Xây dựng hệ thuật ngữ thông tin thư viện, góp phần hoàn thiện ngôn ngữ khoa học Tiếng Việt

Tóm tắt Xây dựng hệ thuật ngữ thông tin thư viện, góp phần hoàn thiện ngôn ngữ khoa học Tiếng Việt: ...ue de Paris ra mỗi năm 2 số thì số thứ 2 luôn dảnh điểm lại các công trình ngôn ngữ học trên thế giới mà Toà soạn tiếp cận được), annotation (trong các bulletin signalétique),... ; tiếng Anh có: summary, abstract, book review,(tạp chí Vietnam Social Science luôn có mục Book review); ...oa học xã hội: 1) hiện tượng đồng nghĩa, hiện tượng đồng âm, hiện tượng đa nghĩa của các thuật ngữ; 2) có những yếu tố đánh giá trong chữ nghĩa và cấu trúc hình thức của các thuật ngữ; 3) có khá nhiều thuật ngữ tưởng chừng có căn cứ. Trong khoa học, dù là trình bày luận điểm của bản ... mượn, ngoại lai như catalô (<= catalogue ; cf : mục lục), phích (<= fiche; cf : phiếu), mơ nu (<= menu; cf : thực đơn),vi rút (virus), v.v... Với quan niện rằng khoa học là tài sản chung của loài người chứ không phải của bất cứ dân tộc nào hay của những đấng cao siêu nào th...

pdf11 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 306 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Xây dựng hệ thuật ngữ thông tin thư viện, góp phần hoàn thiện ngôn ngữ khoa học Tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 những vấn đề này, bởi vì nó có thể 
sử dụng các từ hàng ngày rồi gán cho 
chúng các nghĩa hàm chỉ và các định 
nghĩa chuyên ngành, những nghĩa này 
đôi khi lại khác nhau giữa các ngành 
học. Đó là chưa kể do khoa học phát 
triển, ngôn ngữ được dùng để truyền 
đạt thông tin chuyên ngành cũng luôn 
được bổ sung và có khi thay đổi. 
Tuy phải đối mặt với các vấn đề 
tài chính và phải lựa chọn tài liệu bổ 
sung nhưng các thư viện truyền thống 
vẫn tiếp tục giữ vai trò là nguồn cung 
cấp thông tin rất phong phú cho nghiên 
cứu. Có điều là tài nguyên thông tin cần 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 
7
bổ sung không còn chỉ là ấn phẩm trên 
giấy như trước. Không gian sử dụng để 
công bố nay đã thay đổi. Tác phẩm xuất 
bản cá nhân trên mạng cũng dần dần 
được thừa nhận; danh mục điện tử có 
vai trò như phiếu đục lỗ trước đây. Vì 
thế, thư viện có thể không có tài liệu 
nguồn (không phải lưu trữ). Cơ sở dữ 
liệu thường xuyên được lưu trong thư 
viện dưới dạng tập hợp đĩa CD-ROM 
được xem là một trong những nguồn tài 
liệu điện tử. Với các cách bảo quản 
hiện đại, ngân hàng dữ liệu chia sẻ các 
tập hợp dữ liệu có thể cho phép người 
đọc truy cập thẳng đến ấn bản điện tử. 
Mỗi ngành khoa học cho ta hiểu 
biết bản chất các sự vật hiện tượng vốn 
tồn tại trong thực tế khách quan dưới 
dạng những hệ thống có quan hệ chịu 
những tác động có quy luật nhất định. 
Do vậy trong ngôn ngữ nào cũng vậy, 
việc xây dựng thuật ngữ khoa học đều 
cố gắng muốn phản ánh tính hệ thống 
về ngữ nghĩa giữa chúng, vì đó là (hoặc 
phản ánh) tính hệ thống của sự vật, hiện 
tượng, đối tượng của khoa học. Do đó, 
người ta nói đến các hệ thuật ngữ. 
