Đạo đức học trong một số trào lưu triết học tôn giáo Phương Tây đương đại
Tóm tắt Đạo đức học trong một số trào lưu triết học tôn giáo Phương Tây đương đại: ...c phục hồi sự thống nhất của Giáo hội Công giáo, Giáo hội Chính Thống giáo và Giáo hội Tin Lành giáo trong khuôn khổ Kitô giáo và tầm quan trọng của sự xích lại gần nhau của tất cả các tôn giáo thế giới. Thừa nhận những sai lầm của Công giáo và thể hiện sự hối 4. Xem: Gustafson, James ... hiện sinh và khiến con ng−ời xích lại gần với siêu nghiệm và thực hiện “b−ớc nhảy đến cái tuyệt đối của tồn tại”. Nhiệm vụ của triết học không phải ở chỗ nhận thức tồn tại, mà ở chỗ chứng thực nó. Triết học mang tính giao tiếp. Tính giao tiếp của triết học thể hiện trong hiện sinh có ...ện thực. Theo họ, với tính cách là sự tiền định của Chúa, đạo đức thuộc về lĩnh vực quan hệ của con ng−ời đối với Chúa và tạo ra tồn tại đích thực cho bản thân con ng−ời. Từ quan điểm của họ, đạo đức chính là sự quay trở về với Chúa và chính là tình yêu đối với Chúa, là tha thứ và công...
í của tồn tại có nguồn gốc từ Chúa và là cơ sở cho giới tự nhiên cũng nh− cho các mối quan hệ đạo đức trong xã hội, J. Maritain đ−a ra t− t−ởng về “chủ nghĩa nhân văn toàn phần”, trong đó ông chủ tr−ơng thống nhất giữa khoa học, kĩ thuật và tôn giáo. Còn Karl Rahner, khi đ−a ra nguyên tắc “nhân học thần học”, đã làm rõ các đặc thù của tồn tại trong thế giới của con ng−ời nh− tính khai mở th−ờng trực và sự siêu v−ợt h−ớng đến tồn tại của Chúa. Giáo hoàng Gioan Phaolô II đ−ợc xem là nhà cải cách sâu sắc và triệt để đối với giáo lí Công giáo, ng−ời chủ tr−ơng làm cho giáo lí đó phù hợp với thực tế của thời đại cả ở ph−ơng diện lí luận, lẫn ph−ơng diện thực tế. ủng hộ t− t−ởng giáo hội thế giới, ông đã luận giải sự cần thiết của việc phục hồi sự thống nhất của Giáo hội Công giáo, Giáo hội Chính Thống giáo và Giáo hội Tin Lành giáo trong khuôn khổ Kitô giáo và tầm quan trọng của sự xích lại gần nhau của tất cả các tôn giáo thế giới. Thừa nhận những sai lầm của Công giáo và thể hiện sự hối 4. Xem: Gustafson, James M., Protestant and Roman Catholic Ethics, The University of Chicago Press, Chicago and London, 1978, pp. 46 - 59. 5. Xem: Sđd, tr. 80 - 94. 6 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2013 tiếc về những sai lầm đó tr−ớc Chúa và con ng−ời, ông đã bênh vực đạo đức học phi bạo lực trong việc giải quyết các cuộc xung đột giữa các quốc gia, giữa các tôn giáo trong thế kỉ XX(6). 2. Đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh tôn giáo Chủ nghĩa hiện sinh là một trong những trào l−u có ảnh h−ởng trong triết học – đạo đức học Ph−ơng Tây thế kỉ XX, thuộc khuynh h−ớng nhân bản phi duy lí với các đại biểu chính nh− S. Kierkegaard (1813-1855), M. Heidegger (1889-1976), K. Jaspers (1883-1969), J. P. Sartre (1905-1980), A. Camus (1913-1960), G. H. Marcel (1889 - 1973)... Trào l−u này chịu ảnh h−ởng của các trào l−u