Đạo đức học trong một số trào lưu triết học tôn giáo Phương Tây đương đại

Tóm tắt Đạo đức học trong một số trào lưu triết học tôn giáo Phương Tây đương đại: ...c phục hồi sự thống nhất của Giáo hội Công giáo, Giáo hội Chính Thống giáo và Giáo hội Tin Lành giáo trong khuôn khổ Kitô giáo và tầm quan trọng của sự xích lại gần nhau của tất cả các tôn giáo thế giới. Thừa nhận những sai lầm của Công giáo và thể hiện sự hối 4. Xem: Gustafson, James ... hiện sinh và khiến con ng−ời xích lại gần với siêu nghiệm và thực hiện “b−ớc nhảy đến cái tuyệt đối của tồn tại”. Nhiệm vụ của triết học không phải ở chỗ nhận thức tồn tại, mà ở chỗ chứng thực nó. Triết học mang tính giao tiếp. Tính giao tiếp của triết học thể hiện trong hiện sinh có ...ện thực. Theo họ, với tính cách là sự tiền định của Chúa, đạo đức thuộc về lĩnh vực quan hệ của con ng−ời đối với Chúa và tạo ra tồn tại đích thực cho bản thân con ng−ời. Từ quan điểm của họ, đạo đức chính là sự quay trở về với Chúa và chính là tình yêu đối với Chúa, là tha thứ và công...

pdf9 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 209 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đạo đức học trong một số trào lưu triết học tôn giáo Phương Tây đương đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
í của tồn tại có nguồn gốc từ Chúa và là 
cơ sở cho giới tự nhiên cũng nh− cho các 
mối quan hệ đạo đức trong xã hội, J. 
Maritain đ−a ra t− t−ởng về “chủ nghĩa 
nhân văn toàn phần”, trong đó ông chủ 
tr−ơng thống nhất giữa khoa học, kĩ 
thuật và tôn giáo. Còn Karl Rahner, khi 
đ−a ra nguyên tắc “nhân học thần học”, 
đã làm rõ các đặc thù của tồn tại trong 
thế giới của con ng−ời nh− tính khai mở 
th−ờng trực và sự siêu v−ợt h−ớng đến 
tồn tại của Chúa. 
Giáo hoàng Gioan Phaolô II đ−ợc xem 
là nhà cải cách sâu sắc và triệt để đối với 
giáo lí Công giáo, ng−ời chủ tr−ơng làm 
cho giáo lí đó phù hợp với thực tế của 
thời đại cả ở ph−ơng diện lí luận, lẫn 
ph−ơng diện thực tế. ủng hộ t− t−ởng 
giáo hội thế giới, ông đã luận giải sự cần 
thiết của việc phục hồi sự thống nhất của 
Giáo hội Công giáo, Giáo hội Chính 
Thống giáo và Giáo hội Tin Lành giáo 
trong khuôn khổ Kitô giáo và tầm quan 
trọng của sự xích lại gần nhau của tất cả 
các tôn giáo thế giới. Thừa nhận những 
sai lầm của Công giáo và thể hiện sự hối 
4. Xem: Gustafson, James M., Protestant and 
Roman Catholic Ethics, The University of Chicago 
Press, Chicago and London, 1978, pp. 46 - 59. 
5. Xem: Sđd, tr. 80 - 94. 
6 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2013 
 
tiếc về những sai lầm đó tr−ớc Chúa và 
con ng−ời, ông đã bênh vực đạo đức học 
phi bạo lực trong việc giải quyết các 
cuộc xung đột giữa các quốc gia, giữa 
các tôn giáo trong thế kỉ XX(6). 
2. Đạo đức học trong chủ nghĩa hiện 
sinh tôn giáo 
Chủ nghĩa hiện sinh là một trong 
những trào l−u có ảnh h−ởng trong triết 
học – đạo đức học Ph−ơng Tây thế kỉ XX, 
thuộc khuynh h−ớng nhân bản phi duy lí 
với các đại biểu chính nh− S. 
Kierkegaard (1813-1855), M. Heidegger 
(1889-1976), K. Jaspers (1883-1969), J. P. 