Khi nói đến tính hệ thống của 
thuật ngữ, ta buộc phải lưu ý đến sự 
tương ứng giữa những hệ thống khái 
niệm khác nhau, dùng những hệ thống 
ký hiệu, thuật ngữ khác nhau. Sự tồn tại 
của những hệ thuật ngữ cho từng ngành 
khoa học, cho từng dòng nghiên cứu và 
cho từng tác giả là một hiện tượng 
khách quan. Phần nào nó đảm bảo cho 
văn bản khoa học thêm chính xác. Đặc 
biệt là hệ thuật ngữ cũng thể hiện cách 
nhìn độc đáo của ngành học, của dòng 
suy nghĩ riêng biệt. 
Khi xây dựng hay chuyển dịch 
một văn bản khoa học từ ngôn ngữ này 
sang ngôn ngữ khác cần triệt để khai 
thác tính hệ thống về ngữ nghĩa của 
kiểu tạo từ. Do vây, cách tạo thuật ngữ 
là một việc làm hoàn toàn có ý thức: 
trong khi bảo đảm tính chính xác của 
các hình vị hợp thành, kiểu cấu tạo 
thuật ngữ phải phù hợp với vị trí, quan 
hệ các khái niệm mà chúng biểu thị 
trong tương quan với các khái niệm 
khác. Ví dụ, trong công tác phân loại 
có: ấn định chỉ số phân loại, chọn số 
phân loại, thiết lập số phân loại, môn 
loại, 
Ngôn ngữ học chỉ ra các dấu 
hiệu đặc thù sau đây của hệ thuật ngữ 
khoa học xã hội: 1) hiện tượng đồng 
nghĩa, hiện tượng đồng âm, hiện tượng 
đa nghĩa của các thuật ngữ; 2) có những 
yếu tố đánh giá trong chữ nghĩa và cấu 
trúc hình thức của các thuật ngữ; 3) có 
khá nhiều thuật ngữ tưởng chừng có 
căn cứ. 
Trong khoa học, dù là trình bày 
luận điểm của bản thân hay phản ánh 
quan điểm của người khác, trước hết 
phải xác định cho tốt thuật ngữ định sử 
dụng. Nếu thấy cần thiết, tác giả hoặc 
dịch giả cần chỉ rõ ý nghĩa của từng 
thuật ngữ cần sử dụng và trong trường 
hợp có thể, cũng chỉ ra tương ứng giữa 
chúng với các thuật ngữ đã dùng (ở các 
tác giả khác hay trong nguyên ngữ) 
thuận tiện cho việc tra cứu khi cần. 
 Cũng chính do sự phát triển nên 
cho đến nay, tên gọi của ngành thư viện 
học (tiếng Pháp: bibliothéconomie; 
tiếng Anh: library science) cần được bổ 
sung nhưng nay vẫn còn chưa thống 
nhất là khoa học thông tin - thư viện 
hay theo thứ tự ngược lại4, hoặc là 
Thông tin - thư viện học, tức là khoa 
4 Một trong những cuốn sách mới xuất bản 
gần đây có tựa đề : Tra cứu thông 
tin trong hoạt động thư viện thông 
tin / Trần Thị Bích Hằng, Cao 
Minh Kiểm: H., ĐHVH, 2004, 
312tr. 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 
8
học thư viện và thông tin, tương ứng 
với library and information science 
trong tiếng Anh và science de la 
bibliothèque et de l’information trong 
tiếng Pháp. Tuy có quan hệ mật thiết 
với nhau, thông tin học được hiểu là 
khoa học về thông tin (và thư viện), có 
khi được phân biệt với tin học, tương 
ứng với informatics, thuộc lý thuyết về 
thông tin, phục vụ thuần tuý cho công 
nghệ thông tin,... 
Tương tự như vậy, tuy nay giới 
chuyên môn có thể khai thác từ Mạng 
Thông tin - Thư viện Việt Nam, nhưng 
tên các cơ quan hay bộ phận trước đây 
quen gọi là thư viện thì nay, do được 
hiện đại hoá và nhất là đã vượt xa 
khuôn khổ hoạt động của một thư viện 
truyền thống, người ta ghép nó với tư 
liệu và/hoặc thông tin như : Trung tâm 
Thông tin, Tư liệu Khoa học Công nghệ 
Quốc gia, về sau vắn tắt hơn thành 
Trung tâm Thông tin Khoa học và 
Công nghệ Quốc gia (trong đó có Thư 
viện Khoa học Kỹ thuật trước đây) 
Thậm chí chỉ gọi là Trung tâm thông tin 
như: Trung tâm Thông tin Thanh niên 
Việt Nam. Lại có trường hợp tuy gọi là 
Viện Thông tinnhưng trong đó có thư 
viện, mà không phải nhà nghiên cứu 
nào cũng biết, chẳng hạn, trong Viện 
Thông tin KHXH có Thư viện KHXH. 
