Bài giảng Lạc – Đậu tương
Tóm tắt Bài giảng Lạc – Đậu tương: ...và thụ tinh. ẩm độ trong thời kỳ này rất quan trọng, nếu gặp hạn, ảnh hưởng rõ tới ra hoa. 2.4 Thời kỳ hình thành quả và hạt Cuối thời kỳ hoa rộ, nhiều tia đã đâm vào đất, cây bước vào thời kỳ làm quả. ở thời kỳ này, thân lá dần dần sinh trưởng chậm lại và có thể dần ngừng sinh trưởng, đồn...inh dưỡng hợp lý. Nhược điểm, theo phương thức này tốn nhiều công chăm sóc, không chăm sóc bằng cơ giới được. - Gieo hàng kép: Ưu điểm, phương pháp này chỉ áp dụng lạc trồng xen với cây trồng khác, chăm sóc dễ, ít bị tổn thương cơ giới, giữ ẩm cho đất. Nhược điểm, sớm cạnh tranh về dinh ... 30.000ha, năng suất 2-3 tạ/ha. - Giai đoạn sau năm 1954, diện tích khoảng 40.000ha, năng suất 3-4 tạ/ha. - Giai đoạn 1970- 1980; năm 1970 diện tích khoảng 48.000ha, năng suất đạt 5ta/ha; năm 1980 diện tích khoảng 76.000ha, năng suất đạt 6,6tạ/ha. - Giai đoạn1990-2000, năm 1990 diệt tích k...
obium cho trộn lẫn với hạt trước khi gieo trồng). 4.3.2 Thời vụ - Cơ sở để xác định thời vụ: giống, sinh thái.điều kiện canh tác - Thời vụ cụ thể Miền Bắc + Vụ xuân: Bắc Trung Bộ gieo 10/1 – 10/2;Vùng Đồng Bằng Sông Hồng gieo 1/2 – 20/2 ; Vùng núi phía bắc gieo 10/2 – 10/3. + Vụ hè: Giống chín sớm : gieo 25/5 – 30/6 Giống chín trung bình: gieo 15/5 – 15/6 Giống chín muộn : gieo 20/4 – 25/5. + Vụ đông: gieo tháng 9 – 15/10 - Miền nam : có 2 vụ +Vụ 1 gieo đầu mùa mưa tháng 3-4, thu hoạch 7-8 . + Vụ 2 gieo giữa mùa mưa tháng 7-8 thu hoạch tháng 12 – 1. 4.3.3 Mật độ gieo trồng - Cơ sở xác định thời vụ: đất đai, giống, điều kiện khí hậu, chế độ canh tác. - Thời vụ, đối với vụ xuân miền bắc vùng bắc trung bộ gieo từ 10/1-10/2; vùng đồng bằng gieo từ 1/2-20/2; vùng núi phía bắc từ 10/2-10/3; ngoài ra còn có thể trồng vụ xuân hè gieo từ 10/3-10/4. - Năng xuất cây đậu tương do 4 yếu tố sau tạo thành. Năng xuất = mật độ x số quả chắc/cây x số hạt chắc/quả x P1000 hạt. Năng xuất quan hệ với các yếu tố cấu thành năng xuất là quan hệ toán học. Nhưng giữa các yếu tố cấu thành năng xuất trong 1 quần thể lại có quan hệ sinh học thông qua các mối quan hệ quần thể cá thể. Mối quan hệ này thể hiện tính mâu thuẫn và thống nhất. Nếu ta trồng dày quá thì số cây trên đơn vị diện tích nhiều vì thế diện tích dinh dưỡng cho 1cây hẹp và cây thiếu dinh dưỡng và thiếu ánh sáng do vậy ít phân cành, sớm bị che phủ làm cho lá bị rụng nhiều, số hoa ít số quả /cây ít và M1000 hạt nhỏ, ngược lại nếu trồng thưa quá, diện tích dinh dưỡng của cây rộng nên cây phân cành nhiều, số hoa và số quả trên cây khối lượng 1000 hạt tăng nhưng mật độ thấp nên năng xuất không cao (Nguyễn thị Vân và cs, 2001; Mayer và cs, 1991). * Cơ sở để xác định mật độ - Căn cứ vào đặc tính của giống : giống chín sớm, thấp cây, ít phân cành ta trồng dày với, giống chín muộn, cây cao, cành nhiều ta phải trồng thưa. - Căn cứ vào thời vụ: vụ xuân và vụ đông trong điều kiện nhiệt độ thấp hay bị khô hạn cây sinh