Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tống Văn Chung (Phần 2)

Tóm tắt Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tống Văn Chung (Phần 2): ...hiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập; thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội côn...m vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng hiện nay là một công việc hết sức phức tạp và khó khăn. Có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được sáng tỏ. Tuy vậy, nếu chúng ta dựa chắc vào tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt sâu sắc và thực hiện đầy đủ, đúng đắn, sáng tạo những di huấn của Người thì nhất đị...NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. 1 - Cách mạng trƣớc hết phải có Đảng cách mạng. 2 - Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nƣớc. 3 - Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai...

pdf24 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tống Văn Chung (Phần 2), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mệnh giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải 
phóng dân tộc, xoá bỏ áp bức, bất công, xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp. 
- Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin " làm cốt" không có nghĩa là giáo điều, máy móc 
theo từng câu, từng chữ của Mác, của Lênin mà chính là nắm vững tinh thần của 
chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó linh hồn sống là phép biện chứng duy vật. Hay theo 
cách nói của Hồ Chí Minh là nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của 
chủ nghĩa Mác-Lênin. 
- Đồng thời phải thâu thái những tinh hoa của văn hoá dân tộc và nhân loại, 
tham khảo kinh nghiệm của các đảng anh em, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ 
thể của Việt Nam để hoạch định đường lối đúng đắn. Bản thân Hồ Chí Minh đã 
nêu một tấm gương mẫu mực về vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam. 
- Trong tình hình hiện nay, một mặt phải kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, mặt 
khác phải không ngừng sáng tạo lý luận. Không kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin sẽ 
rơi vào chủ nghĩa cơ hội, xét lại, rốt cuộc cũng không có sáng tạo lý luận đích thực. 
Ngược lại, không phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong tình hình mới sẽ 
làm mất đi sức sống của nó mà thời đại mới đang yêu cầu. 
Dĩ nhiên phải luôn xác định được ranh giới giữa kiên trì chủ nghĩa Mác-
Lênin với các biểu hiện bảo thủ, giáo điều; giữa sáng tạo lý luận với cơ hội chính 
trị. 
5 - Đảng Cộng sản Việt Nam phải đƣợc xây dựng theo những nguyên 
tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. 
6 - Đảng cộng sản việt nam cầm quyền vừa là ngƣời lãnh đạo, vừa là 
ngƣời đầy tớ thật trung thành của nhân dân. 
Câu 18: 
Trả lời: 
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ 
NHÀ NƢỚC KIỂU MỚI Ở VIỆT NAM. 
1 - Nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân, dƣới sự lãnh đạo của giai cấp 
công nhân. 
a. Nhà nước của dân, do dân, vì dân 
Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề 
cơ bản của một chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ cho quyền lợi của ai. 
Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã chỉ 
rõ: " Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao 
cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít 
người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc". 
Sau khi nước ta giành được độc lập, Người khẳng định: " Nước ta là nước 
dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân...Chính 
quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra...Nói tóm lại, quyền hành và 
lực lượng đều ở nơi dân". 
Đó là điểm khác nhau căn bản về bản chất giữa nhà nước của nhân dân với 
các nhà nước của giai cấp bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử. 
- Thế nào là nhà nước của dân? 
Nói nhà nước của dân, như điều thứ 1-Hiến pháp năm 1946 do Hồ Chí Minh 
làm trưởng ban soạn thảo đã khẳng định: " Nước Việt Nam là một nước dân chủ 
cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không 
phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". 
Điều thứ 32-Hiến pháp năm 1946 cũng quy định: " Những việc quan hệ đến 
vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết". Thực chất đó là chế độ trưng 
cầu dân ý, một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta. 
Sau khi giành được chính quyền, nhân dân uỷ quyền cho các đại diện do 
mình bầu ra. Đồng thời " nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại 
biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín 
nhiệm của nhân dân". 
Trong nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền 
dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa 
vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước dân chủ phải bằng mọi nỗ lực, hình thành được 
các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Cũng trên ý nghĩa 
đó, các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa uỷ quyền của dân, chỉ là " 
công bộc" của dân theo ý nghĩa đúng đắn của từ này. 
- Thế nào là nhà nước do dân? 
Đó là nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình; nhà nước 
đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động; nhà nước đó 
lại do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. 
Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu: tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào 
nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của 
nhân dân. 
- Thế nào là nhà nước vì dân? 