Không hẳn do công việc khác 
nhau về cơ bản, ở Viện KHXH Việt 
Nam (theo Danh bạ điện thoại. Hà Nội, 
4-2006), tên Phòng Thư viện được 
dùng ở phần lớn các Viện NC chuyên 
ngành/vùng, mà Trưởng phòng là người 
quản lý. Riêng ở Viện Kinh tế Việt 
Nam, người quản lý Phòng Thư viện 
được gọi là Giám đốc. Tên Phòng Tư 
liệu - Thư viện được dùng ở Viện Văn 
học và Viện Khảo cổ học là những đơn 
vị có truyền thống hơn nửa thế kỷ. Tên 
Phòng Thông tin – Tư liệu - Thư viện 
được dùng ở Viện Xã hội học, Viện 
Tâm lý học và Tạp chí KHXH Việt 
Nam. Tên Phòng Thông tin – Thư viện 
được dùng ở Viện NC Châu Phi và 
Trung Đông là một trong những đơn vị 
mới được thành lập gần đây. Cf. Phòng 
Thông tin – Thư viện (Viện Hải dương 
học, Nha Trang) 
Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ là 
Agence intergouvernementale de la 
Francophonie, nay là Organisation 
intergouvernementale de la 
Francophonie (OIF) có Centre 
international francophone de 
Documentation et d'information (Cifdi), 
Bộ Ngoại giao Pháp có Centres de 
Ressources et Documents, ở Nga có 
Otdelenije Bibliotekovedeniia có tên 
tiếng Anh là Library Science 
Department (thuộc International 
Informatization`Academy) 
Thư viện đại học cũng không 
tránh khỏi ảnh hưởng này : nơi vẫn giữ 
tên Thư viện (Đại học Khoa học Tự 
nhiên TP Hồ Chí Minh), nơi đổi thành 
Trung tâm Thông tin -Thư viện (Đại 
học Quốc gia Hà Nội, Đại học KHXH 
& NV, Đại học QG TP HCM) ; hai chữ 
Thư viện được hiểu có trong Trung tâm 
Thông tin - Học liệu = Learning and 
Information Resource Centers (Đà 
Nẵng) mà trước đây đây gọi là Trung 
tâm Thông tin - Tư liệu, có tên tiếng 
Pháp là Cenre de l’Information et de la 
Documentation. Có nơi còn gọi hẳn 
thành Trung tâm Học liệu = Learning 
Resource Center (ĐH Thái Nguyên, 
Cần Thơ)  
Các cơ sở đào tạo cũng « trăm 
hoa đua nở » khi tìm một tên gọi chính 
thức thích hợp: nơi thì gọi là Khoa Thư 
viện – Thông tin, nơi đặt theo thứ tự 
ngược lại: Khoa Thư viện, Trường Cao 
đẳng Văn hóa (TP HCM). Khoa Thư 
viện Thông tin Trường Cao đẳng Sư 
phạm, nay là Đại học Sài Gòn (TP 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 
9
HCM). Khoa Thư viện -Thông tin học, 
ở các Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, 
Đại học KHXH & NV, Đại học QG TP 
HCM  Trong khi đó, ta gặp Library 
and Information Science College (ở 
Mỹ, Thuỵ Điển, ...), Division of 
Information Services (ở Griffith 
University, Australia), École de 
bibliothéconomie et des sciences de 
l’information ((EBSI) :trong Université 
de Montréal, Canada), École de 
bibliothécomie et de sciences de 
l'information en Europe, École de 
bibliothéconomie, archivistique et 
documentation à l’Institut Supérieur de 
Documentation (Université de Tunis),... 
Trong lập luận khoa học cũng 
như truyền đạt thông tin khoa học cần 
thấy hết sự phức tạp và rắc rối có thể 
xảy ra nếu không xác định rõ hệ thuật 
ngữ sẽ sử dụng trong văn bản khoa học. 