Sartre (1905-1980), A. Camus (1913-1960), 
G. H. Marcel (1889 - 1973)... Trào l−u này 
chịu ảnh h−ởng của các trào l−u triết học 
khác nh− hiện t−ợng luận, chủ nghĩa 
Kant mới, triết học đời sống, chủ nghĩa 
nhân vị Căn cứ vào quan niệm về 
Th−ợng Đế và về vai trò của Th−ợng Đế, 
có thể chia chủ nghĩa hiện sinh làm hai 
hình thái chủ yếu là chủ nghĩa hiện sinh 
hữu thần (Kierkegaard, Karl Jaspers, G. 
Marcel...) và chủ nghĩa hiện sinh vô thần 
(Martin Heidegger, J. P. Sartre...). ở đây, 
chúng tôi chỉ tập trung vào đạo đức học 
của chủ nghĩa hiện sinh hữu thần hay 
chủ nghĩa hiện sinh tôn giáo. 
S. Kierkegaard đ−ợc coi là ng−ời đặt 
nền tảng cho chủ nghĩa hiện sinh nói 
chung, và chủ nghĩa hiện sinh tôn giáo 
nói riêng. Phê phán triết học Hegel ở chỗ 
đã biến con ng−ời cá nhân thành tù nhân 
trong sự thống trị “vô danh” của lịch sử, 
thủ tiêu tính độc lập và tự do của cá 
nhân, Kierkegaard đã đ−a ra phép biện 
chứng chủ quan đối lập với phép biện 
chứng khách quan của Hegel. 
Kierkegaard coi phép biện chứng chủ 
quan là ph−ơng tiện để duy trì mối quan 
hệ của cá nhân với Th−ợng Đế. Ông cho 
rằng, để h−ớng đến Th−ợng Đế, con 
ng−ời cần phải v−ợt qua 3 giai đoạn: giai 
đoạn thẩm mĩ, giai đoạn đạo đức và giai 
đoạn tôn giáo. Theo ông, triết học cần 
quay trở về với con ng−ời, xem xét đời 
sống con ng−ời, những đau khổ của con 
ng−ời, học cách lựa chọn giữa cái thiện 
và cái ác, tìm ra “cái tôi” của mình, “cái 
đích thực” mà ng−ời ta có thể sẵn sàng 
sống chết vì nó(7). 
G. H. Marcel (1889 - 1973) là triết gia 
Pháp, ng−ời sáng lập của chủ nghĩa hiện 
sinh Kitô giáo. Cho rằng không thể luận 
giải tôn giáo ở ph−ơng diện duy lí, ông 
đã kh−ớc từ chủ nghĩa Tômát và tập 
trung vào các vấn đề tôn giáo đạo đức. 
Theo quan điểm của Marcel, Chúa tồn tại, 
nh−ng Chúa không phải là hiện thực 
khách quan, không phải là bộ phận của 
thế giới “các sự vật”. Vì vậy, không thể 
hình dung, định nghĩa hay suy t− về 
Chúa. Suy t− về Đức Tin bị coi là không 
có Đức Tin. “Thế giới tri thức và thế giới 
Đức Tin” đ−ợc coi là khác nhau. Marcel 
coi chủ thể “tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại” 
ở Descartes là nền tảng cho việc khám 
phá toàn bộ thế giới. Cái tôi này là bằng 
chứng tuyệt đối, không thể bác bỏ về tồn 
tại ng−ời của cá nhân nh− một hiện thực 
huyền bí. Theo ông, hiện thực này không 
6. Lovin, Robin W., Christian Ethics. An Essential 
Guide, Abingdon Press, Nashville, 2000, pp. 54 - 60. 
7. Xem: Bourke, Vernon J., History of Ethics, 
Volume 2: Modern and Contemporary Ethics, Axios 
Press, 2008, pp. 237 - 241; Warnock, Mary, 
Existential Ethics, Macmillan St. Martin’s Press, 
1967, pp. 4 - 11. 
Nguyễn Vũ Hảo. Đạo đức học trong  7 
 
thể đ−ợc lí giải bằng lí tính, mà chỉ có 
thể tiếp cận một cách trực tiếp thông qua 
cảm nhận từ bên trong. 
