Xây dựng hệ thuật ngữ thông tin thư viện, góp phần hoàn thiện ngôn ngữ khoa học Tiếng Việt
Tóm tắt Xây dựng hệ thuật ngữ thông tin thư viện, góp phần hoàn thiện ngôn ngữ khoa học Tiếng Việt: ...ue de Paris ra mỗi năm 2 số thì số thứ 2 luôn dảnh điểm lại các công trình ngôn ngữ học trên thế giới mà Toà soạn tiếp cận được), annotation (trong các bulletin signalétique),... ; tiếng Anh có: summary, abstract, book review,(tạp chí Vietnam Social Science luôn có mục Book review); ...oa học xã hội: 1) hiện tượng đồng nghĩa, hiện tượng đồng âm, hiện tượng đa nghĩa của các thuật ngữ; 2) có những yếu tố đánh giá trong chữ nghĩa và cấu trúc hình thức của các thuật ngữ; 3) có khá nhiều thuật ngữ tưởng chừng có căn cứ. Trong khoa học, dù là trình bày luận điểm của bản ... mượn, ngoại lai như catalô (<= catalogue ; cf : mục lục), phích (<= fiche; cf : phiếu), mơ nu (<= menu; cf : thực đơn),vi rút (virus), v.v... Với quan niện rằng khoa học là tài sản chung của loài người chứ không phải của bất cứ dân tộc nào hay của những đấng cao siêu nào th...
những vấn đề này, bởi vì nó có thể sử dụng các từ hàng ngày rồi gán cho chúng các nghĩa hàm chỉ và các định nghĩa chuyên ngành, những nghĩa này đôi khi lại khác nhau giữa các ngành học. Đó là chưa kể do khoa học phát triển, ngôn ngữ được dùng để truyền đạt thông tin chuyên ngành cũng luôn được bổ sung và có khi thay đổi. Tuy phải đối mặt với các vấn đề tài chính và phải lựa chọn tài liệu bổ sung nhưng các thư viện truyền thống vẫn tiếp tục giữ vai trò là nguồn cung cấp thông tin rất phong phú cho nghiên cứu. Có điều là tài nguyên thông tin cần BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 7 bổ sung không còn chỉ là ấn phẩm trên giấy như trước. Không gian sử dụng để công bố nay đã thay đổi. Tác phẩm xuất bản cá nhân trên mạng cũng dần dần được thừa nhận; danh mục điện tử có vai trò như phiếu đục lỗ trước đây. Vì thế, thư viện có thể không có tài liệu nguồn (không phải lưu trữ). Cơ sở dữ liệu thường xuyên được lưu trong thư viện dưới dạng tập hợp đĩa CD-ROM được xem là một trong những nguồn tài liệu điện tử. Với các cách bảo quản hiện đại, ngân hàng dữ liệu chia sẻ các tập hợp dữ liệu có thể cho phép người đọc truy cập thẳng đến ấn bản điện tử. Mỗi ngành khoa học cho ta hiểu biết bản chất các sự vật hiện tượng vốn tồn tại trong thực tế khách quan dưới dạng những hệ thống có quan hệ chịu những tác động có quy luật nhất định. Do vậy trong ngôn ngữ nào cũng vậy, việc xây dựng thuật ngữ khoa học đều cố gắng muốn phản ánh tính hệ thống về ngữ nghĩa giữa chúng, vì đó là (hoặc phản ánh) tính hệ thống của sự vật, hiện tượng, đối tượng của khoa học. Do đó, người ta nói đến các hệ thuật ngữ. Khi nói đến tính hệ thống của thuật ngữ, ta buộc phải lưu ý đến sự tương ứng giữa những hệ thống khái niệm khác nhau, dùng những hệ thống ký hiệu, thuật ngữ khác nhau. Sự tồn tại của những hệ thuật ngữ cho từng ngành khoa học, cho từng dòng nghiên cứu và cho từng tác giả là một hiện tượng khách quan. Phần nào nó đảm bảo cho văn bản khoa học thêm chính xác. Đặc biệt là hệ thuật ngữ cũng thể hiện cách nhìn độc đáo của ngành học, của dòng suy nghĩ riêng biệt. Khi xây dựng hay chuyển dịch một văn bản khoa học từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác cần triệt để khai thác tính hệ thống về ngữ nghĩa của kiểu tạo từ. Do vây, cách tạo thuật ngữ là một việc làm hoàn toàn có ý thức: trong khi bảo đảm