Với những trường hợp còn nhiều ý kiến 
chưa phân thắng bại, để làm rõ cách 
nhìn của mình. người ta còn dẫn cả 
thuật ngữ tương đương trong tiếng 
nước ngoài hay trong nguyên bản để 
người đọc tiện tham khảo. 
Bên cạnh vốn từ sẵn có trong 
mỗi ngôn ngữ (cho thấy sự giàu đẹp 
độc đáo của nó), các ngôn ngữ đều sử 
dụng hình thức vay mượn (điều này 
càng có xu hướng phát triển trong lĩnh 
vực thuật ngữ) vẫn đảm bảo tính chính 
xác, cũng lại đảm bảo tính hệ thống của 
thuật ngữ. Điều đáng lưu ý trong nhiều 
trường hợp thuật ngữ vay mượn có 
chiều hướng thắng thế các thuật ngữ đã 
tồn tại. Đó là xu hướng quốc tế hoá 
thuật ngữ khoa học trong tiến trình tiếp 
xúc, xâm nhập, làm giàu lẫn nhau giữa 
các ngôn ngữ về mặt từ vựng là quá 
trình hình thành vốn từ vựng chung có 
tính quốc tế cho tất cả các ngôn ngữ, 
phản ánh xu hướng xích gần nhau giữa 
các nền văn hoá và ngôn ngữ trong 
những điều kiện hội nhập quốc tế. 
 Việc ngày càng nhiều yếu tố 
quốc tế trong thành phần của các ngôn 
ngữ tạo điều kiện thuận lợi cho công 
việc truyền bá, phổ biến và trao đổi 
thông tin khoa học trên quy mô toàn thế 
giới. 
Để có tính quốc tế, đơn vị từ 
vựng được dùng làm thuật ngữ phải 
mang hai trong bốn yếu tố trong đây. 
1. Giống nhau về ý nghĩa, 
2. Giống nhau về âm hưởng, 
3. Giống nhau về chữ viết, 
4. Giống nhau về cấu trúc, 
Chẳng hạn, cũng do yêu cầu 
chính xác, một số thuật ngữ thông tin – 
thư viện mang hình thức từ vay mượn, 
ngoại lai như catalô (<= catalogue ; cf : 
mục lục), phích (<= fiche; cf : phiếu), 
mơ nu (<= menu; cf : thực đơn),vi rút 
(virus), v.v... 
Với quan niện rằng khoa học là 
tài sản chung của loài người chứ không 
phải của bất cứ dân tộc nào hay của 
những đấng cao siêu nào thì quốc tế 
hóa thuật ngữ khoa học là một xu 
hướng tiến bộ cần được khích lệ thích 
đáng. Đồng thời cũng là sai lầm nếu ai 
đó chạy theo ''mốt'' này mà loại trừ tính 
độc đáo của ngôn ngữ dân tộc cũng 
được thể hiện ở các thuật ngữ. Do vậy 
khi xây dựng hệ thống thuật ngữ cho 
một ngành khoa học, bên cạnh các tiêu 
chuẩn; chính xác, hệ thống và quốc tế, 
người ta còn luôn nhấn mạnh phải lưu ý 
đến tính dân tộc và tính đại chúng. Bởi 
vì dù thuộc lĩnh vực chuyên ngành 
khoa học nào đi nữa thì thuật ngữ cũng 
vẫn là một bộ phận không thể tách khỏi 
ngôn ngữ toàn dân (ở đây là tiếng Việt). 
Người làm công tác khoa học lại 
không thể để một phút nào quên mất 
bản sắc tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc. 
