Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay: ... tích ngày càng có hiệu quả, góp phần thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa các hoạt động bảo tồn bảo tàng. Nhờ nguồn ngân sách được đầu tư kịp thời của Nhà nước và cộng đồng xã hội mà nhiều di tích lịch sử cách mạng đã được cứu thoát khỏi tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Đồng thời, qu...hận, thiếu trách nhiệm, thiếu năng lực chuyên môn, làm biến dạng, mất giá trị di tích, đặc biệt là các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến của nhân dân ta. Không ít văn hóa phi vật thể đang mai một dần, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số (chẳng hạn, chữ viết các dân tộc chưa phá...an lấp đảo ở Nha Trang để xây nhà hàng, Lăng mộ và từ đường nhà thơ Tuy Lý Vương trở thành nơi đỗ xe tắc xi; Chùa Dơi ở Sóc Trăng bị lấn chiếm để làm khu vui chơi giải trí; Tập đoàn Tuần Châu đang có dự án san lấp một phần Vịnh Hạ Long để làm khu nghỉ dưỡng... Hà Nội là nơi có tới 1/3 ...

pdf10 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 259 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngành khác nhau ở trong và ngoài 
nước đã góp phần làm tăng chất lượng đội 
ngũ cán bộ của các đơn vị quản lý. Sở dĩ 
chúng ta có thể tổ chức các hoạt động nêu 
trên bởi sau khi trở thành di sản, Đảng và 
Nhà nước cũng như địa phương đã đầu tư 
nhiều hơn, hiệu quả hơn vào công tác quản 
lý và công tác bảo quản, tu bổ và tôn tạo 
các di sản. Nhờ những nỗ lực đó, bộ mặt 
của các di sản thế giới ngày càng được cải 
thiện, nhiều bộ phận của di sản thế giới đã 
được bảo quản, tu bổ và phục hồi, di sản thế 
giới ngày càng trở nên hấp dẫn hơn. Trong 
quá trình phát triển du lịch, các nguồn thu 
thông qua phục vụ tham quan du lịch tăng 
lên hàng năm đã trở thành động lực quan 
trọng để chúng ta tiếp tục đầu tư cải thiện 
tình hình ở các di sản thế giới, tiếp tục phát 
triển các hoạt động du lịch. Chỉ riêng tiền 
bán vé vào cửa ở các di sản thế giới đã gần 
trăm tỉ đồng, năm sau tăng hơn năm trước. 
Năm 2005, ước tính di tích Huế thu được 
khoảng 50 tỉ đồng tiền bán vé, Vịnh Hạ Long 
khoảng 30 tỉ, Hội An và Mỹ Sơn, Phong 
Nha - Kẻ Bàng cũng thu được hàng chục tỉ 
đồng. Đó là chưa kể đến các nguồn thu từ 
dịch vụ du lịch nhà hàng, khách sạn, giao 
thông, vận tải, hàng không, buôn bán hàng 
thủ công mỹ nghệ, vui chơi giải trí, v.v.. 
Sự phát triển du lịch tại các điểm di sản 
văn hóa và thiên nhiên còn góp phần thúc 
đẩy các ngành giao thông, hàng không hoạt 
động mạnh mẽ hơn. Người ta đã nói đến 
“đường bay vàng” để chỉ tuyến bay Hà Nội 
- Huế, nhiều chuyến bay chỉ toàn người 
nước ngoài bay từ Hà Nội vào tham quan di 
tích Huế. Các tuyến xe lửa, xe ca, tàu thủy 
chở khách đến tham quan du lịch các di sản 
thế giới cũng nhộn nhịp hơn, tất bật hơn. 