triết học khác nh− hiện t−ợng luận, chủ nghĩa Kant mới, triết học đời sống, chủ nghĩa nhân vị Căn cứ vào quan niệm về Th−ợng Đế và về vai trò của Th−ợng Đế, có thể chia chủ nghĩa hiện sinh làm hai hình thái chủ yếu là chủ nghĩa hiện sinh hữu thần (Kierkegaard, Karl Jaspers, G. Marcel...) và chủ nghĩa hiện sinh vô thần (Martin Heidegger, J. P. Sartre...). ở đây, chúng tôi chỉ tập trung vào đạo đức học của chủ nghĩa hiện sinh hữu thần hay chủ nghĩa hiện sinh tôn giáo. S. Kierkegaard đ−ợc coi là ng−ời đặt nền tảng cho chủ nghĩa hiện sinh nói chung, và chủ nghĩa hiện sinh tôn giáo nói riêng. Phê phán triết học Hegel ở chỗ đã biến con ng−ời cá nhân thành tù nhân trong sự thống trị “vô danh” của lịch sử, thủ tiêu tính độc lập và tự do của cá nhân, Kierkegaard đã đ−a ra phép biện chứng chủ quan đối lập với phép biện chứng khách quan của Hegel. Kierkegaard coi phép biện chứng chủ quan là ph−ơng tiện để duy trì mối quan hệ của cá nhân với Th−ợng Đế. Ông cho rằng, để h−ớng đến Th−ợng Đế, con ng−ời cần phải v−ợt qua 3 giai đoạn: giai đoạn thẩm mĩ, giai đoạn đạo đức và giai đoạn tôn giáo. Theo ông, triết học cần quay trở về với con ng−ời, xem xét đời sống con ng−ời, những đau khổ của con ng−ời, học cách lựa chọn giữa cái thiện và cái ác, tìm ra “cái tôi” của mình, “cái đích thực” mà ng−ời ta có thể sẵn sàng sống chết vì nó(7). G. H. Marcel (1889 - 1973) là triết gia Pháp, ng−ời sáng lập của chủ nghĩa hiện sinh Kitô giáo. Cho rằng không thể luận giải tôn giáo ở ph−ơng diện duy lí, ông đã kh−ớc từ chủ nghĩa Tômát và tập trung vào các vấn đề tôn giáo đạo đức. Theo quan điểm của Marcel, Chúa tồn tại, nh−ng Chúa không phải là hiện thực khách quan, không phải là bộ phận của thế giới “các sự vật”. Vì vậy, không thể hình dung, định nghĩa hay suy t− về Chúa. Suy t− về Đức Tin bị coi là không có Đức Tin. “Thế giới tri thức và thế giới Đức Tin” đ−ợc coi là khác nhau. Marcel coi chủ thể “tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại” ở Descartes là nền tảng cho việc khám phá toàn bộ thế giới. Cái tôi này là bằng chứng tuyệt đối, không thể bác bỏ về tồn tại ng−ời của cá nhân nh− một hiện thực huyền bí. Theo ông, hiện thực này không 6. Lovin, Robin W., Christian Ethics. An Essential Guide, Abingdon Press, Nashville, 2000, pp. 54 - 60. 7. Xem: Bourke, Vernon J., History of Ethics, Volume 2: Modern and Contemporary Ethics, Axios Press, 2008, pp. 237 - 241; Warnock, Mary, Existential Ethics, Macmillan St. Martin’s Press, 1967, pp. 4 - 11. Nguyễn Vũ Hảo. Đạo đức học trong 7 thể đ−ợc lí giải bằng lí tính, mà chỉ có thể tiếp cận một cách trực tiếp thông qua cảm nhận từ bên trong. Theo Marcel, đời ng−ời đ−ợc nhìn nhận chủ yếu thông qua sự t−ơng phản giữa những gì mà ng−ời ta có nh− những đồ vật, t− t−ởng, tình cảm và những gì là chính đời ng−ời, tạo nên bản chất của đời ng−ời. Trong tác phẩm “Là và có”, ông đối lập thế giới vật chất “khách quan” với thế giới “tồn tại”, tức là thế giới mà trong đó nhị nguyên luận chủ thể - khách thể đ−ợc khắc phục và tất cả các mối quan hệ đối với thế giới đ−ợc xem nh− có tính cá nhân. Trong ý nghĩa đó, thế giới trở thành lãnh địa đặc biệt, nơi không còn sự khác biệt giữa cái ở trong tôi và cái ở tr−ớc mắt tôi. Trong thế giới tồn tại, các mối quan hệ duy lí đ−ợc thay thế bởi các mối quan hệ cảm xúc - đạo đức. Theo Marcel, các mối quan hệ cảm xúc và lĩnh vực “tồn tại” thuộc về lĩnh vực phi duy lí, nên không thể tiếp cận đ−ợc bằng lí tính, bằng các khái niệm. Ông chủ tr−ơng giảm bớt ảnh h−ởng của xã hội đối với đời sống cá nhân và chỉ giao tiếp với “cái cao th−ợng về tinh thần”. Để khắc phục bi kịch của tồn tại cá nhân, cần có sự giao tiếp thần bí với Th−ợng đế. K. Jaspers là triết gia hiện sinh tôn giáo nổi tiếng ng−ời Đức. Phân tích các khái niệm “tồn tại” (“tồn tại trong thế giới”), “hiện sinh” (cái bản thân con ng−ời không bị khách quan hóa) và “siêu nghiệm” (giới hạn không bao trùm đ−ợc mọi tồn tại và t− duy), Jaspers bênh vực triết học về định h−ớng trong thế giới, và sử dụng “minh giải hiện sinh” và siêu hình học nhằm giải đ−ợc mã số của thế giới tuyệt đối. Theo ông, triết học cần mang đến những định h−ớng cho hành vi của con ng−ời trong thế giới, có khả năng soi tỏ hiện sinh và khiến con ng−ời xích lại gần với siêu nghiệm và thực hiện “b−ớc nhảy đến cái tuyệt đối của tồn tại”. Nhiệm vụ của triết học không phải ở chỗ nhận thức tồn tại, mà ở chỗ chứng thực nó. Triết học mang tính giao tiếp. Tính giao tiếp của triết học thể hiện trong hiện sinh có tính hiệu quả, tức là sự tồn tại trong mối t−ơng quan của nó với hiện sinh khác và siêu nghiệm. Về phần mình, mối t−ơng quan này đ−ợc thực hiện trong hành vi giao tiếp với tính cách là sự giao l−u chân thành, sâu sắc và mang tính cá nhân trong “chân lí”. Đối với Jaspers, giao tiếp là một trong những khái niệm trung tâm của triết học h−ớng đến việc phân tích các vấn đề đạo đức học, nhận thức luận và các vấn đề cơ bản khác gắn liền với cấu trúc thế giới quan. Theo ông, giao tiếp là cách thức mà con ng−ời đến đ−ợc với bản chất đích thực của mình. Bản thân tôi chỉ là tôi trong mối quan hệ t−ơng hỗ với các cái tôi khác. Đối với Jaspers, mọi cái ác (về mặt luân lí, xã hội và trí tuệ) là kết quả của việc đoạn tuyệt đối với những hiện sinh khác. Ông đ−a ra các khái niệm quan trọng khác cho triết học nói chung và đạo đức học nói riêng của mình nh− “ý chí giao tiếp”, “tự do”, “tình huống giới hạn”, “sự trung thành”...(8). Jaspers đồng nhất tự do với hiện sinh. Đối với ông, nếu 8. Xem: Huegli, Anton und Luebcke, Poul (Hg.), Philosophie im 20. Jahrhundert, Bd. 1, Rowohl Taschenbuch GmbH, Hamburg, 1998, pp. 147 - 153. 