tính chính xác của các hình vị hợp thành, kiểu cấu tạo thuật ngữ phải phù hợp với vị trí, quan hệ các khái niệm mà chúng biểu thị trong tương quan với các khái niệm khác. Ví dụ, trong công tác phân loại có: ấn định chỉ số phân loại, chọn số phân loại, thiết lập số phân loại, môn loại, Ngôn ngữ học chỉ ra các dấu hiệu đặc thù sau đây của hệ thuật ngữ khoa học xã hội: 1) hiện tượng đồng nghĩa, hiện tượng đồng âm, hiện tượng đa nghĩa của các thuật ngữ; 2) có những yếu tố đánh giá trong chữ nghĩa và cấu trúc hình thức của các thuật ngữ; 3) có khá nhiều thuật ngữ tưởng chừng có căn cứ. Trong khoa học, dù là trình bày luận điểm của bản thân hay phản ánh quan điểm của người khác, trước hết phải xác định cho tốt thuật ngữ định sử dụng. Nếu thấy cần thiết, tác giả hoặc dịch giả cần chỉ rõ ý nghĩa của từng thuật ngữ cần sử dụng và trong trường hợp có thể, cũng chỉ ra tương ứng giữa chúng với các thuật ngữ đã dùng (ở các tác giả khác hay trong nguyên ngữ) thuận tiện cho việc tra cứu khi cần. Cũng chính do sự phát triển nên cho đến nay, tên gọi của ngành thư viện học (tiếng Pháp: bibliothéconomie; tiếng Anh: library science) cần được bổ sung nhưng nay vẫn còn chưa thống nhất là khoa học thông tin - thư viện hay theo thứ tự ngược lại4, hoặc là Thông tin - thư viện học, tức là khoa 4 Một trong những cuốn sách mới xuất bản gần đây có tựa đề : Tra cứu thông tin trong hoạt động thư viện thông tin / Trần Thị Bích Hằng, Cao Minh Kiểm: H., ĐHVH, 2004, 312tr. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 8 học thư viện và thông tin, tương ứng với library and information science trong tiếng Anh và science de la bibliothèque et de l’information trong tiếng Pháp. Tuy có quan hệ mật thiết với nhau, thông tin học được hiểu là khoa học về thông tin (và thư viện), có khi được phân biệt với tin học, tương ứng với informatics, thuộc lý thuyết về thông tin, phục vụ thuần tuý cho công nghệ thông tin,... Tương tự như vậy, tuy nay giới chuyên môn có thể khai thác từ Mạng Thông tin - Thư viện Việt Nam, nhưng tên các cơ quan hay bộ phận trước đây quen gọi là thư viện thì nay, do được hiện đại hoá và nhất là đã vượt xa khuôn khổ hoạt động của một thư viện truyền thống, người ta ghép nó với tư liệu và/hoặc thông tin như : Trung tâm Thông tin, Tư liệu Khoa học Công nghệ Quốc gia, về sau vắn tắt hơn thành Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (trong đó có Thư viện Khoa học Kỹ thuật trước đây) Thậm chí chỉ gọi là Trung tâm thông tin như: Trung tâm Thông tin Thanh niên Việt Nam. Lại có trường hợp tuy gọi là Viện Thông tinnhưng trong đó có thư viện, mà không phải nhà nghiên cứu nào cũng biết, chẳng hạn, trong Viện Thông tin KHXH có Thư viện KHXH. Không hẳn do công việc khác nhau về cơ bản, ở Viện KHXH Việt Nam (theo Danh bạ điện thoại. Hà Nội, 4-2006), tên Phòng Thư viện được dùng ở phần lớn các Viện NC chuyên ngành/vùng, mà Trưởng phòng là người quản lý. Riêng ở Viện Kinh tế Việt Nam, người quản lý Phòng Thư viện được gọi là Giám đốc. Tên Phòng Tư liệu - Thư viện được dùng ở Viện Văn học và Viện Khảo cổ học là những đơn vị có truyền thống hơn nửa thế kỷ. Tên Phòng Thông tin – Tư liệu - Thư viện được dùng ở Viện Xã hội học, Viện Tâm lý học và Tạp chí KHXH Việt Nam. Tên Phòng Thông tin – Thư viện được dùng ở Viện NC Châu Phi và Trung Đông là một trong những đơn vị mới được thành lập gần đây. Cf. Phòng Thông tin – Thư viện (Viện Hải dương học, Nha