Nhờ vào việc từng bước hoàn chỉnh hệ 
thống luật pháp về bảo tồn, phát huy giá trị 
di sản văn hóa với việc ban hành Luật Di 
sản và các quyết định có liên quan; việc tổ 
chức sắp xếp lại bộ máy quản lí nhà nước 
cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được 
giao; huy động được sự tham gia của toàn 
xã hội đối với hoạt động giữ gìn, phát huy 
giá trị di sản văn hóa; việc triển khai 
Chương trình mục tiêu quốc gia về văn 
hóa... hoạt động bảo tồn phát huy di sản văn 
hóa đã đạt nhiều thành tựu, không chỉ đáp 
ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng 
cao và phong phú của nhân dân, mà còn 
góp phần đưa hình ảnh quốc gia tới bạn bè 
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa... 
 101 
thế giới, tạo động lực cho sự phát triển kinh 
tế - xã hội. 
3. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa 
ở Việt Nam: những hạn chế 
Tuy đã đạt được một số kết quả đáng 
khích lệ như ở trên, song đối với sự nghiệp 
bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa và 
thiên nhiên nói chung, bảo tồn di sản phục 
vụ phát triển du lịch nói riêng thời gian qua 
còn lộ ra những hạn chế về nhiều mặt. 
Trước hết, về nhận thức, tâm lý phổ biến 
của các vị lãnh đạo chính quyền địa phương 
khi đề đạt nguyện vọng nâng cấp di tích của 
địa phương mình lên hạng di tích quốc gia 
đặc biệt hoặc di sản thế giới, ngoài mong 
muốn nhận được sự quan tâm đầu tư lớn 
của Chính phủ vào công tác bảo quản, tu bổ 
và phục hồi di tích, còn có ý muốn tăng 
nhanh hoạt động du lịch tại di tích; qua đó 
tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương, 
cải thiện một phần đời sống nhân dân. Đây 
là một nguyện vọng chính đáng, tuy nhiên ở 
góc độ bảo tồn di sản, nếu việc bảo tồn di 
sản không được coi trọng ngang bằng hoặc 
hơn việc khai thác di sản thì sẽ dẫn đến tình 
trạng phá hoại di sản, làm cho di sản bị 
xuống cấp, mai một nhanh chóng. Bên cạnh 
đó, nhận thức của người dân về Luật Di sản 
văn hóa còn chưa đầy đủ nên tình trạng vi 
phạm bảo tồn di tích còn xảy ra như việc 
cung tiến đồ thờ cúng bày đặt tùy tiện, gây 
phản cảm. 
Thứ hai, sự quản lý của các cơ quan nhà 
nước còn lỏng lẻo, dẫn đến nhiều di tích 
tiếp tục bị xâm phạm, lấn chiếm, đánh cắp, 
làm hư hại, thất thoát khá nặng nề. Tại Hà 
Tây (cũ) từ năm 2000 đến năm 2004 đã 
xảy ra mất 298 cổ vật tại 40 di tích. Tại 
Phú Thọ từ tháng 5 năm 2004 đến tháng 9 
năm 2004 đã mất 33 cổ vật tại 4 di tích 
Nhiều di sản quý không còn khả năng khôi 
phục. Có trường hợp, di sản văn hóa, thiên 
nhiên quốc gia bị xâm lấn, tàn phá (Đồi 
Vọng Cảnh tại Huế, Di tích nàng Tô Thị ở 
Lạng Sơn...) do các địa phương chỉ coi 
trọng phát triển kinh tế để đạt chỉ tiêu tăng 
trưởng chứ ít quan tâm đến việc giữ gìn 
cảnh quan môi trường và các di sản văn 
hóa. Ở một số nơi, trong khi tiến hành bảo 
tồn, trùng tu đã không cẩn thận, thiếu trách 
nhiệm, thiếu năng lực chuyên môn, làm 
biến dạng, mất giá trị di tích, đặc biệt là 
các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến 
của nhân dân ta. Không ít văn hóa phi vật 
thể đang mai một dần, nhất là vùng đồng 
bào dân tộc thiểu số (chẳng hạn, chữ viết 
các dân tộc chưa phát triển). Nhiều hoạt 
động lễ hội văn hóa có những biến tướng 
nhằm trục lợi gây sự phản cảm, thậm chí 
bất bình với du khách... 