8 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2013 nhận thức là việc của khoa học, thì tự do chính là việc của triết học, của đạo đức học. Con ng−ời có thể là đối t−ợng của khoa học, nh−ng cũng có thể là tồn tại vì tự do. Khi con ng−ời đ−ợc nghiên cứu bởi khoa học, luôn có một cái gì đó không đ−ợc nhận thức, một tồn tại không đ−ợc khách quan hóa, một ranh giới của tồn tại ng−ời mà không thể trở thành đối t−ợng phân tích của khoa học. Chính điều này là giải thích tại sao ng−ời ta không thể tiếp cận nghiên cứu con ng−ời với tính cách là tự do trong nhận thức khoa học. Theo Jaspers, hiện sinh có thể xuất hiện trong các tình huống giới hạn nh− cái chết, sự đau khổ, trọng bệnh, tội lỗi... 3. Đạo đức học trong thuyết Tin Lành mới Thuyết Tin Lành mới với các đại biểu chủ yếu nh− Karl Barth (1886 - 1968), Reinhold Niebuhr (1892 - 1971), Paul Tillich (1886 -1965), Emil Brunner (1889 - 1966) là sự phát triển từ thuyết Tin Lành của Martin Luther (1483 - 1546) và Jean Calvin (1509 - 1564). Đạo đức học trong thuyết Tin Lành của Martin Luther h−ớng đến việc nhận thức phi duy lí, mang tính cá nhân về Đức Chúa Trời hay Th−ợng Đế, đến lao động tích cực và các giá trị đạo đức cao cả. Bác bỏ sự khác biệt giữa hai loại tiêu chuẩn đạo đức: tiêu chuẩn tự nhiên và tiêu chuẩn thần linh, Martin Luther cho rằng, cái thiện là cái mà Chúa mong muốn, còn cái ác là cái bị Chúa phê phán. Mặc dù coi con ng−ời là có khả năng đ−ợc giải thoát nhờ ân sủng của Chúa, các nhà sáng lập thuyết Tin Lành vẫn muốn chỉ ra cho con ng−ời rằng, khả năng giải thoát là nằm chính trong tay con ng−ời, rằng trách nhiệm về cuộc đời của mỗi ng−ời là thuộc về chính ng−ời đó, phụ thuộc vào các nỗ lực đạo đức của chính ng−ời đó. Theo ông, cuộc đối thoại giao cảm giữa con ng−ời và Chúa đ−ợc thiết lập và thực hiện, giúp con ng−ời trở thành nhân cách tự chủ về đạo đức, có khả năng thực hiện việc lựa chọn đạo đức một cách độc lập trong các tình huống cụ thể. Đức Tin đ−ợc xem là sự giao phó mình cho Th−ợng Đế với tính cách là lí t−ởng của tình yêu và lòng nhân từ(9). Cũng nh− Martin Luther, Jean Calvin - một nhà thần học cải cách nổi tiếng ng−ời Pháp, trong học thuyết thần học của mình đã thể hiện rõ quan niệm mới của mình đối với vấn đề lao động. Theo ông, tất cả mọi ng−ời, kể cả những ng−ời giàu có đều phải lao động, bởi vì lao động là phù hợp với ý Chúa. Trách nhiệm của con ng−ời là phụng sự với tính cách là công cụ của Chúa trên trần thế để thay đổi diện mạo của thế giới phù hợp với “n−ớc Chúa” và để trở thành một phần của quá trình sáng tạo thế giới. Vì vậy, đạo đức học Tin Lành còn đ−ợc gọi là đạo đức học về lao động. Đạo đức học Tin Lành đ−a ra quy tắc đạo đức dựa trên các nguyên tắc nh− tinh thần tiết kiệm, tính kỉ luật, tình yêu lao động và chủ nghĩa cá nhân. Trong tác phẩm Đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa t− bản, Max Weber, một nhà t− t−ởng nổi tiếng ng−ời Đức đã đ−a ra những đánh giá sâu sắc về các phẩm 9. Lovin, Robin W., Christian Ethics. An Essential Guide, Abingdon Press, Nashville, 2000, pp. 85 - 94. Nguyễn Vũ Hảo. Đạo đức học trong 9 chất đạo đức này. Ông