Trang) Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ là Agence intergouvernementale de la Francophonie, nay là Organisation intergouvernementale de la Francophonie (OIF) có Centre international francophone de Documentation et d'information (Cifdi), Bộ Ngoại giao Pháp có Centres de Ressources et Documents, ở Nga có Otdelenije Bibliotekovedeniia có tên tiếng Anh là Library Science Department (thuộc International Informatization`Academy) Thư viện đại học cũng không tránh khỏi ảnh hưởng này : nơi vẫn giữ tên Thư viện (Đại học Khoa học Tự nhiên TP Hồ Chí Minh), nơi đổi thành Trung tâm Thông tin -Thư viện (Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học KHXH & NV, Đại học QG TP HCM) ; hai chữ Thư viện được hiểu có trong Trung tâm Thông tin - Học liệu = Learning and Information Resource Centers (Đà Nẵng) mà trước đây đây gọi là Trung tâm Thông tin - Tư liệu, có tên tiếng Pháp là Cenre de l’Information et de la Documentation. Có nơi còn gọi hẳn thành Trung tâm Học liệu = Learning Resource Center (ĐH Thái Nguyên, Cần Thơ) Các cơ sở đào tạo cũng « trăm hoa đua nở » khi tìm một tên gọi chính thức thích hợp: nơi thì gọi là Khoa Thư viện – Thông tin, nơi đặt theo thứ tự ngược lại: Khoa Thư viện, Trường Cao đẳng Văn hóa (TP HCM). Khoa Thư viện Thông tin Trường Cao đẳng Sư phạm, nay là Đại học Sài Gòn (TP BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 9 HCM). Khoa Thư viện -Thông tin học, ở các Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học KHXH & NV, Đại học QG TP HCM Trong khi đó, ta gặp Library and Information Science College (ở Mỹ, Thuỵ Điển, ...), Division of Information Services (ở Griffith University, Australia), École de bibliothéconomie et des sciences de l’information ((EBSI) :trong Université de Montréal, Canada), École de bibliothécomie et de sciences de l'information en Europe, École de bibliothéconomie, archivistique et documentation à l’Institut Supérieur de Documentation (Université de Tunis),... Trong lập luận khoa học cũng như truyền đạt thông tin khoa học cần thấy hết sự phức tạp và rắc rối có thể xảy ra nếu không xác định rõ hệ thuật ngữ sẽ sử dụng trong văn bản khoa học. Với những trường hợp còn nhiều ý kiến chưa phân thắng bại, để làm rõ cách nhìn của mình. người ta còn dẫn cả thuật ngữ tương đương trong tiếng nước ngoài hay trong nguyên bản để người đọc tiện tham khảo. Bên cạnh vốn từ sẵn có trong mỗi ngôn ngữ (cho thấy sự giàu đẹp độc đáo của nó), các ngôn ngữ đều sử dụng hình thức vay mượn (điều này càng có xu hướng phát triển trong lĩnh vực thuật ngữ) vẫn đảm bảo tính chính xác, cũng lại đảm bảo tính hệ thống của thuật ngữ. Điều đáng lưu ý trong nhiều trường hợp thuật ngữ vay mượn có chiều hướng thắng thế các thuật ngữ đã tồn tại. Đó là xu hướng quốc tế hoá thuật ngữ khoa học trong tiến trình tiếp xúc, xâm nhập, làm giàu lẫn nhau giữa các ngôn ngữ về mặt từ vựng là quá trình hình thành vốn từ vựng chung có tính quốc tế cho tất cả các ngôn ngữ, phản ánh xu hướng xích gần nhau giữa các nền văn hoá và ngôn ngữ trong những điều kiện hội nhập quốc tế. Việc ngày càng nhiều yếu tố quốc tế trong thành phần của các ngôn ngữ tạo điều kiện thuận lợi cho công việc truyền bá, phổ biến và trao đổi thông tin khoa học trên quy mô toàn thế giới. Để có tính quốc tế, đơn vị từ vựng được dùng làm thuật ngữ phải mang hai trong bốn yếu tố trong đây. 1. Giống nhau về ý nghĩa, 2. Giống nhau về âm