Chế định tình thế cấp thiết trong luật hình sự nhìn từ góc độ so sánh pháp luật

Tóm tắt Chế định tình thế cấp thiết trong luật hình sự nhìn từ góc độ so sánh pháp luật: ... hợp pháp nào đó); thứ hai, thiệt hại đã gây ra cần phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn. Trọng tâm của quy phạm đang được phân tích còn nằm ở khía cạnh tâm lý của hành vi được thực hiện trong tình thế cấp hồ sỹ sơn Số 5-2013 Nhân lực khoa học xã hội 5 thiết. Người thực hiện hành vi...uy phạm trên đây về tình thế cấp thiết có thể thấy nhà làm luật Cộng hòa Thụy Sĩ không tái tạo một yêu cầu đã được thừa nhận chung, theo đó thiệt hại gây ra cần phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Nhà làm luật yêu cầu xuất phát từ các tình tiết của vụ việc giải quyết vấn đề “gây ra m... pháp luật, việc xác định không rõ ràng và cụ thể cơ sở của việc đánh giá tính nghiêm trọng của thiệt hại như trên dẫn đến việc đánh giá thiệt hại trong thực tiễn xét xử bằng các tiêu chí khác nhau và và dĩ nhiên không thể đảm bảo tính thống nhất của việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, vi...

pdf6 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 345 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Chế định tình thế cấp thiết trong luật hình sự nhìn từ góc độ so sánh pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 hồ sỹ sơn 
Số 5-2013 Nhân lực khoa học xã hội 3 
 khoa học xã hội  
CHế ĐịNH TìNH THế CấP THIếT TRONG LUậT 
HìNH Sự NHìN Từ GóC Độ SO SáNH PHáP LUậT 
hồ sỹ sơn * 
Tóm tắt: Dưới góc độ so sánh các chế định về tình thế cấp thiết trong luật hình sự của các nước 
trên thế giới như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Đức; Thụy Sỹ... Bài viết rút ra một số kinh nghiệm lập pháp 
về vấn đề này để các nhà làm luật Việt Nam có tham khảo nhằm hoàn thiện chế định tình thế cấp 
thiết trong Luật Hình sự nước ta. 
Từ khóa: Tình thế cấp thiết; Bộ luật Hình sự; Tòa án. 
Ngày nhận bài: 5/8/2013; Ngày duyệt đăng bài: 30/9/2013 
Theo Khoản 1 Điều 16 Bộ luật hình sự 
Việt Nam năm 1999 thì “Tình thế cấp thiết 
là tình thế của một người vì muốn tránh 
một nguy cơ đang thực tế đe doạ lợi ích của 
Nhà nước, của tổ chức, quyền lợi và lợi ích 
chính đáng của mình hoặc của người khác 
mà không còn cách nào khác là phải gây 
một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn 
ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế 
cấp thiết không phải là tội phạm”. Tại 
Khoản 2 của Điều luật này, nhà làm luật 
quy định: “Trong trường hợp thiệt hại gây 
ra rõ ràng là vượt quá yêu cầu của tình thế 
cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải 
chịu trách nhiệm hình sự”. 
Như vậy, cũng như chế định phòng vệ 
chính đáng, chế định tình thế cấp thiết 
được Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 
quy định tương đối chi tiết. 
Chế định tình thế cấp thiết cũng được 
quy định tương đối chi tiết trong Bộ luật 
hình sự Cộng hòa Liên bang Nga. Theo 
Điều 39 Bộ luật hình sự này, việc gây 
thiệt hại cho những lợi ích mà pháp luật 
bảo vệ trong tình thế cấp thiết, tức là gây 
thiệt hại để loại bỏ nguy cơ đang trực tiếp 
đe doạ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, 
quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân 
hoặc của người khác nếu nguy cơ đó không 
thể loại trừ bằng các phương tiện khác và 
không vượt quá giới hạn tình thế cấp 
thiết, thì không bị coi là tội phạm. Vượt 
quá tình thế cấp thiết là việc gây thiệt hại 
rõ ràng là không tương xứng với tính chất 
và mức độ nguy hiểm của nguy cơ đang đe 
dọa xâm phạm những lợi ích mà pháp luật 
bảo vệ, các tình tiết của vụ án cũng như 
thiệt hại đã gây ra bằng hoặc lớn hơn thiệt 
hại cần ngăn ngừa. Vượt quá tình thế cấp 
thiết bị coi là tội phạm. Tuy nhiên, trách 
nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với những 
trường hợp người thực hiện hành vi cố ý 
gây thiệt hại.(*) 
Trong Luật hình sự Cộng hoà nhân dân 
Trung Hoa, tình thế cấp thiết được xác 
định bằng thuật ngữ “những hành vi khẩn 
cấp ngăn chặn nguy hiểm”. Theo Điều 21 
Bộ luật hình sự Cộng hoà nhân dân Trung 
Hoa, hành vi khẩn cấp là hành vi buộc 
phải thực hiện ngay để ngăn chặn sự nguy 
(*) PGS.TS, Phó Giám đốc Học viện Khoa học xã hội. 