Chú trọng đến tính dân tộc khi tạo lập 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 
10
hệ thuật ngữ phải được hiểu là một 
nhiệm vụ không thể thiếu được trong 
công cuộc bảo vệ trong sáng của tiếng 
Việt), chống lại hiện tượng không lành 
mạnh, đó là lạm dụng xu hướng quốc tế 
hoá từ ngữ khoa học, nguỵ trang cho tệ 
sính dùng tiếng nước ngoài. Và tai hại 
hơn thế là cách đọc và viết lai căng, 
cách dùng sai thuật ngữ vay mượn từ 
nước ngoài trong lập luận, thuyết trình 
hay thông tin khoa học. Đề cao tính dân 
tộc là cùng là để nhằm phát triển ngôn 
ngữ khoa học dân tộc. Chuyển dịch 
thuật ngữ khoa học nước ngoài sao cho 
để nó có điều kiện thuận lợi trở thành 
một bộ phận hợp thành ngôn ngữ dân 
tộc là một yêu cầu cần được tính đến 
khi xây dựng hệ thuật ngữ cho từng 
ngành khoa học. 
 Khi tạo lập một thuật ngữ, 
người ta còn nhấn mạnh đến các tiêu 
chuẩn ngắn gọn và dễ dùng. Lẽ đương 
nhiên là nếu về mặt hình thức, thuật 
ngữ khoa học ngắn gọn thì thật phù 
hợp với quy luật tiết kiệm trong ngôn 
ngữ. Song văn bản khoa học cũng 
không thể chấp nhận một thuật ngữ do 
ngắn gọn mà dẫn tới thiếu chính xác. 
Đành rằng ngắn gọn thì dễ dùng đối với 
quảng đại quần chúng, bởi vì ai cũng 
biết rằng khác với biệt ngữ là từ ngữ 
đặc biệt dùng cho nhóm người, thuật 
ngữ vẫn là bộ phận của ngôn ngữ toàn 
dân. Khi khoa học có điều kiện đi sâu 
vào đời sống số lớn thành viên trong 
cộng đồng ngôn ngữ thì thuật ngữ khoa 
học phải dễ dùng (dễ nói, dễ viết, dễ 
hiểu, dễ nhớ) đối với quảng đại quần 
chúng là điều thực sự cần phải tính đến. 
Hướng tới chuẩn hoá thuật ngữ 
khoa học và chính tả là công việc phải 
triển khai thường xuyên. Các nhà khoa 
học còn chưa thống nhất trong những 
trường hợp phải giải quyết thoả đáng 
mâu thuẫn giữa các tiêu chuẩn tạo lập 
thuật ngữ khi muốn ngắn gọn, dễ 
dàng... thì lại vi phạm tính chính xác, 
việc đề cao tính quốc tế có khi phương 
hại đến tính dân tộc. Việc quy chuẩn từ 
ngữ khoa học cần phải có thời gian chứ 
không thể vội vàng hấp tấp vì những 
''sáng kiến'' đưa ra phải được thử thách 
trong đời sống ngôn ngữ chấp nhận. 
Ngành thông tin – thư viện cần 
tham khảo hệ thuật ngữ được sử dụng ở 
Liên đoàn Tư liệu Quốc tế (FID = 
Fédération internationale de 
documentation) và tổ chức quốc tế (mà 
tên gọi trong các ngôn ngữ khác nhau 
cũng thu hút được sự quan tâm của 
chúng ta), đó là IFLA, xuất phát từ tên 
đầy đủ bằng tiếng Anh là: International 
Federation of Library Associations and 
Institutions, tiếng Đức là 
Internationaler Verband der 
bibliothekarischen Vereine und 
Institutionen, tiếng Nga : 
Mezhdunarodnaja Federatsija 
Bibliotechnykh Assotsiatsij i 
Uchrezhdenij, tiếng Pháp : Fédération 
Internationale des Associations de 
Bibliothécaires et des Bibliothèques, 
tiếng Tây Ban Nha : Federacin 
International de Asociationes de 
Bibliotecarios y Bibliotecas được 
dich là Liên hiệp hội Thư viện Quốc tế, 
có người dịch là Hiệp hội Thư viện Thế 
giới. 
Tuy nhiên cần lưu ý rằng ngày 
nay, quan niệm về chuẩn ngôn ngữ 
không còn cứng nhắc như trước. Nói về 
tính biến động của chuẩn ngôn ngữ, 
Claude Hagège viết: "Tất cả các ngôn 
ngữ trên thế giới, kể cả những ngôn 
ngữ mà bạn thấy ở trạng thái văn hoc 
nhất, cho ra đời những kiệt tác văn 
chương thì trên mình chúng lúc nào 
cũng mang đầy những "lỗi". Lỗi hôm 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 
11
qua trở thành chuẩn hôm nay. Lỗi hôm 
nay sẽ là chuẩn ngày mai"5. 