hưởng, 3. Giống nhau về chữ viết, 4. Giống nhau về cấu trúc, Chẳng hạn, cũng do yêu cầu chính xác, một số thuật ngữ thông tin – thư viện mang hình thức từ vay mượn, ngoại lai như catalô (<= catalogue ; cf : mục lục), phích (<= fiche; cf : phiếu), mơ nu (<= menu; cf : thực đơn),vi rút (virus), v.v... Với quan niện rằng khoa học là tài sản chung của loài người chứ không phải của bất cứ dân tộc nào hay của những đấng cao siêu nào thì quốc tế hóa thuật ngữ khoa học là một xu hướng tiến bộ cần được khích lệ thích đáng. Đồng thời cũng là sai lầm nếu ai đó chạy theo ''mốt'' này mà loại trừ tính độc đáo của ngôn ngữ dân tộc cũng được thể hiện ở các thuật ngữ. Do vậy khi xây dựng hệ thống thuật ngữ cho một ngành khoa học, bên cạnh các tiêu chuẩn; chính xác, hệ thống và quốc tế, người ta còn luôn nhấn mạnh phải lưu ý đến tính dân tộc và tính đại chúng. Bởi vì dù thuộc lĩnh vực chuyên ngành khoa học nào đi nữa thì thuật ngữ cũng vẫn là một bộ phận không thể tách khỏi ngôn ngữ toàn dân (ở đây là tiếng Việt). Người làm công tác khoa học lại không thể để một phút nào quên mất bản sắc tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc. Chú trọng đến tính dân tộc khi tạo lập BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 10 hệ thuật ngữ phải được hiểu là một nhiệm vụ không thể thiếu được trong công cuộc bảo vệ trong sáng của tiếng Việt), chống lại hiện tượng không lành mạnh, đó là lạm dụng xu hướng quốc tế hoá từ ngữ khoa học, nguỵ trang cho tệ sính dùng tiếng nước ngoài. Và tai hại hơn thế là cách đọc và viết lai căng, cách dùng sai thuật ngữ vay mượn từ nước ngoài trong lập luận, thuyết trình hay thông tin khoa học. Đề cao tính dân tộc là cùng là để nhằm phát triển ngôn ngữ khoa học dân tộc. Chuyển dịch thuật ngữ khoa học nước ngoài sao cho để nó có điều kiện thuận lợi trở thành một bộ phận hợp thành ngôn ngữ dân tộc là một yêu cầu cần được tính đến khi xây dựng hệ thuật ngữ cho từng ngành khoa học. Khi tạo lập một thuật ngữ, người ta còn nhấn mạnh đến các tiêu chuẩn ngắn gọn và dễ dùng. Lẽ đương nhiên là nếu về mặt hình thức, thuật ngữ khoa học ngắn gọn thì thật phù hợp với quy luật tiết kiệm trong ngôn ngữ. Song văn bản khoa học cũng không thể chấp nhận một thuật ngữ do ngắn gọn mà dẫn tới thiếu chính xác. Đành rằng ngắn gọn thì dễ dùng đối với quảng đại quần chúng, bởi vì ai cũng biết rằng khác với biệt ngữ là từ ngữ đặc biệt dùng cho nhóm người, thuật ngữ vẫn là bộ phận của ngôn ngữ toàn dân. Khi khoa học có điều kiện đi sâu vào đời sống số lớn thành viên trong cộng đồng ngôn ngữ thì thuật ngữ khoa học phải dễ dùng (dễ nói, dễ viết, dễ hiểu, dễ nhớ) đối với quảng đại quần chúng là điều thực sự cần phải tính đến. Hướng tới chuẩn hoá thuật ngữ khoa học và chính tả là công việc phải triển khai thường xuyên. Các nhà khoa học còn chưa thống nhất trong những trường hợp phải giải quyết thoả đáng mâu thuẫn giữa các tiêu chuẩn tạo lập thuật ngữ khi muốn ngắn gọn, dễ dàng... thì lại vi phạm tính chính xác, việc đề cao tính quốc tế có khi phương hại đến tính dân tộc. Việc quy chuẩn từ ngữ khoa học cần phải có thời gian chứ không thể vội vàng hấp tấp vì những ''sáng kiến'' đưa ra phải được thử thách trong đời sống ngôn ngữ chấp nhận. Ngành thông tin – thư viện cần tham khảo hệ thuật ngữ được sử dụng ở Liên đoàn Tư liệu Quốc tế (FID = Fédération internationale de documentation) và tổ chức quốc tế (mà tên gọi trong các ngôn ngữ khác