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có một nhà nước thực sự của dân, do dân tổ 
chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là nhà nước vì dân được. Đó là 
một nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, 
đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm, liêm, chính. 
Trong nhà nước đó, cán bộ từ Chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân. 
Vì vậy: " việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải 
hết sức tránh". 
Đến đây, nảy sinh mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân dân với 
người cán bộ nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân uỷ 
quyền. Hồ Chí Minh nói: " dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ 
viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là 
quan cách mạng". 
Nhưng đối với cán bộ nhà nước, Hồ Chí Minh không bao giờ chỉ nhấn mạnh 
một vế. Là người phục vụ, cán bộ nhà nước đồng thời là người lãnh đạo, người 
hướng dẫn của nhân dân. Hồ Chí Minh nói: " Nếu không có nhân dân thì Chính 
phủ không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn 
đường". 
b. Nhà nước phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo ( khẳng định bản chất giai 
cấp công nhân của Nhà nước ta). 
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do dân, vì dân về bản chất 
là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. 
Quán triệt các nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất giai 
cấp của nhà nước, Hồ Chí Minh ý thức rất rõ: tính chất của nhà nước là nội dung 
giai cấp của chính quyền; trong nhà nước đó giai cấp nào thống trị, giai cấp nào bị 
trị, nhà nước bảo vệ lợi ích của giai cấp nào thì mạng lợi ích của giai cấp đó. 
Trên cơ sở quan niệm chung đó, Hồ Chí Minh khẳng định: " Nhà nước ta là 
nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công- nông, do giai cấp 
công nhân lãnh đạo". Như vậy, nội hàm khái niệm " dân" ở Hồ Chí Minh mang nội 
dung xã hội, giai cấp với " cái lõi" của nó là công nhân , nông dân, trí thức. Mặt 
khác, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhà nước quyết định bản chất giai 
cấp công nhân của nhà nước ta. 
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước 
được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây: 
- Tổ chức, hoạt động của Nhà nước Việt Nam theo các nguyên tắc phổ biến 
của chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước chuyên chính vô sản, Nhà nước xã hội chủ 
nghĩa. Nền tảng tư tưởng của nhà nước là học thuyết Mác-Lênin. Xa rời các 
nguyên lý này, Nhà nước sẽ biến chất, trở thành nhà nước của giai cấp khác và 
quyền lợi của nhân dân không được bảo đảm. 
- Nhà nước luôn luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Ở nước 
ta Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo trong tất cả các giai đoạn cách 
mạng. 
- Nhà nước được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ-một 
nguyên tắc tổ chức đặc thù của giai cấp công nhân : tập trung trên nền tảng dân chủ 
và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung; dân chủ càng mở rộng, tập trung càng cao độ. 
- Cơ sở xã hội của Nhà nước là khối đại đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên 
minh công-nông-trí. 
- Nhà nước được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc: quyền lực Nhà nước là 
thống nhất, nhưng trong tổ chức, hoạt động có sự phân công phối hợp giữa các cơ 
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. 
- Nhà nước điều hành, quản lý xã hội bằng pháp luật, mà pháp luật đó thể 
hiện ý chí, nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng 
lao động. 
Với các biểu hiện trên đây, ở nhà nước ta, bản chất giai cấp công nhân bao 
giờ cũng thống nhất chặt chẽ với tính nhân dân và tính dân tộc. 
2- Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nƣớc là tổ chức quản lý mọi mặt đời 
sống xã hội. 
- Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh là công cụ của giai cấp công nhân và 
nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, để thống trị lại số ít bóc 
lột và để thực hiện mục tiêu vĩ đại của mình là giải phóng giai cấp, giải phóng dân 
tộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đem lại quyền tự do, bình 
đẳng, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân lao động. 
- Do đó, chức năng Nhà nước không phải lấy trấn áp làm chủ yếu, mà ngược 
lại lấy tổ chức xây dựng là chủ yếu, thể hiện chức năng quản lý của Nhà nước là tổ 
chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội, trên lĩnh vực kinh tế cũng như chính sách 
đối nội và đối ngoại... 