 chế định tình thế cấp thiết trong luật hình sự... 
 Nhân lực khoa học xã hội Số 5-2013 4 
hiểm đang đe doạ lợi ích của Nhà nước, 
của xã hội, quyền và lợi ích của bản thân 
cá nhân người thực hiện và của những 
người khác. Hành vi khẩn cấp ngăn chặn 
nguy hiểm dù gây ra thiệt hại cũng không 
bị coi là tội phạm; người thực hiện nó 
không phải chịu trách nhiệm hình sự. 
Như vậy, Điều 21 Bộ luật hình sự Cộng 
hoà nhân dân Trung Hoa liệt kê các dấu 
hiệu của tình thế cấp thiết. Trước hết, đó 
là tính buộc phải thực hiện ngay của hành 
vi khẩn cấp nhằm ngăn chặn sự nguy 
hiểm đang đe doạ xâm phạm lợi ích của 
Nhà nước, của xã hội và của cá nhân. Kế 
đến là việc gây ra thiệt hại trong quá 
trình ngăn chặn sự nguy hiểm. Tuy nhiên, 
định nghĩa về tình thế cấp thiết được quy 
định tại Điều 21 trên đây không chỉ rõ là 
hành vi khẩn cấp gây thiệt hại cho ai? 
Theo Khoản 2 Điều 21 Bộ luật hình sự 
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, người thực 
hiện hành vi khẩn cấp ngăn chặn nguy 
hiểm nhưng vượt quá giới hạn tình thế cấp 
thiết, nghĩa là các tình tiết của vụ việc cho 
thấy chưa cần gây thiệt hại mà vẫn gây 
thiệt hại dù rằng để ngăn chặn nguy cơ 
đang đe dọa những lợi ích mà pháp luật 
bảo vệ, thì phải chịu trách nhiệm hình sự. 
Tuy nhiên, đối với người vượt quá giới hạn 
tình thế cấp thiết, Tòa án quyết định hình 
phạt dưới mức thấp nhất của khung hình 
phạt hoặc được miễn hình phạt. 
Phân tích nội dung của Khoản 2 Điều 21 
Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung 
Hoa có thể thấy, các tiêu chí xác định 
trường hợp vượt quá giới hạn tình thế cấp 
thiết được quy định chưa hoàn toàn chính 
xác, vì các thuật ngữ mang tính chất đánh 
giá được sử dụng để xác định giới hạn của 
tình thế cấp thiết như “giới hạn cần thiết”, 
“chưa cần gây thiệt hại mà vẫn gây thiệt 
hại” là không chính xác. 
Các quy phạm pháp luật hình sự về 
tình thế cấp thiết không có hiệu lực pháp 
luật đối với những người mà do đảm trách 
công vụ hoặc trách nhiệm nghề nghiệp 
phải thực hiện nghĩa vụ chuyên môn của 
mình, thậm chí là trong trường hợp họ gặp 
nguy hiểm thực sự về tính mạng hoặc sức 
khoẻ. Quan điểm của nhà làm luật là rõ 
ràng: cấm những người đó gây thiệt hại 
cho những quan hệ xã hội mà pháp luật 
bảo vệ vì nghĩa vụ của họ là ngăn chặn 
thiệt hại xảy ra. 