đã chỉ ra đ−ợc mối liên hệ chặt chẽ giữa đạo đức học Tin Lành và sự phát triển của chủ nghĩa t− bản. Nghiên cứu chủ nghĩa t− bản ở các khu vực Châu Âu, nơi đạo Tin Lành Calvin đ−ợc truyền bá rộng rãi, Weber đã đ−a ra các phân tích sâu sắc về mối liên hệ nhân quả giữa đời sống tôn giáo và đời sống kinh tế, đặc biệt về sự tác động của đạo đức tôn giáo nói chung, của đạo đức Tin Lành nói riêng đến đời sống kinh tế. Kế thừa các t− t−ởng của các nhà sáng lập thuyết Tin Lành, các đại biểu của thuyết Tin Lành mới nh− Karl Barth, Reinhold Niebuhr, Paul Tillich, Emil Brunner cho rằng, bẩm sinh trong bản chất của mình, con ng−ời vốn có tội lỗi, nh−ng lại không có khả năng thực hiện những điều răn dạy của Đức Chúa Giêsu trong cuộc sống hiện thực. Theo họ, với tính cách là sự tiền định của Chúa, đạo đức thuộc về lĩnh vực quan hệ của con ng−ời đối với Chúa và tạo ra tồn tại đích thực cho bản thân con ng−ời. Từ quan điểm của họ, đạo đức chính là sự quay trở về với Chúa và chính là tình yêu đối với Chúa, là tha thứ và công bằng, hoàn toàn khác với đạo đức trần tục gắn liền với những toan tính vị lợi và những lợi ích vật chất ích kỉ. Phân tích các khuynh h−ớng đạo đức hiện nay, Barth và Tillich đề cập đến nỗi lo sợ thần bí và mối lo lắng định mệnh của chủ thể đạo đức bắt nguồn từ sự tha hóa của chủ thể đó khỏi Th−ợng Đế. Emil Brunner cho rằng, lối thoát khỏi sự tha hóa đó có thể tìm thấy trong Đức Tin cá nhân, trong “sự tự siêu v−ợt” và việc học theo cách sống của Đức Chúa Giêsu. Còn theo Niebuhr, khả năng lựa chọn khác thay cho sự “bất an hiện sinh” chính là “chủ nghĩa hiện thực Kitô giáo” dựa trên niềm “hi vọng khiêm nh−ờng” vào ý Chúa mà nhận thức duy lí khoa học không thể tiếp cận đ−ợc. Từ quan điểm của ông, sự thay đổi các quan hệ đạo đức cần phải dựa vào các quá trình tinh thần mang tính phổ quát. Chính các quá trình tinh thần này đã buộc tiến bộ khoa học kĩ thuật trong đời sống vật chất “bên ngoài” của cộng đồng phải tuân theo thế giới quan thần học - tôn giáo bị cá nhân hóa. Niebuhr khẳng định rằng, Đức Tin cá nhân trong các điều kiện hiện đại có thể điều chỉnh thế giới quan của mỗi ng−ời, giúp con ng−ời tránh đ−ợc các hành động thiếu suy nghĩ(10). Theo đạo đức học trong thuyết Tin Lành mới, tiêu chuẩn đạo đức cần đ−ợc chuyển dịch vào bên trong ý thức của con ng−ời và trở thành chính l−ơng tâm của con ng−ời. 4. Đạo đức học trong thuyết Teilhard de Chardin Teilhard de Chardin (1881-1955) là một nhà triết học, một linh mục ng−ời Pháp, ng−ời sáng lập của thuyết triết học tôn giáo mang tên ông - thuyết Teilhard de Chardin, thuyết về sự hình thành vũ trụ và con ng−ời. Các nguyên tắc đạo đức đ−ợc Teilhard de Chardin đ−a ra trong các tác phẩm nh− “Môi tr−ờng thần thánh” (1927), “Hiện t−ợng con ng−ời” (1838-1940). Là một nhà thần học Công giáo, Teilhard de 10. Xem: Gustafson, James M., Protestant and Roman Catholic Ethics, The University of Chicago Press, Chicago and London, 1978, pp. 62 – 80. 