- Tại Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã nêu một cách cụ thể hơn về 
cơ cấu của một Nhà nước kiểu mới mà đại diện của nó là chính phủ công, nông, 
binh. Nhà nước về mặt kinh tế là mở mang công nghiệp và nông nghiệp, quản lý 
cơ sở sản xuất, thực hành chính sách thuế quan phù hợp, chia ruộng đất cho dân 
cày nghèo, nâng cao đời sống nhân dân. Về mặt xã hội, dân chúng được hưởng 
quyền tự do dân chủ, nam nữ bình quyền. Về mặt văn hoá giáo dục, thực hành giáo 
dục toàn dân, xây dựng nền văn hoá mới. Về mặt bảo vệ Tổ quốc, tổ chức quân đội 
công nông. 
- Việc tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội của Nhà nước phải dựa vào 
pháp luật, thông qua pháp luật để điều hành và quản lý. Người xem pháp luật như 
một phương tiện để củng cố Nhà nước, giữa pháp luật và nhà nước có mối quan hệ 
hữu cơ với nhau. Nhà nước phải dựa vào pháp luật để điều hành xã hội. Pháp luật 
đúng sẽ tạo nên sự ổn định của Nhà nước, làm cho bộ máy Nhà nước vận hành 
đúng quỹ đạo. 
Hồ Chí Minh đã trực tiếp soạn thảo và chỉ đạo việc soạn thảo Hiến pháp 
năm 1946 và năm 1960, cũng như 613 sắc lệnh từ 1945 đến 1969, trong đó có 243 
sắc lệnh quy định về tổ chức Nhà nước....Điều đó chứng tỏ Hồ Chí Minh luôn đánh 
giá đúng vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội. 
Khẳng định chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước là tổ chức quản lý mọi mặt 
đời sống xã hội, vừa phản ánh bản chất của Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh, 
vừa phân định rõ mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước; Đảng không làm thay Nhà 
nước, đồng thời Nhà nước phải thông qua tổ chức thực hiện của mình để khẳng 
định vai trò lãnh đạo của Đảng. 
3 - Bộ máy Nhà nƣớc phải đƣợc chấn chỉnh thƣờng xuyên từ dƣới lên, 
từ trên xuống. 
- Xuất phát từ vai trò quan trọng của bộ máy Nhà nước trong xây dựng đất 
nước, quản lý, điều hành xã hội ( Nhà nước là công cụ của một giai cấp, nhằm thực 
hiện ý chí của một giai cấp đối với toàn xã hội. Nhà nước ta là của GCVS, của toàn 
thể dân tộc). 
 Từ thực tế tác động của Nhà nước đối với xã hội: bộ máy Nhà nước đủ 
mạnh sẽ góp phần đưa đất nước phát triển;bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực sẽ hạn 
chế sự phát triển của đất nước. 
- Mục đích xây dựng bộ máy Nhà nước theo Hồ Chí Minh là nhằm xây dựng 
bộ máy Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân, một bộ máy Nhà nước tinh, 
gọn, hoạt động có hiệu quả. 
- Yêu cầu chấn chỉnh bộ máy Nhà nước theo Hồ Chí Minh: phải làm thường 
xuyên. Vì đây là đòi hỏi tất yếu của thực tiễn: thực tiễn xã hội vận động, phát triển 
không ngừng, đòi hỏi Nhà nước phải chấn chỉnh, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. 
Từ thực tế vai trò, quyền lực của Nhà nước: nói đến Nhà nước là nói đến quyền lực 
( về kinh tế, chính trị...) nếu không được chấn chỉnh sẽ sinh ra quan liêu, cửa 
quyền, tham nhũng... 
Phải chấn chỉnh từ dưới lên, từ trên xuống: chính quyền các cấp từ xã đến 
huyện, tỉnh, trung ương phải được thường xuyên chấn chỉnh. Trên phải làm gương 
cho dưới, Trung ương làm gương cho địa phương. 
- Nội dung chấn chỉnh: Chấn chỉnh cơ cấu, tổ chức của bộ máy Nhà nước:bộ 
máy phải được tổ chức chặt chẽ, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ 
cấu phải phù hợp ( địa phương, ngành, thành phần...) nhằm tăng cường sức mạnh, 
tinh giảm và hiệu quả; chấn chỉnh về phương thức hoạt động của bộ máy:đảm bảo 
thống nhất từ Trung ương đến địa phương, phân định phạm vi trách nhiệm, quyền 
hạn từng cấp, từng ngành. Thường xuyên sửa đổi lề lối làm việc đảm bảo tình khoa 
học và hiệu quả cao;chấn chỉnh mỗi cá nhân trong bộ máy:Yêu cầu nâng cao trình 
độ chuyên môn, nghiệp vụ, giữ vững phẩm chất người cán bộ: cần, kiệm, liêm, 
chính, chí công, vô tư... Chống mọi biểu hiện quan liêu, kiêu ngạo, ức hiếp, trù đập 
nhân dân. 