Bên cạnh đó, dù Nhà nước quan tâm đầu 
tư, nhưng nguồn kinh phí đưa về các di tích 
vẫn còn quá ít so với nhu cầu thực tế. Cả 
nước hiện vẫn còn hàng nghìn di tích quốc 
gia chưa được tu bổ; những di tích được tu 
bổ chủ yếu vẫn bằng nguồn vốn xã hội hóa 
nên vừa yếu vừa thiếu. Các di tích được đầu 
tư mới chỉ đáp ứng được mục tiêu gia cố, 
chống xuống cấp cục bộ chứ chưa đủ khả 
năng thực hiện các dự án tổng thể nhằm tạo 
điều kiện cần và đủ để di tích tồn tại lâu 
dài. Việc xã hội hóa các hoạt động văn hóa 
tuy thu được những nguồn lực đáng kể để 
tu bổ, tôn tạo di sản, nhưng do yếu kém 
trong khâu quản lí dẫn đến lộn xộn, nhập 
nhằng, thậm chí phô trương phản cảm. 
Trước đây, một thời nhà rông của một số 
dân tộc ở Bắc Tây Nguyên được coi là lạc 
hậu, không được khích lệ để bảo tồn, dẫn 
đến tình trạng nhiều nhà rông bị mai một. 
Khi nhận thức ra vấn đề lại có tình trạng 
làm hộ, làm thay cho cộng đồng, dân làng. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(89) - 2015 
 102 
Vì không am hiểu văn hóa cộng đồng nên 
nhà rông dựng lên không gắn với sinh hoạt 
văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng, thậm 
chí trở nên xa lạ, nhiều ngôi nhà bị bỏ 
hoang một cách hết sức lãng phí và rất đáng 
tiếc. Sự tùy tiện, không khoa học, làm hộ, 
làm thay thiếu sự tham gia của cộng đồng - 
chủ thể văn hóa là một bài học đắt giá cho 
công tác bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. 
Thứ ba, về tổ chức bộ máy quản lý di 
sản, tuy mỗi di sản văn hóa đã có một tổ 
chức quản lý riêng, song quy mô và cơ chế 
tổ chức của các cơ quan giữa các di sản còn 
chưa thống nhất. Đội ngũ cán bộ chuyên 
môn nghiệp vụ ở một số cơ quan quản lý di 
sản còn thiếu về số lượng và yếu về chất 
lượng, nhất là trong bối cảnh hiện nay, Việt 
Nam có nhiều di sản thế giới rất cần một 
đội ngũ cán bộ thực sự có chuyên môn cao. 
Việc học tập chuyên môn, ngoại ngữ của 
một số cán bộ, nhân viên thiếu bài bản, chỉ 
nhằm phục vụ những lợi ích trước mắt, chứ 
không chú ý chuyên sâu, nâng cao thường 
xuyên để đáp ứng những đòi hỏi chuyên 
môn cao của ngành. Sự thiếu đồng bộ trong 
tổ chức và đội ngũ cán bộ ảnh hưởng rất rõ 
đến công tác bảo tồn và phát huy giá trị di 
sản văn hóa cũng như tài nguyên du lịch, 
nhất là ở Quảng Nam, nơi có hai di sản văn 
hóa thế giới, nhưng có tới ít nhất ba cơ quan 
nghiệp vụ tham gia quản lý di tích là Trung 
tâm Bảo tồn di sản di tích Quảng Nam trực 
thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam, 
Trung tâm Quản lý bảo tồn di tích Hội An 
trực thuộc Ủy ban nhân dân thị xã Hội An 
và Ban Quản lý di tích và du lịch Mỹ Sơn 
trực thuộc Ủy ban nhân dân huyện Duy 
Xuyên. Sự chồng chéo về quản lý và nhiệm 
vụ đã tạo nên những mâu thuẫn, gây bất lợi 
cho di sản cả trong công tác bảo tồn di tích 
và phát triển du lịch. Chính vì thế, chất 
lượng công tác quản lý di sản cũng còn rất 
khác nhau. Các di sản thế giới của nước ta 
được ghi vào danh mục di sản văn hóa và 
thiên nhiên thế giới rải ra trong nhiều năm. 
