhiều so với đợt I. Theo nghiên cứu của 
Trần Thị Ba et al, (2009) khi sử dụng mức phân 30 
tấn phân hữu cơ vi sinh + NPK (50-40-20) để 
trồng rau muống thì năng suất đạt 11,63 tấn/ha, 
thấp hơn nhiều so với sử dụng BĐA để trồng 
(15,32 -22,72 tấn/ha). 
3.6 Ẩm độ và hàm lượng nitrate trong rau 
muống khi thu hoạch 
Hàm lượng nitrate trong rau muống giữa 
các nghiệm thức có sự chênh lệch rất lớn. Nitrate 
(NO3-) ở nghiệm thức BĐA+NPK là 143 mg/kg, 
BĐA là 125 mg/kg. Lượng nitrate trong rau của hai 
nghiệm thức này cao khoảng 10 lần so với nghiệm 
thức ĐC (13,7 mg/kg). Nguyên nhân là do trong 
đất bùn đáy ao sau khi để khô chất hữu cơ phân 
hủy hiếu khí đã dẫn đến hàm lượng Nitrate cao 
trong đất và được cây hấp thu. Nhưng tất cả các 
nghiệm thức hàm lượng nitrate trong rau đều thấp 
hơn ngưỡng an toàn cho phép của WHO (500 
mg/kg). Đồng thời kết quả cũng phù hợp với 
nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung (2013) khi sử 
dụng phân hữu cơ vi sinh (2.000 kg/ha) + NPK 
(50-40-20 kg/ha) thì hàm lượng Nitrate trong rau 
muống dao động từ 76,6-183 mg/kg. 
Ẩm độ trong rau của các nghiệm thức không 
chênh lệch nhau nhiều. Rau trồng trên đất bùn đáy 
ao có ẩm độ cao nhất (90,7%). 
Bảng 9: Hàm lượng NO3- (mg/kg) cả thân và lá 
Nghiệm 
thức 
Hàm lượng NO3- 
đợt I (mg/kg) 
Ẩm độ rau 
đợt I 
ĐC 13,7 87,70% 
NPK 22,9 87,90% 
BĐA 125 90,70% 
BĐA+NPK 143 88,60% 
ĐC: Đối chứng; BĐA: bùn đáy ao phơi khô; NPK: N, 
P2O5, K2O; BĐA+NPK: bùn đáy ao phơi khô+N, P2O5, 
K2O 
Khi trồng rau trên bùn đáy ao có bổ sung phân 
NPK thì ẩm độ là 88,6%. Rau trồng trên đất địa 
phương không bổ sung NPK và có bổ sung NPK có 
ẩm độ thấp hơn và lần lượt là 87,7% và 87,9% 
(Bảng 9). Kết quả này cũng phù hợp với nghiên 
cứu của Lê Xuân Công et al, (2009), khi cây 
phát triển tốt thì ẩm độ rau càng cao, tỷ lệ chất khô 
càng thấp. 
Từ kết quả trên cho thấy khi sử dụng bùn đáy 
ao trồng rau muống không nên bón thêm phân vì 
bón thêm phân sẽ làm thừa chất dinh dưỡng làm 
cây chậm phát triển và đồng thời làm tăng hàm 
lượng nitrate trong rau. 
4 KẾT LUẬN 
Độ dày lớp bùn trong đáy ao gia tăng theo thời 
gian nuôi. Sau 2 tháng nuôi lớp bùn dày khoảng 7 
cm và những tháng tiếp theo bùn đáy tích tụ tăng 
bình quân khoảng 10 cm/tháng. 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần A: Khoa học Tự nhiên, Công nghệ và Môi trường: 35 (2014): 78-89 
 89 
 Với phương pháp bơm bằng cách dùng 
máy lặn, thể tích bùn bơm lên sau 3 tháng nuôi 
ước đoán khoảng 1.624 m3/ha và những tháng 
tiếp theo tốc độ tăng thể tích bùn là khoảng 
1.000m3/ha/tháng. 
 Với hàm lượng dinh dưỡng cao của bùn đáy 
ao, bùn này có thể sử dụng để trồng rau muống cho 
năng suất 15,32±0,33 tấn/ha khi thu hoạch đợt I và 
22,72±1,78 tấn/ha khi thu hoạch đợt II mà không 
cần bón phân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Boyd C.E. 1998. Water quality for pond 
Aquaculture. Research and Development 
Series No.43 August 1998, International 
Center for Aquaculture and Aquatic 
Environments Alabama Agriculture 
Experiment station Auburn University. 37 pp. 
2. Hội Khoa học đất Việt Nam, 2000. Đất Việt 
Nam. NXB Nông Nghiệp Hà Nội. 
3. Huỳnh Trường Giang, Vũ Ngọc Út và 
Nguyễn Thanh Phương, 2008. Biến động 
các yếu tố môi trường trong ao nuôi cá tra 
(Pangasianodon Hypophthalmus) thâm canh 
ở an giang. Tạp chí Khoa học - Trường Đại 
học Cần Thơ 1: 1-9. 
4. Lê Bảo Ngọc, 2004. Đánh giá chất lượng 
môi trường ao nuôi cá Tra (Pangasius 
hypophthalmus) thâm canh ở xã Tân Lộc, 
huyện Thốt Nốt, Thành Phố Cần Thơ. Khoa 
Nông nghiệp và sinh học ứng dụng, Luận 
văn cao học, Đại học Cần Thơ. 
5. Lê Xuân Công et al, 2009. Hiệu quả của 
việc xử lý axít gibberellic (GA3) cho hạt 
trước khi gieo đến sinh trưởng và năng suất 
rau muống ở Thừa Thiên Huế, Tạp chí khoa 
học, Đại học Huế, Số 52, 2009. 
6. Nguyễn Thành Trung, 2013. Hiệu quả của 
phân hữu cơ - vi sinh lên ba loại rau ăn lá 
(rau muống, mồng tơi, cải xanh) trồ ngtrên 
đất phù sa tại huyện Trà Cú tỉnh Trà Vinh. 
Luận văn tốt nghiệp cao học ngành sinh thái 
học, Trường Đại học Cần Thơ. 
7. Tổng cục thủy sản, 2013. Hội nghị tổng kết 
sản xuất, tiêu thụ cá tra năm 2012 và triển 
khai nhiệm vụ năm 2013. (25/01/2013). 
8. Trần Thị Ba, et al, 2009. Hiệu quả phân hữu 
cơ sinh học lên năng suất rau muống tại Phụng 
Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Tạp chí Khoa học 
2009:11 335-344, Trường Đại học Cần Thơ. 
9. Trương Quốc Phú và Trần Kim Tính, 2012. 
Thành phần hóa học bùn đáy ao nuôi cá tra 
(Pangasianodon hypophthalmus) thâm 
canh. Tạp chí Khoa học 2012:22a 290-299, 
Trường Đại học Cần Thơ. 

File đính kèm:

  • pdfxac_dinh_so_luong_chat_luong_bun_day_ao_nuoi_ca_tra_pangasia.pdf
Ebook liên quan