Theo Marcel, đời ng−ời đ−ợc nhìn 
nhận chủ yếu thông qua sự t−ơng phản 
giữa những gì mà ng−ời ta có nh− 
những đồ vật, t− t−ởng, tình cảm và 
những gì là chính đời ng−ời, tạo nên bản 
chất của đời ng−ời. Trong tác phẩm “Là 
và có”, ông đối lập thế giới vật chất 
“khách quan” với thế giới “tồn tại”, tức là 
thế giới mà trong đó nhị nguyên luận 
chủ thể - khách thể đ−ợc khắc phục và tất 
cả các mối quan hệ đối với thế giới đ−ợc 
xem nh− có tính cá nhân. Trong ý nghĩa 
đó, thế giới trở thành lãnh địa đặc biệt, 
nơi không còn sự khác biệt giữa cái ở 
trong tôi và cái ở tr−ớc mắt tôi. Trong 
thế giới tồn tại, các mối quan hệ duy lí 
đ−ợc thay thế bởi các mối quan hệ cảm 
xúc - đạo đức. Theo Marcel, các mối quan 
hệ cảm xúc và lĩnh vực “tồn tại” thuộc về 
lĩnh vực phi duy lí, nên không thể tiếp 
cận đ−ợc bằng lí tính, bằng các khái 
niệm. Ông chủ tr−ơng giảm bớt ảnh 
h−ởng của xã hội đối với đời sống cá 
nhân và chỉ giao tiếp với “cái cao th−ợng 
về tinh thần”. Để khắc phục bi kịch của 
tồn tại cá nhân, cần có sự giao tiếp thần 
bí với Th−ợng đế. 
K. Jaspers là triết gia hiện sinh tôn 
giáo nổi tiếng ng−ời Đức. Phân tích các 
khái niệm “tồn tại” (“tồn tại trong thế 
giới”), “hiện sinh” (cái bản thân con 
ng−ời không bị khách quan hóa) và “siêu 
nghiệm” (giới hạn không bao trùm đ−ợc 
mọi tồn tại và t− duy), Jaspers bênh vực 
triết học về định h−ớng trong thế giới, 
và sử dụng “minh giải hiện sinh” và siêu 
hình học nhằm giải đ−ợc mã số của thế 
giới tuyệt đối. Theo ông, triết học cần 
mang đến những định h−ớng cho hành 
vi của con ng−ời trong thế giới, có khả 
năng soi tỏ hiện sinh và khiến con ng−ời 
xích lại gần với siêu nghiệm và thực 
hiện “b−ớc nhảy đến cái tuyệt đối của tồn 
tại”. Nhiệm vụ của triết học không phải ở 
chỗ nhận thức tồn tại, mà ở chỗ chứng 
thực nó. Triết học mang tính giao tiếp. 
Tính giao tiếp của triết học thể hiện 
trong hiện sinh có tính hiệu quả, tức là 
sự tồn tại trong mối t−ơng quan của nó 
với hiện sinh khác và siêu nghiệm. Về 
phần mình, mối t−ơng quan này đ−ợc 
thực hiện trong hành vi giao tiếp với 
tính cách là sự giao l−u chân thành, sâu 
sắc và mang tính cá nhân trong “chân lí”. 
Đối với Jaspers, giao tiếp là một trong 
những khái niệm trung tâm của triết học 
h−ớng đến việc phân tích các vấn đề đạo 
đức học, nhận thức luận và các vấn đề cơ 
bản khác gắn liền với cấu trúc thế giới 
quan. Theo ông, giao tiếp là cách thức mà 
con ng−ời đến đ−ợc với bản chất đích 
thực của mình. Bản thân tôi chỉ là tôi 
trong mối quan hệ t−ơng hỗ với các cái 
tôi khác. Đối với Jaspers, mọi cái ác (về 
mặt luân lí, xã hội và trí tuệ) là kết quả 
của việc đoạn tuyệt đối với những hiện 
sinh khác. Ông đ−a ra các khái niệm 
quan trọng khác cho triết học nói chung 
và đạo đức học nói riêng của mình nh− 
“ý chí giao tiếp”, “tự do”, “tình huống giới 
hạn”, “sự trung thành”...(8). Jaspers đồng 
nhất tự do với hiện sinh. Đối với ông, nếu 
8. Xem: Huegli, Anton und Luebcke, Poul (Hg.), 
Philosophie im 20. Jahrhundert, Bd. 1, Rowohl 
Taschenbuch GmbH, Hamburg, 1998, pp. 147 - 
153. 
8 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2013 
 
nhận thức là việc của khoa học, thì tự do 
chính là việc của triết học, của đạo đức 
học. Con ng−ời có thể là đối t−ợng của 
khoa học, nh−ng cũng có thể là tồn tại 
vì tự do. Khi con ng−ời đ−ợc nghiên cứu 
bởi khoa học, luôn có một cái gì đó 
không đ−ợc nhận thức, một tồn tại 
không đ−ợc khách quan hóa, một ranh 
giới của tồn tại ng−ời mà không thể trở 
thành đối t−ợng phân tích của khoa học. 