trưởng kém thì ta trồng dày hơn so với vụ hè và hè thu nóng ẩm. - Căn cứ vào đất đai: đất tốt nhiều màu ta trồng thưa, đất xấu it màu ta trồng dày. - Căn cứ vào mức độ thâm canh của từng nơi: Đầy đủ phân bó, chăm sóc tốt thì trồng thưa, trái lại ít phân cành chăm sóc kém thì ta phải trồng dày. * Mật độ gieo cụ thể Giống chín sớm: đảm bảo 50 - 60cây/m2, khoảng cách cụ thể: hàng cách hàng 30 - 35cm, cây cách cây 5- 6cm, hoặc khóm cách khóm 20cm/3-4 cây. Giống chín trung bình: đảm bảo 40-50cây/m2, khoảng cách cụ thể là hàng cách hàng 35-40cm, cây cách cây 7-8cm, hoặc khóm cách khóm 20cm/3-4cây. Giống chín muộn: 15-20 cây/m2, khoảng cách cụ thể là hàng cách hàng 40- 45cm, cây cách cây 12-15cm, hoặc khóm cách khóm 25cm/2 cây. 4.3.4 Phương pháp gieo hạt + Phương pháp gieo hạt Hạt có thể được gieo bằng máy hoặc bằng tay, nhưng thường được gieo theo 3 cách chính: gieo theo hàng, theo hốc và gieo vãi. Gieo hạt bằng máy được sử dụng phổ biến đối với các nước phát triển như Mỹ.Gieo bằng tay là phương pháp phổ biến nhất và rất phổ biến ở nước ta. Ở những chân đất thoát nước không tốt, người ta phải lên luống trước sau đó rạch thành hàng và gieo. Gieo hốc cũng là 1 tập quán ở 1 vài nơi, gieo theo phương pháp này chậm, tốn công nhưng hạt đội đất tốt hơn. Gieo vãi là phương pháp được sử dụng ở một số vùng núi cao Bắc Bộ: Cao Bằng, Lạng Sơn. Gieo theo phương pháp nay rất nhanh, không tốn công nhưng tốn giống, tốn nhiều công sức chăm sóc, mật độ cây không đồng đều. + Độ sâu gieo hạt Độ sâu gieo hạt ảnh hưởng tới nảy mần và mọc của cây qua nhiệt độ và ẩm độ đất. Độ sâu thích hợp đối với hầu hết các giống và đất trồng vào khoảng 2,5 tới 4cm, với đất dễ bị váng nên gieo ở đất nông, ở đất cát nên gieo sâu. Một số tác giả đề nghị không nên gieo hạt trên đất khô. Nhưng nếu thời tiết có biến chuyển thuận lợi lúc đó có thể gieo hạt được. Hạt giống chất lượng cao có thể sống được 10-14 ngày trong đất khô. 4.3.5. Phân bón Đậu tương cần đầy đủ các yếu tố dinh dưỡng cần thiết để sinh trưởng, phát triển bình thường. Nếu thiếu hoàn toàn hoặc thiếu bất cứ một yếu tố nào đều ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển cây. Để phát huy đầy đủ tác dụng của loại phân bón cho đậu tương, cần phải hiểu rõ đặc tính lý hoá và thành phần dinh dưỡng của đất, đặc điểm tính chất của loại phân bón, đặc điểm dinh dưỡng của cây đậu tương. Đậu tương cảm ứng với muối khoáng hơn các loại cây trồng khác. Do đó khi bón phân cho đậu tương, không nên rắc tập trung mà nên vãi đều trên bề mặt để không ảnh hưởng đến sự nảy mầm của hạt. Trong trường hợp đất nghèo dinh dưỡng hoặc lượng phân ít buộc phải bón tập trung thì nên rắc hạt, rễ sẽ ăn sâu thẳng xuống mà không phát triển bề rộng. Bón phân tập trung gần hạt, làm rễ nảy mầm bị cháy, không đảm bảo mật độ cây. - Phân đạm,(N) Đậu tương là cây họ đậu có khả năng cố định đạm từ khí trời để cung cấp cho cây. Do vậy người ta thường bón ít đạm cho đậu tương, khả năng