nhau cũng thu hút được sự quan tâm của chúng ta), đó là IFLA, xuất phát từ tên đầy đủ bằng tiếng Anh là: International Federation of Library Associations and Institutions, tiếng Đức là Internationaler Verband der bibliothekarischen Vereine und Institutionen, tiếng Nga : Mezhdunarodnaja Federatsija Bibliotechnykh Assotsiatsij i Uchrezhdenij, tiếng Pháp : Fédération Internationale des Associations de Bibliothécaires et des Bibliothèques, tiếng Tây Ban Nha : Federacin International de Asociationes de Bibliotecarios y Bibliotecas được dich là Liên hiệp hội Thư viện Quốc tế, có người dịch là Hiệp hội Thư viện Thế giới. Tuy nhiên cần lưu ý rằng ngày nay, quan niệm về chuẩn ngôn ngữ không còn cứng nhắc như trước. Nói về tính biến động của chuẩn ngôn ngữ, Claude Hagège viết: "Tất cả các ngôn ngữ trên thế giới, kể cả những ngôn ngữ mà bạn thấy ở trạng thái văn hoc nhất, cho ra đời những kiệt tác văn chương thì trên mình chúng lúc nào cũng mang đầy những "lỗi". Lỗi hôm BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 11 qua trở thành chuẩn hôm nay. Lỗi hôm nay sẽ là chuẩn ngày mai"5. 3. Thay cho kết luận Sự phát triển nhanh mạnh các ngành khoa học đã tạo ra nhiều ngôn ngữ riêng biệt: người ta nói đến ngôn ngữ toán học, ngôn ngữ y học , ngôn ngữ thông tin ... bên cạnh ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết. Các''ngôn ngữ'' này được hiểu là cùng tồn tại trong một ngôn ngữ cụ thể, ở ta là tiếng Việt. Thống nhất hệ thuật ngữ của từng ngành khoa học cũng là một yêu cầu bức bách đối với việc hướng tới chuẩn hoá ngôn ngữ toàn dân. Tình trạng sử dụng thuật ngữ tuỳ tiện, thiếu tính hệ thống, thiếu thống nhất khi có thể thống nhất, chắc chắn phương hại đến tính chính xác của văn bản khoa học. Xây dựng từ điển giải thích thuật ngữ khoa học tiếng Việt cho ngành thông tin - thư viện được đặt ra nhằm đáp ứng một trong những nhu cầu của thực tiễn đời sông ngôn ngữ. Xây dựng và chuẩn hoá thuật ngữ khoa học được chú ý ở nước ta từ những năm 60 của thế kỷ trước, cùng với sự ra đời của Tổ thuật ngữ ở Uỷ ban Khoa học Nhà nước, mà sau này được chia thành Tổ Thuật ngữ và Từ điển Khoa học thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Đến 1968, Tổ này nhập với Tổ Ngôn ngữ, hợp thành Viện Ngôn ngữ học. Mảng nghiên cứu này đã rộ lên – và trong giai đoạn này, cuốn Từ điển thuật ngữ thư viện học Nga – Anh –Pháp - Việt, là công trình tập thể của những người làm công tác thư viện ở 5 Le plurilinguisme, éthique de l'avenir". Assises de l'enseignment du français et en français. AUF, 1998, tr. 58. miền Bắc khi đó khởi thảo, được Viện Ngôn ngữ học giúp đỡ biên soạn và chỉnh lý (Nhà xuất bản Khoa học xã hội,1972, 394 tr.). « Từ điển bao gồm các thuật ngữ của thư viện học, thư mục học và một số thuật ngữ của các ngành liên quan như xuất bản, in, phát hành, thông tin khoa học, v. v thường gặp trong công tác thư viện, thư mục ». Phần chính là bảng đối chiếu Nga - Việt. Sau đó là các bảng tra Anh - Việt và Pháp - Việt (đối chiếu qua tiếng Nga). Cuối cùng là bảng tra đối chiếu ngược Việt – Nga, Anh, Pháp. Rồi cho đến những năm 90 thì công việc nghiên cứu xuống dần, để lại khoảng trống Thuật ngữ học. Tuy vậy, cũng nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, công việc biên soạn và biên dịch các tập thuật ngữ chuyên ngành lại không hề dừng. Thay cho việc có chỉ đạo khoa học và hướng dẫn tập trung tại một nơi như giai đoạn trước, những