Khái niệm về tình thế cấp thiết được 
quy định trong Bộ luật hình sự Cộng hoà 
Ba Lan có độ chính xác cao. Theo Điều 26 
Bộ luật hình sự Cộng hoà Ba Lan, nếu 
một người để ngăn chặn một nguy cơ đang 
trực tiếp đe doạ một lợi ích nào đó mà 
pháp luật bảo vệ mà không còn cách nào 
khác là gây ra một thiệt hại cho lợi ích 
khác nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn, thì 
không bị coi là người phạm tội. 
Cũng không bị coi là người phạm tội 
nếu một người nào đó trong khi cứu nguy 
cho một lợi ích mà pháp luật bảo vệ đã gây 
ra một thiệt hại cho một lợi ích khác nhỏ 
hơn lợi ích cần cứu nguy. 
Các dấu hiệu được nêu trong định 
nghĩa trên đây phản ánh tương đối đầy đủ 
đặc trưng pháp lý của chế định tình thế 
cấp thiết. Thứ nhất, nguy cơ đang đe doạ 
xâm phạm một lợi ích nào đó được pháp 
luật bảo vệ cần được ngăn chặn khi không 
còn cách nào khác ngoài việc phải gây ra 
một thiệt hại (cho một lợi ích hợp pháp 
nào đó); thứ hai, thiệt hại đã gây ra cần 
phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn. 
Trọng tâm của quy phạm đang được 
phân tích còn nằm ở khía cạnh tâm lý của 
hành vi được thực hiện trong tình thế cấp 
 hồ sỹ sơn 
Số 5-2013 Nhân lực khoa học xã hội 5 
thiết. Người thực hiện hành vi đã cố ý gây 
ra một thiệt hại cho lợi ích nào đó mà 
pháp luật bảo vệ và nhận thức được thiệt 
hại mà mình gây ra là nhỏ hơn thiệt hại 
cần ngăn chặn. 
Tại Khoản 3 Điều 26 đang phân tích 
trên đây, nhà làm luật Cộng hoà Ba Lan 
còn quy định trách nhiệm hình sự đối với 
hành vi vượt quá yêu cầu của tình thế cấp 
thiết, theo đó, Toà án có thể giảm nhẹ đặc 
biệt hình phạt, thậm chí không áp dụng 
hình phạt đối với người phạm tội. 
Trong Bộ luật hình sự Cộng hòa Tây 
Ban Nha, chế định tình thế cấp thiết được 
nhà làm luật quy định một cách cô đọng 
và chính xác. Theo Điểm 5 Khoản 3 Điều 
21 Bộ luật hình sự này, một người để ngăn 
chặn thiệt hại mà một nguy cơ đang thực 
sự đe dọa gây ra cho bản thân họ hoặc cho 
người khác, đã gây ra một thiệt hại hoặc 
làm giảm quyền của người khác hoặc đã vi 
phạm nghĩa vụ, thì không phải chịu trách 
nhiệm hình sự nếu đáp ứng các điều kiện 
sau đây: 
Thứ nhất, thiệt hại đã gây ra không lớn 
hơn thiệt hại cần ngăn chặn; 
Thứ hai, tình thế cấp thiết đó không 
bắt đầu xuất hiện từ lý do khiêu khích của 
người đã gây ra thiệt hại; 
Thứ ba, việc cứu nguy để bảo vệ quyền 
và lợi ích nào đó không phải là trách 
nhiệm nghề nghiệp của người ở vào tình 
thế cấp thiết. 
Phân tích nội dung Điều 21 trên đây có 
thể thấy, nhà làm luật Cộng hoà Tây Ban 
Nha có cách tiếp cận nhất quán đối với 
vấn đề về hành vi khiêu khích trong 
phòng vệ chính đáng cũng như trong tình 
thế cấp thiết. 
Nội dung của Điểm 5 Khoản 3 Điều 21 
Bộ luật hình sự Cộng hoà Tây Ban Nha 
giống nội dung của Khoản 3 Điều 21 Bộ 
luật Hình sự Cộng hoà nhân dân Trung 
Hoa và chỉ liên quan đến chủ thể đặc biệt 
của tội phạm. Khác với Bộ luật hình sự 
Cộng hoà nhân dân Trung hoa, Bộ luật 
hình sự Cộng hoà Tây Ban Nha không thể 
chế hóa vấn đề quyết định hình phạt đối 
với trường hợp vượt quá giới hạn tình thế 
cấp thiết. 