Do đó, có những di sản thế giới như Huế, 
Hạ Long đã qua hơn mười năm xây dựng 
và phát triển, trong khi đó Vườn quốc gia 
Phong Nha - Kẻ Bàng mới chỉ được vài 
năm. Đơn vị ra đời sau có ưu thế là rút ra 
được những bài học của các đơn vị đi trước, 
nhưng lại phải đối phó với những vấn đề 
phức tạp nảy sinh mà các di sản trước đó 
không vấp phải. Đó là sự phát triển “đi 
trước, đón đầu” của nhân dân và ngành du 
lịch địa phương, ngay khi biết tin về việc 
khu di tích được ghi vào danh mục di sản 
thế giới. Trong khi đó quy hoạch bảo tồn và 
phát huy giá trị di sản, những qui định cụ 
thể về quản lý, bảo vệ di sản vẫn còn đang 
trong quá trình soạn thảo. 
Một điều bất cập khác là nhận thức và sự 
tham gia của cộng đồng vào quá trình bảo 
tồn và phát huy giá trị di sản chưa thực sự 
đồng đều, vững chắc và có lợi cho sự 
nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di 
sản. Có thể nói, tại địa phương có di sản 
văn hóa và thiên nhiên, về mặt hình thức, 
phần lớn mọi người đều vui mừng khi địa 
phương mình có di sản văn hóa, ý thức 
trách nhiệm của cộng đồng với việc bảo vệ 
di sản được nâng lên. Nhưng trên thực tế 
những nhận thức này chưa tương xứng với 
nhu cầu bảo vệ di sản. Cán bộ và người dân 
địa phương hướng sự quan tâm vào việc 
khai thác di sản là chính, việc bảo vệ di sản 
chủ yếu vẫn là những biện pháp hành chính 
của các cơ quan quản lý. Có thể nói, người 
dân ở các di sản quan tâm đến việc được 
hưởng lợi gì từ di sản hơn là trách nhiệm và 
nghĩa vụ của mình đối với việc bảo vệ di 
sản là gì? 
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa... 
 103 
Đối với ngành du lịch, trong những năm 
qua, sự phối kết hợp giữa ngành Văn hóa - 
Thông tin và Du lịch trong việc xây dựng 
một nền du lịch bền vững tại các di sản văn 
hóa đã có và đạt được nhiều kết quả tốt, 
nhưng những kết quả đó còn chưa xứng tầm 
với đòi hỏi phát triển du lịch bền vững. Sự 
phối kết hợp còn chưa hài hòa giữa khai 
thác tài nguyên du lịch và bảo tồn di sản. 
Vẫn còn tình trạng mạnh ai nấy làm. 
Chương trình mục tiêu chống xuống cấp và 
tôn tạo di tích do Bộ Văn hóa, Thể thao và 
Du lịch chủ trì còn chưa nhận được thông 
tin đầy đủ từ Chương trình quốc gia về Du 
lịch và ngược lại. Vì vậy, vẫn còn tình trạng 
nhiều di tích chưa được đầu tư đồng bộ: nơi 
nhận được dự án của du lịch thì di tích chưa 
được quan tâm, nơi di tích được đầu tư thì 
dự án của du lịch lại chưa tới. 
Một hiện tượng nữa là di tích bị khai 
thác nhiều gấp nhiều lần đầu tư tu bổ (nếu 
tính theo kinh phí đầu tư và kinh phí thu 
được từ dịch vụ và các ngành). Du lịch kéo 
theo những mặt tiêu cực đối với di sản, 
những hiểm họa trực tiếp và tiềm năng, ô 
nhiễm môi trường tự nhiên và xã hội ở các 
di sản thiên nhiên và di sản văn hóa. Ví 
như: dự án san lấp đảo ở Nha Trang để xây 
nhà hàng, Lăng mộ và từ đường nhà thơ 
Tuy Lý Vương trở thành nơi đỗ xe tắc xi; 
Chùa Dơi ở Sóc Trăng bị lấn chiếm để làm 
khu vui chơi giải trí; Tập đoàn Tuần Châu 
đang có dự án san lấp một phần Vịnh Hạ 
Long để làm khu nghỉ dưỡng... Hà Nội là 
nơi có tới 1/3 di tích của cả nước, hiện còn 
trên 1.000 hộ dân và 11 cơ quan xâm phạm 
104 di tích. Đặc biệt, có 593 hộ dân đang 
sinh sống trong các di tích lịch sử văn hóa. 
