Xác định tư cách thành viên công ty đối vốn theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014

Tóm tắt Xác định tư cách thành viên công ty đối vốn theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014: ...hiệp Việt Nam dường như có ý thể hiện theo quan điểm này nhưng không rõ ràng trong việc đặt ra giới hạn về thời hạn chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ của công ty trong thời hạn 60 ngày tiếp theo, kể từ khi hết thời hạn góp vốn “Các thành viên chưa góp vốn hoặc chưa góp đủ số vốn đã c... học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 29-36 33 là không hợp lý, không phù hợp với lẽ công bằng nếu bên nhận đã khai thác, sử dụng tài sản nhưng bên giao lại không được xác định các quyền đối ứng. Trường hợp xác lập tư cách thành viên thông qua phương thức mua lại phần vốn đã góp v...o vệ quyền tự do kinh doanh, tự do thỏa thuận giữa các bên, góp phần tạo động lực và sự bảo đảm cho người tham gia kinh doanh, ổn định xã hội và phát triển kinh tế. 3. Về căn cứ chứng minh tư cách thành viên công ty đối vốn Căn cứ chứng minh tư cách thành viên công ty đối vốn là cơ sở ...

pdf8 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 309 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Xác định tư cách thành viên công ty đối vốn theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ường như có ý thể 
hiện theo quan điểm này nhưng không rõ ràng 
trong việc đặt ra giới hạn về thời hạn chịu trách 
nhiệm đối với các nghĩa vụ của công ty trong 
thời hạn 60 ngày tiếp theo, kể từ khi hết thời 
hạn góp vốn “Các thành viên chưa góp vốn 
hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết phải chịu 
trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã 
cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công 
ty phát sinh trong thời gian trước ngày công ty 
đăng ký thay đổi vốn điều lệ và phần vốn góp 
của thành viên” (thời hạn để đăng ký điều chỉnh 
vốn điều lệ, tỷ lệ phần vốn góp là 60 ngày, kể từ 
ngày hết hạn góp vốn). Đối với người đăng ký 
góp vốn vào công ty cổ phần, quy định về thời 
hạn tính thêm này không phải áp dụng. Khoản 
4, điều 112, Luật doanh nghiệp quy định: 
“Thành viên chưa thanh toán hoặc chưa thanh 
toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua phải chịu 
trách nhiệm tương ứng với tổng giá trị mệnh giá 
cổ phần đã đăng ký mua đối với các nghĩa vụ tài 
chính của công ty phát sinh trong thời hạn 90 
ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận 
đăng ký doanh nghiệp”. Như vậy, trong thời 
hạn 90 ngày kể từ ngày công ty được thành lập, 
tư cách thành viên công ty đối vốn được xác lập 
dựa trên cam kết góp vốn, các quyền và nghĩa 
vụ được xác lập. Riêng đối với người đăng ký 
góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn 
(TNHH), sau thời hạn này, trong thời hạn 60 
ngày tiếp theo, người không góp vốn không còn 
tư cách thành viên nhưng vẫn phải chịu trách 
nhiệm về các nghĩa vụ tài chính của công ty. 
Nói cách khác, trong trường hợp đã đăng ký 
nhưng không góp vốn, tư cách thành viên công 
ty chỉ tồn tại trong 90 ngày. Trong thời gian 90 
ngày này, thành viên công ty TNHH có 150 
ngày phải thực hiện nghĩa vụ của công ty, còn 
T.T. Trung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 29-36 
32 
thành viên công ty cổ phần chỉ thực hiện nghĩa 
vụ đối với công ty trong 90 ngày, đúng với thời 
gian giữ tư cách thành viên. Trên cơ sở tương 
ứng giữa các quyền và nghĩa vụ, và nguyên tắc 
bình đẳng, đây có thể là một quy định còn gây 
nhiều tranh luận. 
Với quan niệm công ty đối vốn được thành 
lập dựa trên một thỏa thuận kinh doanh của các 
chủ sở hữu, chúng tôi thiên về quan điểm cho 
rằng, căn cứ vào hồ sơ khi thành lập công ty, tư 
cách thành viên được xác lập chỉ nên căn cứ 
vào cam kết góp vốn của thành viên, phần vốn 
chưa góp được coi là khoản nợ của thành viên 
với công ty. Việc chấm dứt các quyền và nghĩa 
vụ của thành viên trong trường hợp này phụ 
thuộc vào ý chí của thành viên đó với sự thỏa 
thuận với các thành viên còn lại và được thể 
hiện bởi một quyết định hợp pháp của công ty. 