Trong Bộ luật hình sự Cộng hòa Thụy 
Sĩ, nội dung của chế định tình thế cấp 
thiết được mô tả một cách chi tiết. Theo 
Điều 34, nếu chủ thể thực hiện hành vi 
nhằm ngăn chặn một nguy cơ mà không 
thể khắc phục bằng các phương tiện khác 
và đang trực tiếp đe dọa tính mạng, danh 
dự, nhân phẩm, tự do, tài sản hay lợi ích 
khác của mình, thì không bị coi là người 
phạm tội nếu họ không có lỗi trong việc để 
xảy ra nguy cơ và theo các tình tiết của vụ 
việc không đòi hỏi phải “hy sinh” lợi ích 
đang bị đe dọa đó. Nếu người thực hiện 
hành vi có lỗi trong việc để xảy ra nguy cơ 
và theo các tình tiết của vụ việc không 
được gây thiệt hại để ngăn chặn nguy cơ 
đe dọa lợi ích của mình, thì theo niềm tin 
nội tâm Thẩm phán có thể giảm nhẹ hình 
phạt cho người phạm tội. 
Cần lưu ý rằng, theo Bộ luật hình sự 
Cộng hòa Thụy Sĩ, tình thế cấp thiết do 
khiêu khích (theo tiếng Thụy Sĩ là “có lỗi 
trong việc tạo ra nguy cơ”) có thể được xem 
là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. 
Khoản 2 Điều 34 Bộ luật hình sự Cộng 
hòa Thụy Sĩ quy định các điều kiện của tính 
hợp pháp của việc thực hiện tình thế cấp 
thiết đối với người thứ ba. Chẳng hạn, nếu 
một người thực hiện hành vi gây ra một 
thiệt hại nhằm ngăn chặn một nguy cơ mà 
không thể khắc phục bằng các biện pháp 
khác và đang trực tiếp đe dọa tính mạng, 
 chế định tình thế cấp thiết trong luật hình sự... 
 Nhân lực khoa học xã hội Số 5-2013 6 
danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản hay lợi 
ích khác của người khác, thì không bị coi là 
người phạm tội. Đối với chủ thể nhận thức 
được rằng, để ngăn chặn nguy cơ đang đe 
dọa lợi ích của người thứ ba, họ không cần 
phải gây ra một thiệt hại nào cả, thì căn cứ 
vào niềm tin nội tâm, Thẩm phán có thể 
giảm nhẹ hình phạt cho người phạm tội. 
Phân tích các quy phạm trên đây về 
tình thế cấp thiết có thể thấy nhà làm luật 
Cộng hòa Thụy Sĩ không tái tạo một yêu 
cầu đã được thừa nhận chung, theo đó 
thiệt hại gây ra cần phải nhỏ hơn thiệt hại 
cần ngăn ngừa. Nhà làm luật yêu cầu xuất 
phát từ các tình tiết của vụ việc giải quyết 
vấn đề “gây ra một thiệt hại cho lợi ích 
đang bị đe dọa”. Rõ ràng là, nhà làm luật 
muốn nói về những tình tiết đặc biệt nào 
đó. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự đã không 
chỉ ra những tình tiết như vậy. 
Cách tiếp cận của nhà làm luật Cộng 
hoà Liên bang Đức về tình thế cấp thiết có 
nét đặc thù nhất định. Pháp luật hình sự 
Cộng hòa Liên bang Đức phân biệt tình 
thế cấp thiết hợp pháp với tình thế cấp 
thiết loại trừ hoặc giảm nhẹ mức độ lỗi 
của người thực hiện. Theo Điều 34 Bộ luật 
Hình sự Cộng hòa Liên bang Đức, hành vi 
được coi là cấp thiết hợp pháp nếu được 
thực hiện để ngăn ngừa một nguy cơ đang 
đe doạ tính mạng, sức khoẻ, tự do, danh 
dự, sở hữu hoặc lợi ích hợp pháp khác của 
bản thân hoặc của người khác và qua so 
sánh các lợi ích cần được bảo vệ và bị đe 
doạ xâm phạm thấy rằng lợi ích cần được 
bảo vệ lớn hơn lợi ích bị đe doạ xâm phạm. 