Chính điều này là giải thích tại sao 
ng−ời ta không thể tiếp cận nghiên cứu 
con ng−ời với tính cách là tự do trong 
nhận thức khoa học. Theo Jaspers, hiện 
sinh có thể xuất hiện trong các tình 
huống giới hạn nh− cái chết, sự đau khổ, 
trọng bệnh, tội lỗi... 
3. Đạo đức học trong thuyết Tin Lành 
mới 
Thuyết Tin Lành mới với các đại biểu 
chủ yếu nh− Karl Barth (1886 - 1968), 
Reinhold Niebuhr (1892 - 1971), 
Paul Tillich (1886 -1965), Emil 
Brunner (1889 - 1966) là sự phát triển từ 
thuyết Tin Lành của Martin Luther (1483 
- 1546) và Jean Calvin (1509 - 1564). Đạo 
đức học trong thuyết Tin Lành của 
Martin Luther h−ớng đến việc nhận thức 
phi duy lí, mang tính cá nhân về Đức 
Chúa Trời hay Th−ợng Đế, đến lao động 
tích cực và các giá trị đạo đức cao cả. Bác 
bỏ sự khác biệt giữa hai loại tiêu chuẩn 
đạo đức: tiêu chuẩn tự nhiên và tiêu 
chuẩn thần linh, Martin Luther cho 
rằng, cái thiện là cái mà Chúa mong 
muốn, còn cái ác là cái bị Chúa phê phán. 
Mặc dù coi con ng−ời là có khả năng 
đ−ợc giải thoát nhờ ân sủng của Chúa, 
các nhà sáng lập thuyết Tin Lành vẫn 
muốn chỉ ra cho con ng−ời rằng, khả 
năng giải thoát là nằm chính trong tay 
con ng−ời, rằng trách nhiệm về cuộc đời 
của mỗi ng−ời là thuộc về chính ng−ời 
đó, phụ thuộc vào các nỗ lực đạo đức của 
chính ng−ời đó. Theo ông, cuộc đối thoại 
giao cảm giữa con ng−ời và Chúa đ−ợc 
thiết lập và thực hiện, giúp con ng−ời trở 
thành nhân cách tự chủ về đạo đức, có 
khả năng thực hiện việc lựa chọn đạo 
đức một cách độc lập trong các tình 
huống cụ thể. Đức Tin đ−ợc xem là sự 
giao phó mình cho Th−ợng Đế với tính 
cách là lí t−ởng của tình yêu và lòng 
nhân từ(9). Cũng nh− Martin Luther, Jean 
Calvin - một nhà thần học cải cách nổi 
tiếng ng−ời Pháp, trong học thuyết thần 
học của mình đã thể hiện rõ quan niệm 
mới của mình đối với vấn đề lao động. 
Theo ông, tất cả mọi ng−ời, kể cả những 
ng−ời giàu có đều phải lao động, bởi vì 
lao động là phù hợp với ý Chúa. Trách 
nhiệm của con ng−ời là phụng sự với 
tính cách là công cụ của Chúa trên trần 
thế để thay đổi diện mạo của thế giới phù 
hợp với “n−ớc Chúa” và để trở thành một 
phần của quá trình sáng tạo thế giới. Vì 
vậy, đạo đức học Tin Lành còn đ−ợc gọi 
là đạo đức học về lao động. 
Đạo đức học Tin Lành đ−a ra quy tắc 
đạo đức dựa trên các nguyên tắc nh− tinh 
thần tiết kiệm, tính kỉ luật, tình yêu lao 
động và chủ nghĩa cá nhân. Trong tác 
phẩm Đạo đức Tin Lành và tinh thần của 
chủ nghĩa t− bản, Max Weber, một nhà t− 
t−ởng nổi tiếng ng−ời Đức đã đ−a ra 
những đánh giá sâu sắc về các phẩm 
9. Lovin, Robin W., Christian Ethics. An Essential 
Guide, Abingdon Press, Nashville, 2000, pp. 85 - 94. 