10 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 - 2013 Chardin đã đ−a ra giải pháp Kitô giáo về đạo đức học tiến hóa phù hợp với học thuyết của ông về nguồn gốc của vũ trụ. Theo học thuyết này, sự phát triển của vũ trụ diễn ra theo một h−ớng xác định, tuân theo quá trình hình thành và phát triển của tinh thần. Theo ông, đạo đức xuất hiện chỉ ở một giai đoạn nhất định trong sự tiến hóa của sự sống với tính cách là sự hoàn thành của cơ học và sinh học. Theo ông, mục tiêu của đạo đức là ở chỗ hạn chế thói ích kỉ của con ng−ời, điều chỉnh và điều khiển năng l−ợng của con ng−ời theo một h−ớng cần thiết. Teilhard de Chardin đ−a ra lí giải về sinh học và vũ trụ bằng các phạm trù đạo đức học. Theo ông, cái thiện là tất cả những gì thúc đẩy sự tiến hóa, sự gia tăng trình độ tổ chức của vật chất và sự phát triển của ý thức; còn cái ác đ−ợc xem là tất cả những gì gây trở ngại cho sự liên kết các yếu tố thành các hệ thống có tổ chức cao và kìm hãm “sự tiến bộ của tinh thần”. Coi sứ mạng của con ng−ời là ở chỗ tiếp tục sự sáng tạo của quá trình tiến hóa một cách có ý thức, Teilhard de Chardin cho rằng, vị trí và vai trò của con ng−ời trong sự hình thành vũ trụ chính là cơ sở khách quan cho phạm trù “trách nhiệm”. Con ng−ời phải chịu trách nhiệm về thành công của sự tiến hóa. Khi biến đổi vật chất, con ng−ời cần chống lại cái ác và tạo điều kiện cho sự phát triển chung của tinh thần. Con ng−ời có thể đạt đ−ợc sự hoàn thiện về tinh thần nhờ tiếp cận đến với ý thức tập thể. Từ quan niệm của ông, đạo đức học tiến hóa cần đồng thời là đạo đức học Kitô giáo, bởi vì đạo đức chỉ có thể thực hiện chức năng của mình nhờ sự luận giải của Kitô giáo. Với sự luận giải đó, con ng−ời ý thức đ−ợc mối liên hệ của cuộc sống với “cực tinh thần và siêu nghiệm của khế −ớc phổ quát” với tính cách là nhân tố định h−ớng cho quá trình tiến hóa nhờ ân sủng của Chúa. Trong đạo đức học của mình, Teilhard de Chardin coi linh hồn bất tử và sự tồn tại của Th−ợng Đế là điều kiện tất yếu và sự đảm bảo cho hoạt động có ý thức con ng−ời trong việc thực hiện quá trình tiến hóa. Khác với đạo đức học Kitô giáo truyền thống, đạo đức học của Teilhard de Chardin nhấn mạnh các đặc điểm mang tính nhân văn nh− nguyên tắc tập thể, yêu cầu về mối quan hệ hoạt động đối với thế giới và các năng lực sáng tạo của con ng−ời. Tuy nhiên, đạo đức học của Teilhard de Chardin cũng có những hạn chế về ph−ơng pháp luận liên quan đến đạo đức học tiến hóa gắn liền với Kitô giáo. 5. Đạo đức học của chủ nghĩa nhân văn Đạo đức học của chủ nghĩa nhân văn đ−ợc nhà triết học thần học ng−ời Đức, sau mang quốc tịch Pháp, Albert Schweitzer (1875 - 1965) khởi x−ớng. Schweitzer đ−ợc xem là nhà t− t−ởng nhân văn nổi tiếng đ−ơng đại. Theo Schweitzer, nhân loại đang đứng tr−ớc những nguy cơ đe dọa nghiêm trọng cho sự tồn tại của mình với các cuộc khủng hoảng sinh thái, sự