Tuy nhiên, hành vi phải được coi là 
phương tiện phù hợp để trừ bỏ nguy cơ đe 
dọa xâm phạm lợi ích cụ thể. 
Theo Điều 35 Bộ luật hình sự Cộng hoà 
Liên bang Đức, tình thế cấp thiết loại trừ 
hoặc giảm nhẹ mức độ lỗi là tình thế của 
một người đã thực hiện hành vi trái pháp 
luật là để ngăn ngừa một nguy cơ không 
thể khắc phục và đang đe doạ tính mạng, 
sức khoẻ và tự do của bản thân, của 
những người thân thích hoặc của những 
người gần gũi khác. Quy định này bị nhiều 
nhà luật học tại các nước khác nhau trên 
thế giới phê phán. Trên thực tế, người ta 
hoàn toàn không hiểu được đâu là tính 
hợp lý và đâu là tính có lập luận khoa học 
của cách tiếp cận này. Nếu như cho rằng 
người thực hiện hành vi trong điều kiện 
của tình thế cấp thiết hợp pháp là không 
có lỗi, thì những quy định tại Điều 35 nói 
trên phải được coi là những quy định thừa 
vì xét về thực chất Điều 35 chỉ lặp lại 
những quy định tại Điều 34 của Bộ luật 
Hình sự Cộng hòa Liên bang Đức mà thôi. 
Trong Bộ luật hình sự Cộng hoà Liên 
bang Đức còn quy định rằng, nếu người 
nào đó tự mình làm xuất hiện nguy cơ 
hoặc do các mối quan hệ pháp luật đặc 
biệt mà có nghĩa vụ không để xảy ra nguy 
cơ nhưng nguy cơ vẫn xảy ra, thì phải chịu 
trách nhiệm hình sự. 
Tình thế cấp thiết được nhà làm luật 
Cộng hoà Pháp biểu đạt bằng cụm từ “sự 
bảo vệ chống lại nguy cơ xâm hại”. Theo 
Điều 122-7 Bộ luật hình sự Cộng hòa 
Pháp, người nào đứng trước một nguy cơ 
đang thực tế đe dọa xâm phạm tài sản 
hoặc tính mạng, sức khỏe, danh dự, tự do 
của mình hoặc người khác, đã thực hiện 
hành vi cần thiết để chống lại nguy cơ 
xâm hại đó thì không phải chịu trách 
nhiệm hình sự trừ trường hợp phương tiện 
được sử dụng không tương xứng với tính 
chất nghiêm trọng của nguy cơ xâm hại 
các lợi ích nói trên. 
ở Hoa Kỳ, trách nhiệm hình sự trong 
 hồ sỹ sơn 
Số 5-2013 Nhân lực khoa học xã hội 7 
trường hợp vượt quá giới hạn tình thế cấp 
thiết được nhà làm luật biểu đạt bằng 
thuật ngữ “việc gây thiệt hại là cần thiết”. 
Theo Điều 35.05 Bộ luật Hình sự Bang 
New York, được coi là cần thiết và không 
bị trừng trị về hình sự nếu hành vi gây 
thiệt hại được thực hiện như biện pháp 
đặc biệt cần thiết để ngăn ngừa thiệt hại 
do nguy cơ không tự người đó tạo ra đe 
dọa gây thiệt hại cho Nhà nước hoặc cá 
nhân. Đồng thời, thiệt hại cần ngăn ngừa 
phải là nghiêm trọng mà xét theo các tiêu 
chuẩn thông thường của trí tuệ và đạo lý, 
không để xảy ra thiệt hại đó là việc làm 
cấp bách và cần thiết. 