cố định đạm của vi khuẩn nốt sần phụ thuộc vào nhiều yếu tố. (Harper, 1974) thấy rằng việc cố định đạm (N2) và sử dụng nitrate (NO3) có tầm quan trọng để thu được năng suất tối đa (Ngô Thế Dân và CS, 1999). Tuy nhiên, nếu dư thừa đạm có hại tới năng suất, vì lúc đó sự cố định đạm bị ức chế hoàn toàn. Nhiều tác giả cho thấy, bón đạm không hợp lý, bón quá nhiều hoặc bón không đúng thời kỳ sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển và sự hình thành nốt sần. Trên thực tế tuỳ theo đất đai, điều kiện đầu tư khác nhau, đất giầu dinh dưỡng (hay nghèo d2), đất kém thoát nước, đất chua... thì bón phân đạm với lượng 50 - 60 N kg/ha. - Phân lân và vôi (P,Ca) Bón lân cho đậu tương là giảm tỷ lệ rụng hoa, rụng quả, tăng tỷ lệ hạt chắc, năng suất rõ rệt (Trần Điền, 2001), làm tăng khả năng cố định đạm của vi khuẩn nốt sần. Tuỳ theo điều kiện đất đai người ta có thể bón phân lân cho 1 ha từ 30- 100kg P2O5, bón lót cùng với phân chuồng. Bón vôi, cho đất chua để đạt Ph = 6 - 6,5 là yếu tố rất quan trọng để sản xuất đậu tương. Đất có độ kiềm cao, Ph > 7,5 có ảnh hưởng không tốt đến sản lượng đậu tương, trên các loại đất khác nhau nên bón lượng lân, vôi khác nhau. - Phân kaly (K) Từng vùng sinh thái khác nhau lượng kaly khác nhau. Đất cát nghèo kaly, đậu tương phản ứng rõ rệt với phân kaly đặc biệt là các vùng đồng bằng. Do đặc điểm đất đai khác nhau, hiệu quả của bón phân kaly cho đâu tương rất khác. lượng phân kaly bón trung bình khoảng từ 40-70kg/ha(K2O) chia làm 2 lần bón. Bón lót hoặc bón thúc. - Phân vi lượng Là nguên tố rất quan trọng cho quá trinh trao đổi đạm (N). Trên thế giới một số nước như Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan... đã công bố năng suất đậu tương tăng do bón thêm phân Mo (molipdden). Lượng Mo dùng để xử lý hạt cần17g/ha, còn dùng bón vào đất cần 800g/ha. Trên đất kiềm, đất cát, hiện tượng thiếu Mn (mangan) thường xảy ra, bón Mn bằng cách phun lên lá có hiệu quả hơn. * Quy trình bón phân Để có năng suất cao, phẩm chất tốt đậu tương cần được bón đầy đủ phân hữu cơ và các loại phân khoáng khác: Liều lượng phân bón cho 1 ha. Phân chuồng: 6 -10 tấn Phân đạm: Ure 20- 40kg (hoặc 50-100kg đạm sunfat) Lân: supelân 100-250kg (hoặc 30-40kg P2O5) Kaly: 40-70kg (hoặc 80-150kg kaly sunfat); Vôi bột: 300-500kg Cách bón: - Bón toàn bộ vôi trước lúc bừa lần cuối cùng. - Bón lót vào rãnh hoặc hốc toàn bộ phân chuồng cộng toàn bộ lân và một nửa số đạm vào số phân kali. Sau khi bón lót phân chuồng và phân vô cơ cần dùng đất nhỏ lấp kín toàn bộ phân dày 2-3cm, tránh để phân tiếp xúc với hạt làm giảm tỉ lệ nảy mầm. Khi đất quá ướt (độ ẩm >90%) hoặc quá khô thì không nên bón lót phân đạm và kali mà để phân N và K lại tập trung cho bón thúc sớm khi cây có 3-5 lá kép, để phân không ảnh hưởng đến tỉ lệ nảy mầm. - Bón thúc: bón 1/2 lượng phân đạm và kali còn lại vào lúc cây có 3-5 lá kép. Bón cách gốc 3-5 cm sau đó xới vun lấp toàn bộ phân. 4.3.6 Chăm sóc