Nếu không chấn chỉnh thường xuyên thì không những không lựa chọn được 
người có đủ đức, tài ra đảm nhiệm công việc Nhà nước mà còn tạo ra một bộ máy 
cồng kềnh, kém hiệu quả, là điều kiện nảy sinh tệ quan liêu, cửa quyền, tham 
nhũng...trở thành những " ông quan cách mạng" có hại cho dân. 
4 - Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ Nhà nƣớc là vấn đề có ý nghĩa 
quyết định đối với nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nƣớc. 
- Đây là một vấn đề thu hút nhiều tâm lực của Hồ Chí Minh. Người cho 
rằng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ 
cán bộ, công chức nhà nước. 
- Hồ Chí Minh có một quan niệm rất hiện đại về cán bộ, công chức, các 
ngạch, bậc trong nền hành chính. người có những sắc lệnh cụ thể về vị thế, chức 
năng, nhiệm vụ của cán bộ, công chức. Người yêu cầu phải xây dựng cho được 
một đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng công tác, có tính chuyên môn và tính 
chuyên nghiệp cao, đảm bảo cho nền hành chính hoạt động ổn định trong mọi điều 
kiện và trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. 
- Để có một đội ngũ cán bộ công chức như vậy, Hồ Chí Minh đã xác lập một 
hệ thống các tiêu chuẩn với từng loại công chức cụ thể. Các tiêu chuẩn đó bao gồm 
cả " Đức" và " Tài", mà " Đức " là nền tảng, là gốc. Đặc biệt, Hồ Chí Minh lưu ý: 
đã là cán bộ, công chức thì phải nắm chắc luật pháp, am hiểu pháp luật và vận 
dụng nhuần nhuyễn chúng trong lĩnh vực hoạt động của mình, tránh làm sai, gây 
hậu quả xấu cho dân, cho nước. 
- Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc xây dựng được một quy chế tuyển chọn, 
đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện và sử dụng công chức nhà nước. Đối với việc sử 
dụng cán bộ, công chức, Người đề ra quy chế thi, làm cơ sở đánh giá, xếp đúng các 
ngạch, bậc trong nền hành chính. Nội dung thi tuyển công chức được Người đề cập 
rất khái quát, nhưng lại rất cụ thể, bao gồm sáu môn: lịch sử, địa lý, kinh tế, chính 
trị, pháp luật và ngoại ngữ nhằm trang bị cho mỗi cán bộ, công chức một tri thức 
cơ bản, từ đó có thể đi sâu vào lĩnh vực chuyên môn của mình. Tất cả các quan 
điểm này đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng xây dựng pháp lệnh công chức 
mà chúng ta đang thực hiện trong điều kiện mới. 
III - MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC TA HIỆN NAY 
DƢỚI ÁNH SÁNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH. 
1 - Giữ vững và nâng cao bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và 
tính dân tộc của Nhà nƣớc. 
 - Đây là một nhân tố quyết định sự tồn tại và vững mạnh của Nhà nước ta, 
đảm bảo thật sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân: vấn đề này đã được thực tiễn 
gần 50 năm qua khẳng định. Nhờ giữ vững bản chất giai cấp công nhân mà Nhà 
nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã hoàn thành sứ mạng , chức năng của mình. 
- Tuy nhiên, trước yêu cầu sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công cuộc công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà nước ta còn bộc lộ nhiều yếu kém về kiến 
thức, năng lực tổ chức thực hiện, về trình độ, phẩm chất của cán bộ, nhân viên Nhà 
nước, tổ chức cồng kềnh, chồng chéo... Một bộ phận cán bộ, viên chức Nhà nước 
bị thoái hoá, biến chất ( quan liêu, xa dân, hối lộ...); Kẻ thù đang tìm mọi cách 
chống phá ta: làm mất hiệu lực của Nhà nước. 
- Do vậy: xây dựng Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững và 
nâng cao bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, dân tộc của Nhà nước là vấn 
đề thường xuyên, nhất quán, vừa cơ bản, vừa cấp bách trước yêu cầu của công 
cuộc đổi mới hiện nay. 