Như vậy, tình thế cấp thiết được nhìn 
nhận như là một biện pháp đặc biệt nhằm 
ngăn chặn một nguy cơ đang đe doạ gây ra 
một thiệt hại nhất định. Tính nghiêm 
trọng của thiệt hại được xác định dựa trên 
cơ sở “các tiêu chuẩn thông thường của trí 
tuệ và đạo lý”. Nhìn từ góc độ áp dụng 
pháp luật, việc xác định không rõ ràng và 
cụ thể cơ sở của việc đánh giá tính nghiêm 
trọng của thiệt hại như trên dẫn đến việc 
đánh giá thiệt hại trong thực tiễn xét xử 
bằng các tiêu chí khác nhau và và dĩ nhiên 
không thể đảm bảo tính thống nhất của 
việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, việc xác 
định cơ sở đánh giá tính nghiêm trọng của 
thiệt hại như đã nêu trên cũng có những 
mặt tích cực. Ví dụ, nó định hướng cho việc 
xác định cái gọi là “con người trung bình” 
mà không cần phải nghiên cứu mọi chi tiết 
của Luật Hình sự. Ngoài ra, đúng như các 
nhà luật học nước Mỹ thích nhắc đi nhắc 
lại câu nói rằng nếu người nào đó xuất 
phát từ những tiêu chuẩn thông thường 
của trí tuệ và đạo lý mà cho rằng hành vi 
nhất định nào đó là hợp pháp thì được 12 
người đồng bào của mình - 12 thành viên 
của Toà bồi thẩm ủng hộ. 
Theo Bộ luật hình sự bang Penxinvanhia, 
ở vào tình thế cấp thiết, chủ thể phải “lựa 
chọn điều tệ hại”, nghĩa là phải lựa chọn 
điều tệ hại (thiệt hại gây ra hoặc thiệt hại 
cần ngăn ngừa) ít hơn. Khi lựa chọn đúng 
điều tệ hại cũng có nghĩa là không vượt 
quá giới hạn tình thế cấp thiết. Vấn đề 
trách nhiệm hình sự đối với người vượt 
quá giới hạn tình thế cấp thiết chưa được 
pháp luật điều chỉnh. 
ở nước Anh, pháp luật quy chế không 
điều chỉnh chế định tình thế cấp thiết. 
Chế định này được điều chỉnh bằng một số 
lượng không nhỏ các án lệ. Tuy nhiên, 
đúng như Đzh. Phletcher đã nhận xét 
rằng, từ lâu người ta đã nhìn thấy nhược 
điểm của án lệ trong việc điều chỉnh các 
vấn đề của tình thế cấp thiết. Chẳng hạn, 
vào cuối thế kỷ thứ XIX, các Toà án ở nước 
Anh đã gặp phải những khó khăn, vướng 
mắc trong việc định tội danh đối với 
những hành vi liên quan đến nạn đắm 
tàu. Cụ thể là, sau nhiều ngày lênh đênh 
trên một chiếc bè trên đại dương (vùng 
biển quốc tế) trong điều kiện vừa thiếu 
nước lại vừa thiếu thực phẩm, hai thuỷ 
thủ là Đadli và Stevens đã giết và ăn thịt 
thuỷ thủ ít tuổi hơn là Parker, nhờ vậy mà 
họ sống sót. Hậu quả là họ bị buộc tội về 
tội giết người. Toà án của nước Anh không 
chấp nhận hành vi giết và ăn thịt người 
mà các thuỷ thủ đã thực hiện là hành vi 
được thực hiện trong tình thế cấp thiết và 
áp dụng hình phạt tử hình đối với họ. Nữ 
hoàng Anh đã thay hình phạt tử hình đã 
tuyên đối với các thuỷ thủ bằng phạt tù 
giam sáu tháng(1). 
Việc đánh giá tính chất pháp lý đối với 
trường hợp nêu trên quả là rất khó khăn. 
(1) Xem Luật hình sự hiện đại nước ngoài, tập 3, 
Matxcơva, Nxb. Ngoại văn.1961, Tr. 283 (tiếng Nga). 
 chế định tình thế cấp thiết trong luật hình sự... 
 Nhân lực khoa học xã hội Số 5-2013 8 
Thậm chí cả khi dựa trên những luận 
điểm đã được học thuyết pháp lý cũng như 
thực tiễn xét xử thừa nhận là trong tình 
thế cấp thiết thiệt hại gây ra cần nhỏ hơn 
thiệt hại cần ngăn ngừa để kết luận hành 
vi của hai thuỷ thủ Đadli và Stevens 
thuộc trường hợp tình thế cấp thiết cũng 
sẽ làm cho chúng ta không khỏi ngạc 
nhiên bởi tính phi nhân tính của nó. Xin 
nhắc lại rằng, trong trường hợp nêu trên, 
hai thuỷ thủ ăn thịt một thuỷ thủ trẻ tuổi 
hơn là đã gây ra thiệt hại nhỏ hơn (một 
người chết) còn thiệt hại cần ngăn ngừa là 
thiệt hại lớn hơn (ba người chết). 