tha hóa lao động và tha hóa tinh thần. Con ng−ời đánh mất vai trò của mình với tính cách là chủ thể của văn hóa, đánh mất tính độc lập về tinh thần, tự do về kinh tế, bị chia rẽ, bị cằn cỗi về tình cảm và trở Nguyễn Vũ Hảo. Đạo đức học trong 11 thành nạn nhân của những phán xét hời hợt và những nhận định sai trái. Theo ông, với tính cách là “linh hồn của văn hóa”, đạo đức học có thể coi là ph−ơng tiện chủ yếu để khắc phục sự khủng hoảng tinh thần đó trong nền văn minh nhân loại. Schweitzer cho rằng, sự đồi bại của xã hội hiện đại liên quan đến sự tách rời của văn hóa khỏi cơ sở đạo đức của nó và sự bận tâm quá mức của con ng−ời đến vật chất. Kế thừa t− t−ởng triết học ấn Độ và Trung Quốc Cổ đại, Schweitzer đã xây dựng một đạo đức học phổ quát với tính cách là học thuyết về mối quan hệ thân thiện đối với mọi sinh vật. Cơ sở cho tồn tại ng−ời, từ quan điểm của ông, là khát vọng sống mang tính phổ quát với luận điểm “Tôi là cuộc sống muốn đ−ợc sống giữa cuộc sống muốn đ−ợc sống”. Nh− thế, nguyên tắc đạo đức học chủ yếu đ−ợc đ−a ra là “sự tôn kính tr−ớc sự sống”. Nguyên tắc này chính là tiêu chuẩn phân biệt giữa cái thiện và cái ác. Cái thiện gắn liền với tất cả những gì h−ớng đến việc duy trì và đề cao sự sống. Ng−ợc lại, cái ác gắn liền với tất cả những gì gây thiệt hại cho sự sống. Trong suốt cuộc đời mình, Schweitzer đã trung thành với nguyên tắc đạo đức đó, một nguyên tắc của chủ nghĩa nhân văn trong thực tiễn. Ông đã sang Châu Phi, điều trị bệnh miễn phí cho những ng−ời nghèo, lên án việc sử dụng vũ khí hạt nhân và phản kháng chống lại chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc cùng các biến dạng khác của hệ t− t−ởng phi nhân tính. Tóm lại, trong thế kỉ XX và hiện nay, có nhiều trào l−u và các cách tiếp cận tôn giáo khác nhau đối với vấn đề đạo đức. Cho dù theo khuynh h−ớng duy lí hay phi duy lí, đạo đức học trong các trào l−u tôn giáo học Ph−ơng Tây đ−ơng đại đều có những đặc điểm chung nh− sau. Thứ nhất, là thừa nhận sự tồn tại của Th−ợng Đế nh− nền tảng căn bản cho toàn bộ đời sống tinh thần và đạo đức của con ng−ời và nhân loại; Thứ hai, là mong muốn chuyển từ sự đối đầu gay gắt với khoa học và t− t−ởng đạo đức học thế tục sang đối thoại và khẳng định khả năng dung hợp giữa khoa học và tôn giáo; Thứ ba, là chủ tr−ơng đề cao chủ nghĩa nhân văn và tôn vinh những giá trị của con ng−ời gắn liền với những thành tựu của nền văn minh nhân loại và tiến trình lịch sử của vũ trụ. Tuy nhiên, bất cập chủ yếu của các quan niệm đạo đức học tôn giáo này là ở chỗ xem con ng−ời d−ờng nh− chỉ là một bộ phận, một thành tố hay một ph−ơng tiện của một quá trình lịch sử tất yếu đã đ−ợc ấn định sẵn, và coi các luận điểm mang tính nguyên tắc của mình là tuyệt đối, là bất biến, hoàn toàn tách biệt với các chuẩn mực của nhiều thuyết đạo đức học truyền thống./.
File đính kèm:
- dao_duc_hoc_trong_mot_so_trao_luu_triet_hoc_ton_giao_phuong.pdf