Con đường gốm sứ Hà Nội từng là niềm tự 
hào của Thủ đô mới hơn 4 năm đã bị sứt 
sẹo, đổ vỡ do sự thiếu quan tâm của chính 
quyền và sự vô ý thức của người dân. 
Nhận thức nhiều cán bộ lãnh đạo nhận 
thức chưa sâu sắc về quan hệ giữa khai thác 
di tích và đầu tư bảo quản, tu bổ và phục 
hồi di tích, chưa có những thái độ tích cực 
đối với việc tạo sự bền vững cho di tích. 
Nhiều ngành nghề phát triển tại các di sản 
thế giới, tuy làm cho đời sống kinh tế có 
phát triển, nhưng cũng làm tăng nguy cơ 
hủy hoại di tích. Không chỉ chúng ta nhận 
thức điều này mà chuyên gia UNESCO 
trong các bản báo cáo giám sát hàng năm 
của mình cũng đã cảnh báo về những tác 
động tiêu cực đối với các di sản thế giới của 
Việt Nam. Điển hình như báo cáo tình trạng 
bảo tồn di tích của Việt Nam năm 2004 của 
Ủy ban Di sản thế giới. Có 3 trong 5 di sản 
thế giới của Việt Nam đã bị Ủy ban Di sản 
thế giới cảnh báo về tình trạng bảo tồn di 
sản. Bên cạnh việc đánh giá những mặt 
được, tích cực của Chính phủ Việt Nam và 
chính quyền các địa phương đối với việc 
bảo tồn di sản thế giới, Ủy ban Di sản thế 
giới có phần đánh giá các tác động tiêu cực 
đối với di sản thế giới của Việt Nam, trong 
đó có đánh giá việc phát triển du lịch tại 
khu vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, 
việc quản lý nuôi trồng thủy sản tại Vịnh 
Hạ Long và việc xây dựng kết cấu hạ tầng 
và quản lý đô thị tại quần thể di tích kiến 
trúc Huế. 
4. Một số giải pháp nâng cao chất 
lượng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa 
ở Việt Nam hiện nay 
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém 
trong việc bảo tồn, tôn tạo và khai thác hợp 
lý các di sản văn hóa, chúng ta cần phải 
thực hiện một số giải pháp sau: 
Thứ nhất, hoàn chỉnh cơ chế đề cao trách 
nhiệm trong công tác quản lý di sản văn hóa 
của cơ quan quản lý nhà nước các cấp. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(89) - 2015 
 104 
Tăng cường hợp tác giữa các cấp, các 
ngành ở Trung ương và địa phương, trước 
hết là giữa ngành du lịch và bảo tồn di sản 
văn hóa để tạo ra sự phát triển du lịch thực 
sự bền vững. Cần lồng ghép tốt giữa 
Chương trình mục tiêu quốc gia về chống 
xuống cấp và tôn tạo di tích, bảo tồn di sản 
văn hóa phi vật thể và Chương trình quốc 
gia về du lịch, các chương trình về môi 
trường, phát triển rừng, giáo dục, các quy 
hoạch phát triển kinh tế xã hội tại các khu 
vực có di sản thế giới. 
Thứ hai, tuyên truyền giáo dục Luật Di 
sản văn hóa và Nghị định của chính phủ về 
bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn 
hóa để Luật này đi vào quần chúng nhân 
dân, làm cho mọi người dân trong xã hội có 
điều kiện hiểu biết và thực hiện. Để “bảo 
vệ” những báu vật nhân văn sống, ngoài 
việc thừa nhận những tài năng dân gian, 
Nhà nước và cộng đồng cần tôn vinh và tạo 
mọi điều kiện tốt nhất về vật chất và tinh 
thần để họ có thể phát huy mọi khả năng 
trong việc bảo tồn các giá trị di sản văn hóa 
truyền thống của dân tộc. 