Trong giai đoạn hoạt động của công ty, thời 
điểm xác lập tư cách thành viên được xác định 
dựa trên những giao dịch, hành vi cụ thể. 
Trường hợp thành viên là người đã chuyển 
quyền sở hữu tài sản của mình thành tài sản của 
công ty để trở thành đồng chủ sở hữu công ty 
vào thời điểm thành lập, thời điểm giao nhận 
quyền sở hữu tài giữa các bên đồng thời là thời 
điểm các nhận tư cách thành viên, thông qua 
biên bản bàn giao, giao nhận. Hiện tại, việc xác 
lập thời điểm giao nhận tài sản đang được xác 
định theo hai hình thức, chuyển giao thực tế và 
chuyển giao pháp lý. 
Quy định của Luật Doanh nghiệp về chuyển 
giao tài sản giữa thành viên công ty và công ty 
hiện đang quy định theo xu hướng thiên về hình 
thức pháp lý, chưa thực sự chú trọng đến hành 
vi chuyển giao thực tế. Ngoài những quy định 
về thủ tục pháp lý trong quá trình chuyển giao 
đối với những tài sản phải đăng ký quyền sở 
hữu, pháp luật hiện hành cũng có quy định chi 
tiết về hình thức văn bản ghi nhận hoạt động 
chuyển giao. Cụ thể: “Đối với tài sản không 
đăng ký quyền sở hữu, việc góp vốn phải được 
thực hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn 
có xác nhận bằng biên bản. Biên bản giao nhận 
phải ghi rõ tên và địa chỉ trụ sở chính của công 
ty; họ, tên, địa chỉ thường trú, số Thẻ căn cước 
công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu 
hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, số 
quyết định thành lập hoặc đăng ký của người 
góp vốn; loại tài sản và số đơn vị tài sản góp 
vốn; tổng giá trị tài sản góp vốn và tỷ lệ của 
tổng giá trị tài sản đó trong vốn điều lệ của 
công ty; ngày giao nhận; chữ ký của người góp 
vốn hoặc đại diện theo ủy quyền của người góp 
vốn và người đại diện theo pháp luật của công 
ty”. Giá trị pháp lý của những biên bản không có 
đầy đủ những nội dung này liệu có được chấp 
nhận hay không cũng chưa được minh định. 
Trên thực tế, việc chuyển giao tài sản góp 
vốn được thực hiện và ghi nhận theo đa dạng 
hình thức, có thể là biên bản giao nhận, giấy 
xác nhận, ghi chép trong sổ kế toán, khớp lệnh 
trên thị trường chứng khoán, mua bán trao tay, 
v.v. Vấn đề đặt ra là thời điểm chuyển giao 
cần được xác định bởi hành vi chuyển giao thực 
tế thay vì xác định sau khi hoàn tất các thủ tục 
pháp lý, thủ tục hành chính. Nội dung này chưa 
có quy định cụ thể đối với những tài sản không 
phải đăng ký quyền sở hữu. Ngay cả đối với 
những tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, 
trường hợp công ty đã chiếm giữ và sử dụng tài 
sản trong một thời gian nhưng chưa đăng ký 
quyền sở hữu, lúc này tư cách thành viên được 
hiểu là chưa được xác định. Điều này dẫn đến ý 
kiến cho rằng điều luật chưa hướng tới việc 
đảm bảo cho sự công bằng. 
 Theo chúng tôi, việc chuyển giao nên được 
xác định kể từ thời điểm bên nhận đã có quyền 
chiếm giữ hoặc sử dụng, định đoạt đối với tài 
sản. Ngay cả trường hợp đối với chuyển giao tài 
sản cần đăng ký quyền sở hữu, trong thời gian 
thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu, sẽ 
T.T. Trung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 29-36 33 
là không hợp lý, không phù hợp với lẽ công 
bằng nếu bên nhận đã khai thác, sử dụng tài 
sản nhưng bên giao lại không được xác định các 
quyền đối ứng. 