Nguyễn Vũ Hảo. Đạo đức học trong  9 
 
chất đạo đức này. Ông đã chỉ ra đ−ợc mối 
liên hệ chặt chẽ giữa đạo đức học Tin 
Lành và sự phát triển của chủ nghĩa t− 
bản. Nghiên cứu chủ nghĩa t− bản ở các 
khu vực Châu Âu, nơi đạo Tin Lành 
Calvin đ−ợc truyền bá rộng rãi, Weber đã 
đ−a ra các phân tích sâu sắc về mối liên 
hệ nhân quả giữa đời sống tôn giáo và 
đời sống kinh tế, đặc biệt về sự tác động 
của đạo đức tôn giáo nói chung, của đạo 
đức Tin Lành nói riêng đến đời sống 
kinh tế. 
Kế thừa các t− t−ởng của các nhà sáng 
lập thuyết Tin Lành, các đại biểu của 
thuyết Tin Lành mới nh− Karl Barth, 
Reinhold Niebuhr, Paul Tillich, Emil 
Brunner cho rằng, bẩm sinh trong bản 
chất của mình, con ng−ời vốn có tội lỗi, 
nh−ng lại không có khả năng thực hiện 
những điều răn dạy của Đức Chúa Giêsu 
trong cuộc sống hiện thực. Theo họ, với 
tính cách là sự tiền định của Chúa, đạo 
đức thuộc về lĩnh vực quan hệ của con 
ng−ời đối với Chúa và tạo ra tồn tại đích 
thực cho bản thân con ng−ời. Từ quan 
điểm của họ, đạo đức chính là sự quay trở 
về với Chúa và chính là tình yêu đối với 
Chúa, là tha thứ và công bằng, hoàn toàn 
khác với đạo đức trần tục gắn liền với 
những toan tính vị lợi và những lợi ích 
vật chất ích kỉ. Phân tích các khuynh 
h−ớng đạo đức hiện nay, Barth và Tillich 
đề cập đến nỗi lo sợ thần bí và mối lo 
lắng định mệnh của chủ thể đạo đức bắt 
nguồn từ sự tha hóa của chủ thể đó khỏi 
Th−ợng Đế. Emil Brunner cho rằng, lối 
thoát khỏi sự tha hóa đó có thể tìm thấy 
trong Đức Tin cá nhân, trong “sự tự siêu 
v−ợt” và việc học theo cách sống của Đức 
Chúa Giêsu. 
Còn theo Niebuhr, khả năng lựa chọn 
khác thay cho sự “bất an hiện sinh” 
chính là “chủ nghĩa hiện thực Kitô giáo” 
dựa trên niềm “hi vọng khiêm nh−ờng” 
vào ý Chúa mà nhận thức duy lí khoa 
học không thể tiếp cận đ−ợc. Từ quan 
điểm của ông, sự thay đổi các quan hệ 
đạo đức cần phải dựa vào các quá trình 
tinh thần mang tính phổ quát. Chính các 
quá trình tinh thần này đã buộc tiến bộ 
khoa học kĩ thuật trong đời sống vật 
chất “bên ngoài” của cộng đồng phải 
tuân theo thế giới quan thần học - tôn 
giáo bị cá nhân hóa. Niebuhr khẳng định 
rằng, Đức Tin cá nhân trong các điều 
kiện hiện đại có thể điều chỉnh thế giới 
quan của mỗi ng−ời, giúp con ng−ời 
tránh đ−ợc các hành động thiếu suy 
nghĩ(10). Theo đạo đức học trong thuyết 
Tin Lành mới, tiêu chuẩn đạo đức cần 
đ−ợc chuyển dịch vào bên trong ý thức 
của con ng−ời và trở thành chính l−ơng 
tâm của con ng−ời. 
 4. Đạo đức học trong thuyết Teilhard 
de Chardin 
Teilhard de Chardin (1881-1955) là một 
nhà triết học, một linh mục ng−ời Pháp, 
ng−ời sáng lập của thuyết triết học tôn 
giáo mang tên ông - thuyết Teilhard de 
Chardin, thuyết về sự hình thành vũ trụ 
và con ng−ời. 
Các nguyên tắc đạo đức đ−ợc Teilhard 
de Chardin đ−a ra trong các tác phẩm 
nh− “Môi tr−ờng thần thánh” (1927), 
“Hiện t−ợng con ng−ời” (1838-1940). Là 
một nhà thần học Công giáo, Teilhard de 
10. Xem: Gustafson, James M., Protestant and 
Roman Catholic Ethics, The University of Chicago 
Press, Chicago and London, 1978, pp. 62 – 80. 