đậu tương sau mọc + Dặm tỉa cây: Dặm cây là nhằn đảm bảo số cây trên đơn vị diện tích. Cần tiến hành dặm vào lúc cây có 2 lá đơn, bởi nếu dặm muộn cây sinh trưởng không đèu. Dùng hạt giống cùng ánh sáng cho cây, cũng tỉa sớm lúc cây có một lá thật. + Xới vun và làm cỏ: Nhằm tiêu diệt cỏ dại tạo điều kiện cho rễ và vi sinh vật hoạt động. Kinh nghiệmcho thấy vun xới 2-3 lần có thể làm tăng năng suất 12-23%. Vun xới cần căn cứ vào giai đoạn sinh trưởng phát triển của cây đậu tương để tiến hành. - Thời kỳ nảy mầm: Cây sống chủ yếu bằng dinh dưỡng trong 2 lá mầm nếu gặp mưa thì phải xới nhẹ phá váng đất. - Thời kỳ cây con: Khi cây có 3-5 lá kép, cây bắt đầu sống độc lập, nốt sần bắt đầu xuất kiện. Lúc này, tiến hành xới đợt 1 kết hợp với làm cỏ và bón thúc nốt số phân còn lại. - Xới đợt 2 sau lần 1 khoảng 10-15 ngày vào lúc đó cây có 5-6 lá kép. Lúc này lớp rễ thứ 2 phát triển và vi sinh vật hoạt động mạnhnên cần vun xới kịp thời sâu 5-7 cm tăng cường khả năng hấp thụ dinh dưỡng cho cây đậu tương. Với giống chín muộn có thể xới vun lần thứ 3 khi cây sắp ra hoa hoặc sau những trận mưa lớn cần xới phá váng. Khi cây bắt đầu ra hoa tuyệt đối không được xới vun ảnh hưởng tới hoa, nụ. Khi cây hình thành quẳ rồi cây đó có thể vun được. + Điều tiết nước: Đậu tương là cây trồng cạn rất cần nước và cũng rất sợ nước. Nên cần chú ý điều tiết nước mới có thể đạt năng suất cao. Nếu thiếu nước vào thời kỳ nảy mần, thì mầm nảy chậm cây sinh trưởng kém, thân lá phát triển kém, nếu thiếu vào thời lỳ làm quả năng suất giảm rõ rệt. Ở nước ta, vụ đông thường hay bị hạn trong giai đoạn đầu nên cần tưới nước, vụ hè nói chung không thiếu nước mà phải làm rãnh thoát nước cho tốt. Ở vùng núi phía bắc lại hay gặp khô hạn đầu vụ trong vụ xuân nên biện pháp giữ ẩm hoặc tưới nước (nếu có thể) đầu vụ xuân có tính chất quyết định đến năng suất của cây đậu tương. Tưới nước cho đậu tương tốt nhất là tưới theo rãnh sau đó tháo ngay, khoảng 800 m3/ha. + Bấm ngọn: Bấm ngọn có tác dụng điều tiết được dinh dưỡng và điều khiển được tán cây cho sự phát triển cân đối, để tập trung dinh dưỡng cho mầm hoa phát triển, quả nhiều. Nếu sinh trưởng kém hay trong vụ xuân và vụ đông thì không bấm ngọn mà chỉ bấm ngọn với những giống sinh sản vô hạn và gieo trong vụ hè sinh trưởng mạnh. Khi bấm phải đúng lúc, bấm quá sớm (5 lá kép) thì cây sẽ yếu đốt ít, cành ít hạn chế tạo hình thành cho cây, nhưng muộn quá (9 lá) cành đã dài thêm cao thì hiệu quả bấm cành thấp, cho nên bấm tốt nhất là lúc 6-8 lá. + Khử lá đậu tương trước khi thu hoạc: Khi cây đậu tương có 85-90% số quả chín (vỏ quả chuyển từ mày vàng sẫm), thì có thể thu hoạch được. Lúc này trên cây, lá đậu tương đã vàng úa kém tác dụng, nhưng vẫn chưa rụng rời khỏi cây. Bộ lá này vẫn có thể bám dính trên thân cành một thời gian dài, kể cả khi quả trên cây đã chín khô. Lá không rụng gây khó khăn việc thu hoạch, vận chuyển và tách hạt, thậm chí cuống và lá vẫn tươi có thể