Trường hợp xác lập tư cách thành viên 
thông qua phương thức mua lại phần vốn đã 
góp vào công ty của thành viên công ty. Trong 
trường hợp này, việc mua bán phần vốn góp về 
bản chất là một giao dịch thương mại. Hợp 
đồng mua bán phần vốn góp giữa người bán và 
người mua là thỏa thuận về các quyền và nghĩa 
vụ của các bên về đối tượng, giá cả và phương 
thức giao nhận. Bản chất pháp lý của hợp đồng 
được xác định dựa trên các đặc điểm của quan 
hệ mua bán doanh nghiệp (chủ thể, đối tượng, 
mục đích của quan hệ). Quan hệ mua bán phần 
vốn góp về thực chất là một loại hoạt động 
thương mại, nhằm hoặc để thực hiện mục tiêu 
kinh doanh. Đối tượng của hợp đồng là quyền 
sở hữu phần vốn góp, bản chất là chuyển đổi 
chủ sở hữu phần vốn góp vì mục đích lợi 
nhuận. Là một loại giao dịch trong lĩnh vực 
kinh doanh thương mại, hợp đồng mua bán 
phần vốn góp trước hết phải thực hiện dựa trên 
những nguyên tắc giao kết hợp đồng nói chung 
và giao dịch thương mại nói riêng. 
Pháp luật về hợp đồng của nước ta hiện nay 
chưa có quy định cụ thể về hình thức đối với 
loại hợp đồng này, điều đó dẫn đến hệ quả là 
tuy hoạt động mua bán vẫn diễn ra khá phổ biến 
nhưng khi có tranh chấp xảy ra, việc vận dụng 
pháp luật để giải quyết còn nhiều lúng túng và 
không thống nhất. Theo quy định của Luật 
doanh nghiệp năm 2014, trong quan hệ mua bán 
phần vốn góp, thời điểm xác lập tư cách thành 
viên của người mua được xác định khi các 
thông tin của họ được ghi đầy đủ vào sổ đăng 
ký cổ đông hoặc sổ đăng ký thành viên [2]. 
Trên cơ sở những nguyên tắc về điều kiện có 
hiệu lực của hợp đồng, hợp đồng mua bán phần 
vốn đã góp vào công ty giữa các bên có hiệu 
lực khi được giao kết hợp pháp. Vấn đề xác 
định thời điểm xác lập tư cách thành viên công 
ty của người mua cần căn cứ vào thời điểm có 
hiệu lực của hợp đồng hoặc thời điểm hoàn 
thành việc thực hiện hợp đồng kèm theo những 
điều kiện về thủ tục hành chính như quy định 
của pháp luật hiện hành là vấn đề cần được tiếp 
tục nghiên cứu. Liên hệ đến trường hợp người 
bán (đang là thành viên công ty, thậm chí là 
người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, có thể tác 
động đến việc ghi chép sổ đăng ký thành viên, 
sổ đăng ký cổ đông) đã bán phần vốn góp cho 
một người khác, đã nhận thanh toán nhưng tiếp 
tục được hưởng những quyền lợi từ công ty trên 
phần vốn đã bán cho người khác còn người đã 
mua không được hưởng quyền lợi gì từ công ty 
chỉ vì lý do thông tin người mua chưa được ghi 
đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông hoặc sổ đăng ký 
thành viên thật sự là không công bằng. 
Tôn trọng các nguyên tắc về giao kết và 
thực hiện hợp đồng, sẽ là hợp lý hơn nếu người 
mua quyền sở hữu phần vốn đã góp vào công ty 
trở thành thành viên công ty khi hợp đồng mua 
bán được thực hiện hoặc có hiệu lực theo thỏa 
thuận của các bên và bên mua đã có thông báo 
hoặc yêu cầu công ty ghi tên họ vào sổ đăng ký 
cổ đông, sổ đăng ký thành viên. Bởi lẽ, sau khi 
hợp đồng mua bán phần vốn góp được thực 
hiện, đồng nghĩa với việc công ty đã sử dụng tài 
sản của người mua phần vốn góp. 
Trường hợp xác lập tư cách thành viên 
thông qua tặng, cho, nhận thừa kế đối với phần 
vốn đã góp vào công ty của thành viên hoặc trả 
nợ bằng phần vốn góp của thành viên. Trong 
những trường hợp này, trên cơ sở tự nguyện và 
không trái với những giá trị văn hóa, đạo đức xã 
hội, trật tự công cộng, điều kiện trở thành thành 
viên công ty của những chủ thể trong các mối 
quan hệ dân sự nói trên phụ thuộc vào ý chí của 
các bên. Theo nguyên tắc về tự do khế ước đã 
được thừa nhận phổ biến trong xã hội và ghi 
T.T. Trung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 29-36 
34 
nhận trong hệ thống pháp luật, đối với công ty 
đối vốn điển hình, thời điểm xác định tư cách 
thành viên của người được tặng, cho, được nhận 
thừa kế hoặc được trả nợ bằng phần vốn góp được 
xác định khi các quan hệ tặng, cho, thừa kế, trả nợ 
được xác lập và thực hiện bởi các bên. 