Đối chiếu, phân tích, đánh giá các quy 
định của chế định tình thế cấp thiết trong 
Bộ luật hình sự của các nước khác nhau 
trên thế giới có thể thấy các quy định của 
chế định này trong Bộ luật hình sự Việt 
Nam năm 1999 là tối ưu hơn cả. Tính tối 
ưu của các quy định đó thể hiện rõ nét 
nhất ở giới hạn phân biệt tình thế cấp 
thiết với vượt quá giới hạn tình thế cấp 
thiết. Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự 
của các nước trên thế giới cũng có những 
quy định khá lý thú của chế định tình thế 
cấp thiết. Trước hết, đó là quy định 
nghiêm cấm hành vi cố ý tạo ra nguy cơ đe 
dọa các lợi ích mà pháp luật bảo vệ để rồi 
thực hiện cái gọi là tình thế cấp thiết. Cần 
nhắc lại rằng, hành vi này bị coi là tội 
phạm và bị trừng trị về hình sự. 
Trong Bộ luật hình sự của một số nước 
(Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Cộng hoà 
Tây Ban Nha) có những quy định, theo đó 
những chủ thể mà theo tính chất chuyên 
môn nghề nghiệp (như cứu hoả, cứu hộ...) 
không được gây thiệt hại cho người khác để 
bảo toàn tính mạng của mình, kể cả trong 
tình thế cấp thiết. Cách tiếp cận này, thiết 
nghĩ là hoàn toàn có lôgic và đúng đắn. 
Quả thực, sẽ là sai lầm nếu áp dụng quy 
phạm về tình thế cấp thiết đối với những 
người mà sự hy sinh của bản thân vì những 
người khác là nghĩa vụ cao cả của họ. Kinh 
nghiệm lập pháp này, theo chúng tôi cần 
được nhà làm luật Việt Nam tiếp nhận để 
hoàn thiện chế định tình thế cấp thiết 
trong Luật hình sự Việt Nam. 
TàI LIệU THAM KHảO 
1. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 
(được sửa đổi, bổ sung năm 2009). 
2. Bộ luật Hình sự Liên bang Nga năm 1996, 
Nxb. Pháp lý, Mátxcơva, 1996 (tiếng Nga). 
3. Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 
năm 1787 (tiếng Nga). 
4. Bộ Tổng tập luật Hoa Kỳ- Mục 18, 
trong sách: “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ: 
Hiến pháp và các văn bản pháp luật”, 
Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1993 (tiếng Nga). 
5. Bộ luật Hình sự Mẫu Hợp chủng 
quốc Hoa Kỳ, dịch từ tiếng Anh, Nxb. 
Pháp lý, Mátxcơva, 1969 (tiếng Nga). 
6. Cách nhìn của Hoa Kỳ đối với Luật 
hình sự, Chương III trong sách: “Chuyên đề 
về tư pháp hình sự so sánh” (Tủ sách Luật 
so sánh), Thông tin Khoa học pháp lý, Viện 
Nghiên cứu khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) 
xuất bản, Hà Nội, 1999, tr. 66-74. 
7. Đạo luật Vương quốc Anh năm 1967 
về Luật hình sự (tiếng Nga). 
8. Đạo luật Vương quốc Anh năm 1981 
về tội phạm chưa hoàn thành (tiếng Nga). 
9. Đạo luật Vương quốc Anh năm 1968 
về tội trộm cắp tài sản (tiếng Nga). 
10. Đạo luật Vương quốc Anh năm 1997 
về tội phạm (tiếng Nga). 
11. Đạo luật Vương quốc Anh về Tư 
pháp hình sự (tiếng Nga). 
12. Đạo luật Vương quốc Anh năm 1961 
về tự sát (tiếng Nga). 
13. Bộ luật Hình sự Cộng hòa nhân dân 
Trung Hoa năm 1997 (tiếng Nga). 

File đính kèm:

  • pdfche_dinh_tinh_the_cap_thiet_trong_luat_hinh_su_nhin_tu_goc_d.pdf