Thứ ba, đầu tư hỗ trợ kinh phí cho các 
hoạt động bảo tồn, tôn tạo và phát huy các 
di sản văn hóa, đấu tranh ngăn chặn nguy 
cơ làm mai một hoặc thất truyền di sản văn 
hóa. Một trong những nguyên tắc cần phải 
quan tâm đó là vật thể hóa di sản văn hóa 
phi vật thể. Đây là cách để chúng ta tiến 
hành điều tra, sưu tầm, thu thập, ghi chép 
lại các dạng thức văn hóa phi vật thể bằng 
việc áp dụng khoa học công nghệ. 
Đưa di sản văn hóa trở lại với chủ thể 
văn hóa và tạo điều kiện tốt nhất để cho nó 
tồn tại. Đây là nguyên tắc được UNESCO 
và nhiều quốc gia trên thế giới đề xuất. 
Cộng đồng là môi trường sản sinh ra các 
hiện tượng văn hóa phi vật thể và là nơi 
nuôi dưỡng, làm phong phú nó trong đời 
sống. Để bảo tồn chúng trong đời sống, 
chúng ta phải đưa chúng trở lại với người 
dân, trở lại nơi đã sản sinh ra chúng. Văn 
hóa phi vật thể tồn tại trong trí nhớ của một 
số người mà ta thường mệnh danh là nghệ 
nhân hay còn gọi là báu vật nhân văn sống. 
Bởi vậy, bảo tồn và phát huy giá trị di sản 
văn hóa phi vật thể cũng có nghĩa là “bảo 
vệ” người kế thừa di sản văn hóa - những 
nghệ nhân dân gian. 
Thứ tư, mở rộng mô hình xã hội hóa 
hoạt động bảo tồn, tôn tạo di sản văn hóa 
để huy động mọi nguồn lực từ người dân 
trong nước và nước ngoài, để họ có thể 
tham gia vào công tác này dưới nhiều hình 
thức khác nhau. Cộng đồng - chủ thể văn 
hóa là người đóng vai trò quyết định trong 
việc bảo tồn một cách bền vững di sản văn 
hoá phi vật thể. Người dân với vai trò là 
chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, họ 
có đủ năng lực và thẩm quyền để đánh giá 
các giá trị của di sản văn hóa phi vật thể 
quyết định lựa chọn các hiện tượng văn 
hóa phi vật thể nào là cần thiết để bảo tồn. 
Khuyến khích các hoạt động sưu tầm, biên 
soạn, dịch thuật, phân loại, lưu giữ các di 
sản văn hóa để lưu truyền và giao lưu với 
văn hóa nước ngoài. 
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống văn bản 
quy phạm pháp luật, thống nhất tổ chức bộ 
máy quản lý, tăng cường đào tạo nguồn 
nhân lực đáp ứng nhiệm vụ bảo tồn và phát 
huy giá trị di sản văn hóa. Cần nhìn nhận 
đánh giá lại các mặt tích cực và tiêu cực 
trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản 
phục vụ phát triển và ngược lại tác động 
của quá trình phát triển đối với di sản, rút ra 
các bài học kinh nghiệm. Phát huy mặt tích 
cực, hạn chế tiến tới kiểm soát hoàn toàn 
những tác động tiêu cực. 
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa... 
 105 
Thứ sáu, tăng cường hợp tác trong lĩnh 
vực đào tạo nguồn nhân lực, song song với 
quá trình đào tạo các cán bộ chuyên môn, 
cần có kế hoạch tập huấn về chuyên môn và 
thái độ ứng xử đối với di sản, với khách 
tham quan cho cán bộ và nhân dân các địa 
phương có di sản văn hóa, các đối tượng 
tham gia khai thác du lịch tại các di sản - 
không chỉ cán bộ du lịch mà cả đối với 
những người bán hàng, dân địa phương, 
những người đạp xích lô, lái “xe ôm”, 
hướng dẫn du lịch tự do v.v.. để thực sự tạo 
ra những hoạt động du lịch bền vững tại các 
khu di sản văn hóa. 