3. Thay cho kết luận 
 Sự phát triển nhanh mạnh các 
ngành khoa học đã tạo ra nhiều ngôn 
ngữ riêng biệt: người ta nói đến ngôn 
ngữ toán học, ngôn ngữ y học , ngôn 
ngữ thông tin ... bên cạnh ngôn ngữ nói, 
ngôn ngữ viết. Các''ngôn ngữ'' này 
được hiểu là cùng tồn tại trong một 
ngôn ngữ cụ thể, ở ta là tiếng Việt. 
Thống nhất hệ thuật ngữ của từng 
ngành khoa học cũng là một yêu cầu 
bức bách đối với việc hướng tới chuẩn 
hoá ngôn ngữ toàn dân. Tình trạng sử 
dụng thuật ngữ tuỳ tiện, thiếu tính hệ 
thống, thiếu thống nhất khi có thể thống 
nhất, chắc chắn phương hại đến tính 
chính xác của văn bản khoa học. Xây 
dựng từ điển giải thích thuật ngữ khoa 
học tiếng Việt cho ngành thông tin - thư 
viện được đặt ra nhằm đáp ứng một 
trong những nhu cầu của thực tiễn đời 
sông ngôn ngữ. 
Xây dựng và chuẩn hoá thuật 
ngữ khoa học được chú ý ở nước ta từ 
những năm 60 của thế kỷ trước, cùng 
với sự ra đời của Tổ thuật ngữ ở Uỷ ban 
Khoa học Nhà nước, mà sau này được 
chia thành Tổ Thuật ngữ và Từ điển 
Khoa học thuộc Viện Khoa học Xã hội 
Việt Nam. Đến 1968, Tổ này nhập với 
Tổ Ngôn ngữ, hợp thành Viện Ngôn 
ngữ học. Mảng nghiên cứu này đã rộ 
lên – và trong giai đoạn này, cuốn Từ 
điển thuật ngữ thư viện học Nga – Anh 
–Pháp - Việt, là công trình tập thể của 
những người làm công tác thư viện ở 
5 Le plurilinguisme, éthique de l'avenir". 
Assises de l'enseignment du 
français et en français. AUF, 1998, 
tr. 58. 
miền Bắc khi đó khởi thảo, được Viện 
Ngôn ngữ học giúp đỡ biên soạn và 
chỉnh lý (Nhà xuất bản Khoa học xã 
hội,1972, 394 tr.). « Từ điển bao gồm 
các thuật ngữ của thư viện học, thư mục 
học và một số thuật ngữ của các ngành 
liên quan như xuất bản, in, phát hành, 
thông tin khoa học, v. v thường gặp 
trong công tác thư viện, thư mục ». 
Phần chính là bảng đối chiếu Nga - 
Việt. Sau đó là các bảng tra Anh - Việt 
và Pháp - Việt (đối chiếu qua tiếng 
Nga). Cuối cùng là bảng tra đối chiếu 
ngược Việt – Nga, Anh, Pháp. 
Rồi cho đến những năm 90 thì 
công việc nghiên cứu xuống dần, để lại 
khoảng trống Thuật ngữ học. Tuy vậy, 
cũng nhằm đáp ứng nhu cầu của thực 
tiễn, công việc biên soạn và biên dịch 
các tập thuật ngữ chuyên ngành lại 
không hề dừng. Thay cho việc có chỉ 
đạo khoa học và hướng dẫn tập trung 
tại một nơi như giai đoạn trước, những 
năm gần đây, ta thấy các nhà chuyên 
môn thường tập hợp nhau lại, cùng biên 
soạn để cho ra các tập thuật ngữ, thống 
nhất cách giải thích và/hoặc đối chiếu 
phục vụ cho chính ngành mình. 