 Pháp luật hiện hành có quy định những 
ràng buộc về điều kiện trở thành thành viên của 
những đối tượng được tặng, cho, được nhận 
thừa kế hoặc được trả nợ bằng phần vốn góp. 
Theo đó, người thừa kế theo di chúc hoặc theo 
pháp luật của thành viên đương nhiên trở thành 
thành viên công ty đối với cả 2 loại hình công 
ty đối vốn. Trong công ty đối vốn điển hình, 
người được tặng cho, được trả nợ bằng phần 
vốn góp sẽ trở thành thành viên công ty. Trong 
công ty đối vốn không điển hình, người được 
tặng cho, được trả nợ bằng phần vốn góp chỉ trở 
thành thành viên công ty khi được các thành 
viên còn lại chấp thuận. Tương tự như trong 
quan hệ mua bán phần vốn góp, thời điểm xác 
định tư cách thành viên là thời điểm thông tin 
về những người này được ghi nhận trong sổ 
đăng ký cổ đông hoặc sổ đăng ký thành viên. 
Có thể thấy, Luật Doanh nghiệp năm 2014 
đã có cố gắng trong việc xây dựng những tiêu 
chí về thời điểm xác lập tư cách thành viên 
công ty, tạo sự dễ dàng cho việc áp dụng pháp 
luật. Tuy nhiên, trong những điều kiện cụ thể và 
những quan hệ cụ thể, vấn đề đương nhiên hay 
không đương nhiên trở thành thành viên công ty 
và thời điểm xác định tư cách thành viên công 
ty còn cần tiếp tục được nghiên cứu và ghi nhận 
trong hệ thống pháp luật, một mặt nhằm tạo 
điều kiện cho công tác quản lý nhưng quan 
trọng hơn cả là phải nhằm đảm bảo cho sự công 
bằng, phản ánh đúng những nguyên tắc đã được 
xác lập trong kinh doanh, thương mại, khuyến 
khích và bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tự do 
thỏa thuận giữa các bên, góp phần tạo động lực 
và sự bảo đảm cho người tham gia kinh doanh, 
ổn định xã hội và phát triển kinh tế. 
3. Về căn cứ chứng minh tư cách thành viên 
công ty đối vốn 
Căn cứ chứng minh tư cách thành viên công 
ty đối vốn là cơ sở để xác định và thừa nhận tư 
cách thành viên. Trên phương diện pháp lý, đó 
là những những tài liệu, chứng cứ thể hiện 
quyền sở hữu phần vốn góp trong công ty của 
thành viên. Những tài liệu, chứng cứ đó chủ yếu 
được hình thành trong quá trình thực hiện hoạt 
động đầu tư của thành viên công ty, ngoại trừ 
một số trường hợp cụ thể được xác lập thông 
qua giao dịch dân sự như quan hệ thừa kế, tặng 
cho, trả nợ bằng phần vốn góp. 