làm cho người thu hoạch rặm, ngứa ngáy khó chịu. Để tách lá ra khỏi cây trước khi thu hoạch, từ nhiều năm nay nông dân ở huyện Hiệp Hòa, Việt Yên tỉnh Bắc Giang đã khử lá đậu tương trước khi thu hoạch bằng nhiều cách, trong đó có những cách như sau: Cách thứ nhất: Trước ngày thu hoạch từ 5 đến 7 ngày, dùng 3.3 kg muối ăn (NaCl), hoặc 0,3 kg phân kali (nồng độ muối và kali có cao hơn một chút cũng không ảnh hưởng đến đất trồng và hạt đậu), hòa với 10 lít nước phun như phun thuốc trừ sâu cho 1 sào Bắc bộ (360 m2), trước khi thu hoạch lá rụng gần hết. Cách thứ hai: Cho nước tràn ruộng sâu từ 15-20 cm, ngâm liên tục từ 3-5 ngày, chú ý không để nước thấm vào quả. Sau tháo cạn nước, lá rụng gần hết. Cách này tuy không hay bằng cách thứ nhất, nhưng rất tiện với thực tế ở vụ hè thu, đồng trũng mưa nhiều. 4.4. Thu hoạch - bảo quản và chế biến 4.4.1 Thu hoạch Đậu tương chín sinh lý bắt đàu khi có một quả trên thân cây chính có màu quả chín (R7). Khi màu xanh của tất cả quả mất đi là giai đoạn chín sinh lý bắt đầu và nó xuất hiện muộn hơn một chút giai đoạn khi một quả trên thân chính có màu quả chín. Khi chín sinh lý hàm lượng chất khô tích luỹ trong hạt lớn nhất. Thuỷ phần trong hạt lúc này vào khoảng 40-60%. Vì thuỷ phần ở giai đoạn chín sinh lý còn cao, người ta không thu đậu tương ở giai đoạn này. Thu hoạch bắt đầu khi 90% số quả trên cây có màu chín đặc trưng. Người ta cóthể thu hoạch đậu tương bằng máy gặt đập liên hợp, máy kết hợp với tay hoặc thu đập bằng tay, tuỳ theo cơ sở vật chất từng nơi. Khi thu hoạch nên tiến hành vào ngày có thời tiết nắng ráo. 4.4.2 Bảo quản, chế biến * Bảo quản Sau khi thu hoạch phơi khô giảm lượng nước trong hạt thương phẩm còn khoảng 10- 12% , hạt giống ẩm độ hạt 7- 8%., đem bảo quản trong kho. - Bảo quản đậu tương thương phẩm + yêu cầu: Đậu tương không bị thay đổi chất lượng sau thời gian bảo quản , đậu tương không bị độc hại + Nguyên tắc: Xử lý kho: Diệt mối, mọt, sâu kho trước khi cho đậu tương vào bảo quản Bảo quản đậu tương kín tránh để hạt tiếp xúc với không khí (ức chế hô hấp của hạt). Kho bảo quản phải có t0 thấp, thông gió tăng độ ẩm và t0 không do hô hấp của hạt. Bảo quản đậu tương giống cũng như bảo quản đậu tương thương phẩm. Yếu tố quan trọng đối với bảo quản đậu tương giống là ẩm độ hạt 7-8%. Bảo quản ở gia đình thường để ở chum vại bịt kín, tránh hạt tiếp xúc với không khí, bảo quản đậu tương có nhiều khó khăn vì đậu tương có hàm lượng protein và lipit cao nên rất khó bảo quản. * Chế biến Hàng năm trên thế giới cũng như ở Việt Nam đậu tương được chế biến thành nhiều dạng thực phẩm phong phú và giầu dinh dưỡng. Đậu tương có thể chế biến thành nhiều dạng khác nhau: - Chế biến tươi: đậu tương luộc, đậu tương ủ men, làm tương, sữa đậu nành. - Chế biến công nghiệp: ép dầu, các ngành công nghiệp khác,hồ vải. - Chế biến khô: khô dầu đậu tương, bột đậu tương, làm bánh, kẹo 4.5 Phòng trừ sâu bệnh hại đậu tương Đậu tương là một cây trồng bị nhiều bệnh phá hại. Tại Việt Nam, qua điều tra thấy có tới hơn 70 loại sâu hại, 34 họ, 8 bộ và 17 loại bệnh. Trong đó có 12-13 loại sâu và 4 đến 5 loại bệnh hại phố biển ở nhiều vùng (Nguyễn Danh Đông, 1982). 