năm gần đây, ta thấy các nhà chuyên môn thường tập hợp nhau lại, cùng biên soạn để cho ra các tập thuật ngữ, thống nhất cách giải thích và/hoặc đối chiếu phục vụ cho chính ngành mình. Nhận thấy hoạt động nghiên cứu lý luận và thực tiễn thư viện học, tư liệu và thông tin học ở trên thế giới cũng như ở nước ta đã không ngừng phát triển mà kết quả là một số thuật ngữ mới đã xuất hiện và bước đầu được chuẩn hoá, được sự hỗ trợ của Ngân hàng dữ liệu Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp (BIEF), một cuốn Từ điển tư liệu và thư viện học Pháp-Việt đã được Trung tâm Thông tin Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia chủ trì biên soạn và xuất bản năm 1997 (141 tr.). « Từ điển này bao gồm các thuật ngữ được chọn lọc từ các lĩnh vực thư viện, thông tin kjhoa học và một số ngành liên quan như tin học, lưu trữ, xuất bản, phát hành và ấn loát » và BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 12 cũng « thu thập một số cụm từ tuy không phải là thuật ngữ nhưng thường gặp trong báo chí và tài liệu nghiệp vụ », cho phép tra tìm cách chuyển các thuật ngữ tiếng Pháp (như disque souple và disquette, rayonnage en métal và rayonnage métallique đều là những mục từ riêng) sang tiếng Việt (lần lượt chỉ là đĩa mềm, giá kệ kim loại), không có phần tra ngược lại. Như thế, cả hai cuốn trên đều mới chỉ đối chiếu các thuật ngữ tương ứng. Cho đến nay, chưa hề có một cuốn từ điển thuật ngữ giải thích nào cho ngành thông tin - thư viện được biên soạn với bảng từ xuất phát là tiếng Việt. Tuy nhiên, phải kể một đóng góp rất đáng trân trọng : đó là thông qua hoạt động của Hội Hỗ trợ Thư viện và Giáo dục Việt Nam (LEAF-VN), một số cán bộ thư viện người Việt Nam nay định cư ở nước ngoài (Mỹ và Canađa) đã biên dịch và xuất bản trong khuôn khổ bảo trợ của Hiệp hội thư viện Mỹ cuốn Từ điển giải nghĩa thư viện học và tin học Anh-Việt: Glossary of Library and Inforamtion Science (Người dịch: Phạm Thị Lệ Hương, Lâm Vĩnh Thế, Nguyễn Thị Nga.- In lần thứ nhất. Arizona: Nxb Galen Press, Ltd. 1996. 279 tr.) Và sau đó, các dịch giả tiếp tục cập nhật và thông báo cho đồng nghiệp trong nước. Công nghệ thông tin phát triển cũng đã tạo điều kiện cho hệ thuật ngữ tiếng Việt trong lĩnh vực thông tin - thư viện không ngừng giàu lên, đáp ứng yêu cầu về ngôn ngữ trong thời kỳ đổi mới. Cập nhật những tri thức mới của ngành thông tin - thư viện thông qua việc hệ thống hoá và xác định nghĩa của các thuật ngữ khoa học hiện đang được sử dụng trong lĩnh vực này vừa có giá trị khoa học, vừa mang tính thời sự rất rõ rệt. Đó là chưa kể lĩnh vực này còn liên quan mật thiết đến nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội và các ngành khoa học khác. Trong tình hình ấy, việc tổ chức biên soạn và xuất bản một công trình từ điển thuật ngữ giải thích và/hoặc đối chiếu với các ngôn ngữ phổ biến trên thế giới, với bảng từ xuất phát là tiếng Việt, hẳn là cấp thiết, để đi tới thống nhất cách hiểu và cách dùng thuật ngữ trong ngành thông tin - thư viện, góp phần hoàn thiện ngôn ngữ khoa học tiếng Việt. Hà Nội, Tháng 7 - 2007 _____________________________________________________________________ The Story of Innovation - Where does a wise man hide a leaf? - In the forest. - But what does he do if there is no forest? - “He grows a forest to hide it in”. G. K. CHESTERTON
File đính kèm:
- xay_dung_he_thuat_ngu_thong_tin_thu_vien_gop_phan_hoan_thien.pdf