Sự ghi nhận những căn cứ, tài liệu chứng 
minh tư cách thành viên trong hệ thống pháp 
luật về doanh nghiệp của chúng ta hiện nay 
dường như đang có thiên hướng xem trọng 
những dấu hiệu của thủ tục hành chính mà ít 
chú ý đến dấu hiệu thể hiện bản chất của hành 
vi. Trong hệ thống pháp luật hiện hành, và 
trong thực tiễn hoạt động tư pháp, các căn cứ 
chứng minh tư cách thành viên thường được sử 
dụng như: Giấy chứng nhận phần vốn góp, cổ 
phiếu, sổ đăng ký cổ đông, sổ đăng ký thành 
viên. Trong số các tài liệu đó, sổ đăng ký cổ 
đông, sổ đăng ký thành viên được xác định là 
tài liệu chính thức. Việc thiếu vắng nhiều quy 
định ghi nhận căn cứ chứng minh tư cách thành 
viên công ty đã gây khó khăn cho công tác thực 
tiễn. Theo tổng kết trong ngành tòa án “câu hỏi 
đặt ra nhưng chưa thể tìm được câu trả lời 
thuyết phục từ quy định của pháp luật hiện hành 
đó là: tư cách thành viên công ty phát sinh khi 
nào?” và “việc xét xử phải mất khá nhiều thời 
gian, công sức để xác định tư cách thành viên 
của công ty” [6]. Nhiều vướng mắc trong thực 
tiễn đã đặt ra từ lâu và mong muốn được giải 
quyết trong Luật doanh nghiệp. Tuy nhiên, Luật 
Doanh nghiệp năm 2014 ngoài việc có thêm 
quy định về việc xác định tư cách thành viên 
công ty trách nhiệm hữu hạn sau khi các thông 
T.T. Trung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 29-36 35 
tin về thành viên được ghi đầy đủ trong sổ đăng 
ký thành viên vẫn chưa có quy định về các loại 
tài liệu và giá trị pháp lý của những tài liệu có 
thể chứng minh tư cách thành viên công ty. 
Trước hết, với tư cách là nhà đầu tư, hành 
vi góp vốn vào công ty của thành viên được 
xem là hành vi thương mại được thể hiện thông 
qua hợp đồng. Trong giai đoạn thành lập, đó là 
thỏa thuận về việc góp vốn và cam kết góp vốn 
của thành viên. Trong quá trình tồn tại và hoạt 
động của công ty, đó là thỏa thuận về việc 
chuyển nhượng, mua bán phần vốn. Với cách 
tiếp cận này, căn cứ chứng minh tư cách thành 
viên công ty cần được xác định trên cơ sở lý 
thuyết về hành vi và hiệu lực của hợp đồng. 
Theo đó, dấu hiệu để nhận biết và xác lập tư 
cách thành viên được xác định dựa trên hành 
động hoặc không hành động của nhà đầu tư. Đó 
có thể là bất kỳ một loại tài liệu, chứng cứ nào 
thể hiện rằng hành vi xác lập quyền sở hữu 
phần vốn góp đã được thực hiện như giấy xác 
nhận, hợp đồng, biên bản họp, phiếu thu, giấy 
nộp tiền, ghi chép trong sổ kế toán, thư xác 
nhận, cổ phiếu, nhân chứng, v.v Việc các bên 
đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của 
quan hệ mua bán phần vốn góp là một giao dịch 
hợp pháp, đủ để chứng minh tư cách thành viên. 
Thủ tục ghi tên vào sổ đăng ký thành viên hoặc 
sổ đăng ký cổ đông chỉ là thủ tục hành chính 
thông thường do công ty hoàn toàn chủ động 
trong việc tạo lập và ghi chép nhưng lại được 
xem là căn cứ chính thức để chứng minh tư 
cách thành viên có phần chưa thực sự khách 
quan. Quy định quá xem trọng thủ tục hành 
chính thông qua việc ghi chép vào sổ đăng ký 
thành viên hoặc sổ đăng ký cổ đông để xác định 
tư cách thành viên trong một số trường hợp tuy 
tạo thuận lợi cho cơ quan áp dụng pháp luật 
nhưng lại không tạo cơ chế bảo vệ cho sự phát 
triển và thực hiện các giao dịch hợp pháp trong 
quan hệ dân sự nói chung và quan hệ kinh 
doanh thương mại nói riêng. 
Tương tự như thế trong vấn đề xác lập tư 
cách thành viên thông qua các quan hệ dân sự, 
dấu hiệu có thể chứng minh tư cách thành viên 
công ty là những tài liệu chứng cứ được hình 
thành và ghi nhận thông qua những sự kiện 
pháp lý cụ thể. Tương ứng với quan hệ thừa kế, 
đó có thể bao gồm di chúc, thỏa thuận phân 
chia di sản hoặc bản án chia thừa kế của tòa án. 