4.5.1 Sâu hại Sâu hại là yếu tố ảnh hưởng cả về năng suất và chất lượng đậu tuơng nếu không được phòng trừ kịp thời. * Sâu hại lá: phần lớn những sâu đa thực hiện trên đậu tương là hại lá, từ những cn ruồi trắng và họ trĩ nhỏ tới những con bọ cánh cứng và sâu róm lớn. Hầu hết chúng gây hại bằng cách làm rụng lá hoặc một số loại chích hút nhựa cây làm cho cây yếu dần: Sâu xanh (Plathypena scabra (F)); Sâu cuốn lá đậu tương (Lamprosema indicata); Sâu đo đậu tương (Pseudoplusia includen Walker); Sâu ăn lá (Cerotoma trifurcata); + Những côn trùng khác thuộc bộ cánh cứng: như ban miêu, côn trùng cánh cứng hại dưa chuột (Colapsis sp), côn trùng cánh cứng Nhật Bản (Popillia japonica Newman). * Sâu hại quả + Sâu đục quả đậu tương (Etiella zinckenella treit) + Côn trùng chích hút: bọ xít thường (Acrosternum hilare (Say) và bọ xít xanh (NeZara viridula) + Các loại sâu hại quả khác: sâu róm mèo, sâu đo, sâu xanh, bọ cánh cứng. * Sâu hại thân: Sâu hại thân bên trong hoặc ngoài ít khi gây thiệt hại nghiêm trọng, sâu thường hại khi cây non, gây ảnh hưởng mật đọ cây.Tuy nhiên, đậu tương có khả năng bù trừ tốt, trừ khi quá nghiêm trọng mới gây ảnh hưởng năng suất: Bọ nhảy (Spissistilus festinus Say); Sâu đục thân ngô hại đậu tương (Elasmopalpus lignosellus Zeller); Sâu đục thân (Dectes texanus Le Conte); Ruồi đục thân (Melanagromyza sojae zahmer); Sâu xám (Agrotis ypsilon). * Quản lý sâu hại tổng hợp (IPM) Quản lý sâu hại tổng hợp là kết hợp các phương pháp hoặc chiến thuật vào chiến lược thích hợp cho từng vùng. Hiện nay, chương trình phòng trừ sâu bệnh ở đậu tương chủ yếu là vào diệt trừ tạm thời việc bùng nổ của sâu hại, mà nó đã đạt được hoặc vượt ngưỡng gây hại kinh tế. Điều này có thể thực hiện hoặc sử dụng thuốc trừ sâu.Phương pháp này yêu cầu xác định mật độ sâu trên đồng ruộng, ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau của cây và đồng thời đánh giá mức hại do sâu gây ra. Thông tin này có được qua các phương pháp theo dõi. Dựa trên kết quả theo dõi, người quản lý dùng ngưỡng và sơ đồ quy định để xác định việc phun thuốc hay không. Thuốc trừ sâu phải dùng ở mức độ thấp nhất và chỉ khi mật độ sâu đến mức gây thiệt hại kinh tế. Để có biện pháp phòng trừ sâu thích hợp, thì phương pháp theo dõi, phương pháp dự đoán và kế hoạch rẩt cần thiết, nó giúp cho việc đưa ra quyết định trong việc phòng trừ sâu hại. 4.5.2 Bệnh hại đậu tương + Bệnh hại lá: bệnh gỉ sắt (Phakopsora pachyrhizi Sydow), bệnh đốm nâu (Septoria glycine Hemmi), bệnh sương mai (Peronosporqa manshurica). + Bệnh hại rễ và thân: bệnh thối thân màu nâu (Braanr Stemrot), bệnh thối rễ (Phytophthora megasperma), bệnh ung thư thân (Diaporthe phaseolorum), bệnh lở cổ rễ và thối thân lá (Rhizoctonia