Nhận thấy hoạt động nghiên cứu 
lý luận và thực tiễn thư viện học, tư liệu 
và thông tin học ở trên thế giới cũng 
như ở nước ta đã không ngừng phát 
triển mà kết quả là một số thuật ngữ 
mới đã xuất hiện và bước đầu được 
chuẩn hoá, được sự hỗ trợ của Ngân 
hàng dữ liệu Cộng đồng các nước có sử 
dụng tiếng Pháp (BIEF), một cuốn Từ 
điển tư liệu và thư viện học Pháp-Việt 
đã được Trung tâm Thông tin Tư liệu 
Khoa học và Công nghệ Quốc gia chủ 
trì biên soạn và xuất bản năm 1997 
(141 tr.). « Từ điển này bao gồm các 
thuật ngữ được chọn lọc từ các lĩnh vực 
thư viện, thông tin kjhoa học và một số 
ngành liên quan như tin học, lưu trữ, 
xuất bản, phát hành và ấn loát » và 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 
12
cũng « thu thập một số cụm từ tuy 
không phải là thuật ngữ nhưng thường 
gặp trong báo chí và tài liệu nghiệp 
vụ », cho phép tra tìm cách chuyển các 
thuật ngữ tiếng Pháp (như disque 
souple và disquette, rayonnage en 
métal và rayonnage métallique đều là 
những mục từ riêng) sang tiếng Việt 
(lần lượt chỉ là đĩa mềm, giá kệ kim 
loại), không có phần tra ngược lại. 
Như thế, cả hai cuốn trên đều 
mới chỉ đối chiếu các thuật ngữ tương 
ứng. Cho đến nay, chưa hề có một 
cuốn từ điển thuật ngữ giải thích nào 
cho ngành thông tin - thư viện được 
biên soạn với bảng từ xuất phát là tiếng 
Việt. Tuy nhiên, phải kể một đóng góp 
rất đáng trân trọng : đó là thông qua 
hoạt động của Hội Hỗ trợ Thư viện và 
Giáo dục Việt Nam (LEAF-VN), một 
số cán bộ thư viện người Việt Nam nay 
định cư ở nước ngoài (Mỹ và Canađa) 
đã biên dịch và xuất bản trong khuôn 
khổ bảo trợ của Hiệp hội thư viện Mỹ 
cuốn Từ điển giải nghĩa thư viện học và 
tin học Anh-Việt: Glossary of Library 
and Inforamtion Science (Người dịch: 
Phạm Thị Lệ Hương, Lâm Vĩnh Thế, 
Nguyễn Thị Nga.- In lần thứ nhất. 
Arizona: Nxb Galen Press, Ltd. 1996. 
279 tr.) Và sau đó, các dịch giả tiếp tục 
cập nhật và thông báo cho đồng nghiệp 
trong nước. 
Công nghệ thông tin phát triển 
cũng đã tạo điều kiện cho hệ thuật ngữ 
tiếng Việt trong lĩnh vực thông tin - thư 
viện không ngừng giàu lên, đáp ứng 
yêu cầu về ngôn ngữ trong thời kỳ đổi 
mới. Cập nhật những tri thức mới của 
ngành thông tin - thư viện thông qua 
việc hệ thống hoá và xác định nghĩa của 
các thuật ngữ khoa học hiện đang được 
sử dụng trong lĩnh vực này vừa có giá 
trị khoa học, vừa mang tính thời sự rất 
rõ rệt. Đó là chưa kể lĩnh vực này còn 
liên quan mật thiết đến nhiều lĩnh vực 
hoạt động xã hội và các ngành khoa học 
khác. 
Trong tình hình ấy, việc tổ chức 
biên soạn và xuất bản một công trình từ 
điển thuật ngữ giải thích và/hoặc đối 
chiếu với các ngôn ngữ phổ biến trên 
thế giới, với bảng từ xuất phát là tiếng 
Việt, hẳn là cấp thiết, để đi tới thống 
nhất cách hiểu và cách dùng thuật ngữ 
trong ngành thông tin - thư viện, góp 
phần hoàn thiện ngôn ngữ khoa học 
tiếng Việt. 
Hà Nội, Tháng 7 - 2007 
_____________________________________________________________________ 
The Story of Innovation 
- Where does a wise man hide a leaf? 
- In the forest. 
- But what does he do if there is no forest? 
- “He grows a forest to hide it in”. 
 G. K. CHESTERTON 

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_he_thuat_ngu_thong_tin_thu_vien_gop_phan_hoan_thien.pdf