Tương ứng với quan hệ tặng, cho, đó có thể là 
hợp đồng, là giấy xác nhận, là lời xác nhận của 
nhân chứng. Tương ứng với quan hệ trả nợ, đó 
có thể là biên bản giao nhận, giấy xác nhận trả 
nợ bằng phần vốn góp, thỏa thuận tất toán công 
nợ, nhân chứng, v.v 
Có thể thấy, dấu hiệu chứng minh việc sở 
hữu phần vốn góp trong công ty rất đa dạng và 
phong phú. Việc phản ánh và ghi nhận những 
dấu hiệu chứng minh tư cách thành viên công ty 
trong hệ thống pháp luật là vấn đề hết sức có ý 
nghĩa cả trên phương diện lý luận và thực tiễn 
pháp luật. Nó vừa phản ánh trình độ pháp luật, 
thể hiện tư tưởng tự do trong giao lưu kinh tế 
thương mại, vừa tạo cơ sở cho thành viên công 
ty tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, tạo 
thuận lợi cho cơ quan có thẩm quyền trong quá 
trình thụ lý và giải quyết vụ việc khi có tranh 
chấp xảy ra. 
Ngoài việc tôn trọng những dấu hiệu thực tế 
thể hiện bản chất của hành vi xác lập quyền sở 
hữu phần vốn góp, vấn đề xác định tư cách 
thành viên còn cần được thiết lập cùng với 
nghĩa vụ thông báo. Trong hầu hết trường hợp, 
các giao dịch liên quan đến việc dịch chuyển 
quyền sở hữu phần vốn góp ngoài bản chất là 
giao dịch giữa các bên, công ty sở hữu phần 
vốn góp được giao dịch là chủ thể quan trọng 
luôn tồn tại với tư cách người quản lý quyền sở 
hữu phần vốn góp được giao dịch, người có các 
quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Cần xác lập một 
cơ chế để các bên trong quan hệ làm thay đổi 
phần vốn góp có quyền và nghĩa vụ thông báo 
cho công ty về các giao dịch của mình có liên 
T.T. Trung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 29-36 
36 
quan đến phần vốn góp, làm phát sinh, thay đổi 
chấm dứt tư cách thành viên công ty. Thời điểm 
hình thành tư cách thành viên được xác định khi 
các bên trong quan hệ chuyển quyền sở hữu 
phần vốn đã có thông báo chính thức tới công 
ty, không phụ thuộc vào việc công ty đã ghi 
chép thông tin về người nhận chuyển quyền 
trong sổ đăng ký cổ đông, sổ đăng ký thành 
viên hay chưa. 
Kết luận 
Bản chất của xác nhận tư cách thành viên 
công ty đối vốn là xác lập quyền sở hữu phần 
vốn, đây là vấn đề có liên quan trực tiếp đến 
nhà đầu tư và vấn đề sở hữu công ty. Với quan 
niệm không ai hiểu rõ hơn chủ sở hữu về quá 
trình tạo lập quyền sở hữu của chính họ, vấn đề 
cần thiết đặt ra cho hệ thống pháp luật là sự ghi 
nhận những loại tài liệu được hình thành một 
cách hợp pháp và giá trị pháp lý của chúng, 
đảm bảo cho việc xác định tư cách thành viên 
công ty được thực hiện một cách dễ dàng và 
thuận lợi. Trước mắt, cần sớm ban hành quy 
định hướng dẫn rõ ràng về các căn cứ, tài liệu 
chứng nhận tư cách thành viên làm cơ sở pháp 
lý để giúp khẳng định tính hợp pháp về quyền 
sở hữu phần vốn góp của thành viên, xác lập tư 
cách thành viên. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà 
Nẵng (2003). 
[2] Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật Doanh 
nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014. 
[3] Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Bộ luật Tố 
tụng Dân sự số 24/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 
năm 2004. 
[4] Toà án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 
03/2012/NQ-HĐTP, ngày 03 tháng 12 năm 2012. 
[5] Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật Đầu tư 
số 67/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014. 
[6] Toà án nhân dân tối cao, Xác định tư cách thành 
viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên 
trở lên, góc nhìn từ thực tiễn xét xử của tòa án, 
 đăng nhập ngày 
31/11/2014). 
Determining the Membership of Contributed Capital 
Company in Accordance with Enterprise Law 2014 
Trần Trí Trung 
VNU School of Law, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam 
Abstract: Determining the membership or share holder’s right of contributed capital company 
(generally referred to as members) is a legally significant and practical issue. Based on analyzing 
provisions of the Enterprise Law 2014, this paper will point out shortcomings in legal system on the time 
and proofs to prove the company’s membership as well as suggest orientation and solution to fix them. 
Keywords: Company’s membership. 

File đính kèm:

  • pdfxac_dinh_tu_cach_thanh_vien_cong_ty_doi_von_theo_quy_dinh_cu.pdf