solani Kunehn), bệnh thối thân (Macrophomina phaseolina). + Bệnh hại hạt: bệnh đốm tím hạt (Cercosporna Kikuchii), bệnh hại thân và hại quả (Diaporthe sojae). + Bệnh virut: bệnh do virut có thể thấy ở tất cả các khu vực sản suất đậu tương. Tuy nhiên, cũng có 1 số vùng không có bệnh vi rút, việc truyền virút từ hạt đến cây non không phải là hiếm và nó có thể là nguyên nhân chính gây ra phổ biến bệnh. Yếu tố quyết định sự phát triển của virut ở 1 vùng là sự có mặt của vật môi giới và trồng các giống dễ nhiễm bệnh. * Sử dụng thuốc hóa học trừ bệnh hại đậu tương Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại thuốc trừ bệnh hại đậu tương. Khi phát hiện bệnh xuất hiện trên cây đậu tương, như đã nêu ở phần trên, nên sử dụng các loại thuốc trừ nấm mạnh như: Zineb, Tilsupper, Aliette 80WP, Ridomil 68WP, Tilt, Ricide 72WP, Boođô với nồng độ chỉ dẫn của từng loại thuốc để phun phòng và trừ bệnh (Trần Quang Hùng, 1992). Nếu bị bệnh gỉ sắt, sương mai và đốm nâu nên dùng Zineb hoặc Tilsupper để phun, còn bệnh lở cổ rễ thì dùng Validamicin để phun ở thời kì cây con. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn (2002), Danh mục thuốc bảo vệ thực vật đươc phép, hạn chế và cấm sử dụng ở VN, NXB Nông Nghiệp Hà Nội. 2. Chương trình hỗ trợ ngành nông nghiệp (ASPS) hợp phần giống cây trồng (2005), 575 giống cây trồng nông nghiệp mới, NXB Nông nghiệp HN. 3. Ngô thế Dân và công sự (1999), Cây đậu tương, NXB Nông nghiệp HN. 4. Lê song Dự và cộng sự (1998), Giống đậu tương DT93, kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ nông nghiệp (1996-1997), NXB Nông nghiệp. 5. Nguyễn Danh Đông (1982), Trồng đậu tương, NXB Nông nghiệp. 6. Trương Đích (2001), 265 giống cây trồng mới, NXB Nông nghiệp HN. 7. Trần Điền (2001), Ảnh hưởng của liều lượng phân lân đến năng xuất và khả năng cố định đạm của đậu tương trên đất đồi trung du miền núi phía bắc VN.National soybean Conference in VN 2001 HN. 8. Trần Đình Long 1992 kết quả nghiên cứu chọn tạo giống đậu đỗ (1986- 1991) kết quả nghiên cứu khoa học nông nghiệp (1987-1991), NXB Nông nghiệp HN. 9. Trần Đình Long và cs (2001), Tính thích ứng của đậu tương trước điều kiện quang chu kỳ ở VN.National soybean Conference in VN 2001 HN. 10. Trần Đình Long và cs (2005), Kết quả chọn tạo và phát triển các giống đậu đỗ (1985-2005) và định hướng 2006-2010, Báo cáo tiểu ban chọn giống cây trồng - hội nghị khoa học công nghệ cây trồng HN. 11. Phạm Gia Thiều (2000), Kỹ thuật trồng và chế biến sản phẩm cây đậu tương, NXB Nông Nghiệp HN. 12. Mai quang Vinh và cs (2005), Thành tựu 20 năm nghiên cứu di truyền và chọn tạo giống đậu tương của viện di truyền nông nghiệp (1984-2004), Báo cáo tiểu ban chọn giống cây trồng - hội nghị khoa học công nghệ cây trồng HN. 13. Nguyễn văn Viết và cs (2002), Kỹ thuật trồng 1 số giống lạc và đậu tương mới trên đất cạn miền núi, NXB Nông Nghiệp HN. 14. Niên giám thống kê 2008
File đính kèm:
- bai_giang_lac_dau_tuong.pdf