10 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2013 
 	
Chardin đã đ−a ra giải pháp Kitô giáo về 
đạo đức học tiến hóa phù hợp với học 
thuyết của ông về nguồn gốc của vũ trụ. 
Theo học thuyết này, sự phát triển của vũ 
trụ diễn ra theo một h−ớng xác định, 
tuân theo quá trình hình thành và phát 
triển của tinh thần. Theo ông, đạo đức 
xuất hiện chỉ ở một giai đoạn nhất định 
trong sự tiến hóa của sự sống với tính 
cách là sự hoàn thành của cơ học và sinh 
học. Theo ông, mục tiêu của đạo đức là ở 
chỗ hạn chế thói ích kỉ của con ng−ời, 
điều chỉnh và điều khiển năng l−ợng của 
con ng−ời theo một h−ớng cần thiết. 
Teilhard de Chardin đ−a ra lí giải về 
sinh học và vũ trụ bằng các phạm trù 
đạo đức học. Theo ông, cái thiện là tất cả 
những gì thúc đẩy sự tiến hóa, sự gia 
tăng trình độ tổ chức của vật chất và sự 
phát triển của ý thức; còn cái ác đ−ợc 
xem là tất cả những gì gây trở ngại cho 
sự liên kết các yếu tố thành các hệ thống 
có tổ chức cao và kìm hãm “sự tiến bộ 
của tinh thần”. Coi sứ mạng của con 
ng−ời là ở chỗ tiếp tục sự sáng tạo của 
quá trình tiến hóa một cách có ý thức, 
Teilhard de Chardin cho rằng, vị trí và 
vai trò của con ng−ời trong sự hình 
thành vũ trụ chính là cơ sở khách quan 
cho phạm trù “trách nhiệm”. Con ng−ời 
phải chịu trách nhiệm về thành công của 
sự tiến hóa. Khi biến đổi vật chất, con 
ng−ời cần chống lại cái ác và tạo điều 
kiện cho sự phát triển chung của tinh 
thần. Con ng−ời có thể đạt đ−ợc sự hoàn 
thiện về tinh thần nhờ tiếp cận đến với ý 
thức tập thể. Từ quan niệm của ông, đạo 
đức học tiến hóa cần đồng thời là đạo 
đức học Kitô giáo, bởi vì đạo đức chỉ có 
thể thực hiện chức năng của mình nhờ sự 
luận giải của Kitô giáo. Với sự luận giải 
đó, con ng−ời ý thức đ−ợc mối liên hệ của 
cuộc sống với “cực tinh thần và siêu 
nghiệm của khế −ớc phổ quát” với tính 
cách là nhân tố định h−ớng cho quá 
trình tiến hóa nhờ ân sủng của Chúa. 
Trong đạo đức học của mình, Teilhard 
de Chardin coi linh hồn bất tử và sự tồn 
tại của Th−ợng Đế là điều kiện tất yếu và 
sự đảm bảo cho hoạt động có ý thức con 
ng−ời trong việc thực hiện quá trình tiến 
hóa. Khác với đạo đức học Kitô giáo 
truyền thống, đạo đức học của Teilhard 
de Chardin nhấn mạnh các đặc điểm 
mang tính nhân văn nh− nguyên tắc tập 
thể, yêu cầu về mối quan hệ hoạt động 
đối với thế giới và các năng lực sáng tạo 
của con ng−ời. Tuy nhiên, đạo đức học 
của Teilhard de Chardin cũng có những 
hạn chế về ph−ơng pháp luận liên quan 
đến đạo đức học tiến hóa gắn liền với 
Kitô giáo. 
5. Đạo đức học của chủ nghĩa nhân 
văn 
Đạo đức học của chủ nghĩa nhân văn 
đ−ợc nhà triết học thần học ng−ời Đức, 
sau mang quốc tịch Pháp, Albert 
Schweitzer (1875 - 1965) khởi x−ớng. 
Schweitzer đ−ợc xem là nhà t− t−ởng 
nhân văn nổi tiếng đ−ơng đại. 