Thứ bảy, phối hợp chặt chẽ giữa các 
ngành như giao thông vận tải, hàng không, 
xây dựng, lao động - thương binh và xã hội, 
công an, thủy sản... và các cơ quan địa 
phương đảm bảo cho môi trường di sản (cả 
môi trường thiên nhiên và môi trường xã 
hội) được trong sạch. Tạo sự ổn định, bền 
vững cho di sản và sự an toàn cho khách 
tham quan du lịch, tránh chồng chéo, thiếu 
hiệu quả. 
5. Kết luận 
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên 
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phải được bắt 
nguồn từ những giá trị của di sản. Những 
quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà 
nước về di sản văn hóa đã tạo điều kiện 
thuận lợi cho công tác bảo tồn và phát huy 
giá trị di sản phát triển, đồng thời cũng 
khẳng định tiềm năng to lớn của di sản văn 
hóa Việt Nam trong sự phát triển chung của 
đất nước. 
Để công tác bảo tồn, phát huy giá trị các 
di sản văn hóa Việt Nam đạt hiệu quả ngày 
càng cao, các ngành chức năng, các cấp từ 
Trung ương tới địa phương cần nghiên cứu, 
khảo sát, đánh giá đúng thực trạng các di 
sản văn hóa, trên cơ sở đó thực hiện một 
cách đồng bộ các giải pháp nêu trên đây, 
nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn 
hóa một cách khoa học. Đồng thời, tuyên 
truyền, giáo dục rộng rãi trong các tầng lớp 
nhân dân nâng cao nhận thức, trách nhiệm 
bảo vệ các di sản văn hóa, xây dựng môi 
trường văn hóa lành mạnh trong cộng đồng, 
nhằm phát huy bền vững, góp phần tỏa sáng 
giá trị kho tàng văn hóa của dân tộc. 
Tài liệu tham khảo 
1. Nguyễn Chí Bền (2006), Văn hóa Việt Nam - 
Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Văn hóa 
Thông tin, Hà Nội. 
2. Nguyễn Đình Thành (Chủ biên) (2008), Di sản 
văn hóa - bảo tồn và phát triển, Nxb Tổng hợp Tp. 
Hồ Chí Minh. 
3. Trần Văn Bính (Chủ biên) (2004), Văn hóa 
các dân tộc Tây Bắc - Thực trạng và những vấn đề 
đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
4. Nguyễn Hữu Thức (2007), Một số kinh 
nghiệm quản lí và hoạt động tư tưởng - văn hóa, 
Nxb Văn hóa Thông tin và Viện văn hóa, Hà Nội. 
5. Trường Lưu (2006), Văn minh tinh thần từ 
chất lượng văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin và Viện 
văn hóa, Hà Nội. 
6. Ngô Đức Thịnh (2010), Những giá trị văn hóa 
truyền thống Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
7. Quản Hoàng Linh (2012), “Bảo tồn di sản văn 
hóa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Văn hóa nghệ 
thuật, số 337, tháng 7. 
8. Đinh Xuân Dũng (2013), Văn hóa trong chiến 
lược phát triển của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc 
gia, Hà Nội. 
9. Trần Thị Kim Cúc (2014), Văn hóa Việt Nam - 
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
10. Hội đồng Lý luận Trung ương (2014), Đẩy 
mạnh xây dựng văn hóa trong điều kiện kinh tế thị 
trường, hội nhập quốc tế - Kinh nghiệm Việt Nam, kinh 
nghiệm Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(89) - 2015 
 106 

File đính kèm:

  • pdfbao_ton_va_phat_huy_di_san_van_hoa_o_viet_nam_hien_nay.pdf