Theo Schweitzer, nhân loại đang đứng 
tr−ớc những nguy cơ đe dọa nghiêm 
trọng cho sự tồn tại của mình với các 
cuộc khủng hoảng sinh thái, sự tha hóa 
lao động và tha hóa tinh thần. Con ng−ời 
đánh mất vai trò của mình với tính cách 
là chủ thể của văn hóa, đánh mất tính 
độc lập về tinh thần, tự do về kinh tế, bị 
chia rẽ, bị cằn cỗi về tình cảm và trở 
Nguyễn Vũ Hảo. Đạo đức học trong  11 
 
thành nạn nhân của những phán xét hời 
hợt và những nhận định sai trái. 
 Theo ông, với tính cách là “linh hồn 
của văn hóa”, đạo đức học có thể coi là 
ph−ơng tiện chủ yếu để khắc phục sự 
khủng hoảng tinh thần đó trong nền văn 
minh nhân loại. Schweitzer cho rằng, sự 
đồi bại của xã hội hiện đại liên quan đến 
sự tách rời của văn hóa khỏi cơ sở đạo 
đức của nó và sự bận tâm quá mức của 
con ng−ời đến vật chất. 
Kế thừa t− t−ởng triết học ấn Độ và 
Trung Quốc Cổ đại, Schweitzer đã xây 
dựng một đạo đức học phổ quát với tính 
cách là học thuyết về mối quan hệ thân 
thiện đối với mọi sinh vật. Cơ sở cho tồn 
tại ng−ời, từ quan điểm của ông, là khát 
vọng sống mang tính phổ quát với luận 
điểm “Tôi là cuộc sống muốn đ−ợc sống 
giữa cuộc sống muốn đ−ợc sống”. Nh− 
thế, nguyên tắc đạo đức học chủ yếu đ−ợc 
đ−a ra là “sự tôn kính tr−ớc sự sống”. 
Nguyên tắc này chính là tiêu chuẩn phân 
biệt giữa cái thiện và cái ác. Cái thiện 
gắn liền với tất cả những gì h−ớng đến 
việc duy trì và đề cao sự sống. Ng−ợc lại, 
cái ác gắn liền với tất cả những gì gây 
thiệt hại cho sự sống. 
Trong suốt cuộc đời mình, Schweitzer 
đã trung thành với nguyên tắc đạo đức 
đó, một nguyên tắc của chủ nghĩa nhân 
văn trong thực tiễn. Ông đã sang Châu 
Phi, điều trị bệnh miễn phí cho những 
ng−ời nghèo, lên án việc sử dụng vũ khí 
hạt nhân và phản kháng chống lại chủ 
nghĩa phát xít, chủ nghĩa phân biệt 
chủng tộc cùng các biến dạng khác của 
hệ t− t−ởng phi nhân tính. 
Tóm lại, trong thế kỉ XX và hiện nay, 
có nhiều trào l−u và các cách tiếp cận tôn 
giáo khác nhau đối với vấn đề đạo đức. 
Cho dù theo khuynh h−ớng duy lí hay 
phi duy lí, đạo đức học trong các trào l−u 
tôn giáo học Ph−ơng Tây đ−ơng đại đều 
có những đặc điểm chung nh− sau. Thứ 
nhất, là thừa nhận sự tồn tại của Th−ợng 
Đế nh− nền tảng căn bản cho toàn bộ đời 
sống tinh thần và đạo đức của con ng−ời 
và nhân loại; Thứ hai, là mong muốn 
chuyển từ sự đối đầu gay gắt với khoa 
học và t− t−ởng đạo đức học thế tục sang 
đối thoại và khẳng định khả năng dung 
hợp giữa khoa học và tôn giáo; Thứ ba, là 
chủ tr−ơng đề cao chủ nghĩa nhân văn 
và tôn vinh những giá trị của con ng−ời 
gắn liền với những thành tựu của nền 
văn minh nhân loại và tiến trình lịch sử 
của vũ trụ. 
Tuy nhiên, bất cập chủ yếu của các 
quan niệm đạo đức học tôn giáo này là ở 
chỗ xem con ng−ời d−ờng nh− chỉ là một 
bộ phận, một thành tố hay một ph−ơng 
tiện của một quá trình lịch sử tất yếu đã 
đ−ợc ấn định sẵn, và coi các luận điểm 
mang tính nguyên tắc của mình là tuyệt 
đối, là bất biến, hoàn toàn tách biệt với 
các chuẩn mực của nhiều thuyết đạo đức 
học truyền thống./. 


File đính kèm:

  • pdfdao_duc_hoc_trong_mot_so_trao_luu_triet_hoc_ton_giao_phuong.pdf