- Yêu cầu: Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà 
nước. Đây là nguyên tắc sống còn, là điều kiện đảm bảo cho Nhà nước ta là của 
dân, do dân, vì dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước hải bằng đường lối, chủ trương, bằng 
sự kiểm tra uốn nắn mọi lệch lạc, kịp thời, chống bao biện làm thay Nhà nước; Nhà 
nước phải bảo đảm trên thực tế là Nhà nước của dân, do dân, vì dân:Nhà nước phải 
thực hiện cho được nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để phát huy quyền làm chủ của 
nhân dân và quyền làm chủ đó phải được thể chế hoá bằng hiến pháp, pháp luật. Đi 
đôi với mở rộng dân chủ, Nhà nước phải kiên quyết chuyên chính với mọi hành vi 
xâm phạm đến quyền lợi của nhân dân, dân tộc. Quán triệt tốt nguyên tắc tập trung, 
dân chủ trong mọi hành động của Nhà nước: trong tổ chức bộ máy, trong hoạt 
động xây dựng pháp luật, chính sách và quản lý điều hành xã hội. Tăng cường sự 
lãnh đạo điều hành tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy trách 
nhiệm và tính năng động của chính quyền địa phương ( chống 2 khuynh hướng: 
phân tán cục bộ và tập trung quan liêu...) 
2 - Nâng cao hiệu lực quản lý mọi mặt của Nhà nƣớc, đẩy mạnh cải cách 
hành chính. 
 - Đây là vấn đề thường xuyên của mỗi quốc gia, dù ở chế độ chính trị nào. 
Sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta càng đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu lực quản lý 
của Nhà nước: từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự 
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò và hoạt động của 
Nhà nước có thay đổi căn bản; quản lý trực tiếp bằng mệnh lệnh là chủ yếu sang 
quản lý gián tiếp tầm vĩ mô. Bộc lộ nhiều hạn chế về tổ chức bộ máy và trình độ 
năng lực quản lý, điều hành....Đòi hỏi phải nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà 
nước. 
- Yêu cầu: Kiện toàn sắp xếp bộ máy hợp lý, cải cách một bước nền hành 
chính quốc gia, tránh chồng chéo, cồng kềnh, kém hiệu lực; Đổi mới tổ chức và 
hoạt động phối hợp của ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, thực hiện xây 
dựng Nhà nước pháp quền Việt Nam. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ gắn 
với việc tổ chức thực hiện hiệu quả, kết hợp dân chủ và pháp quền, đạo đức và 
pháp luật trong quản lý xã hội của Nhà nước; Phát huy vai trò của quần chúng 
nhân dân để tập trung trí tuệ nhân dân tham gia vào những vấn đề quan trọng của 
đất nước ( phát huy vai trò của Mặt trận và các các đoàn thể...). mục tiêu nhằm: 
xây dựng nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực hoàn thành chức năng, nhiệm 
vụ, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng. 
3 - Xây dựng đội ngũ cán bộ Nhà nƣớc có phẩm chất, năng lực ngang 
tầm nhiệm vụ cách mạng. 
- Đây chính là sự thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò 
quan trọng của đội ngũ cán bộ trong việc xây dựng Nhà nước kiểu mới của dân, do 
dân, vì dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: " cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Vấn đề 
này đã được thực tiễn khảo nghiệm trong giành, giữ và xây dựng chính quyền Nhà 
nước. 
 - Công cuộc đổi mới hiện nay đòi hỏi đội ngũ cán bộ Nhà nước không 
ngừng phải thay đổi nếp nghĩ, thói quen và cung cách quản lý từ cơ chế bao 
cấp...sang một phong cách làm việc mới với tư duy nhanh nhạy, khoa học gắn liền 
với trình độ chuyên môn vừa bảo đảm bề rộng vừa có chiều sâu. 
 - Yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ theo quan điểm Hồ Chí Minh:phải xây 
dựng đội ngũ cán bộ vừa" hồng" vừa " chuyên". 
- Cụ thể: Phải xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ ( tiêu chuẩn đầu tiên 
của người cán bộ ). Đòi hỏi phải đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết, 
giải quyết đúng mối quan hệ lợi ích cá nhân, tập thể, gắn bó quần chúng, nói đi đôi 
với làm; Không ngừng xây dựng năng lực chuyên môn cho cán bộ, nâng cao trình 
độ lý luận về chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, trình độ về tổ chức, 
quản lý, xây dựng tác phong công tác khoa học, sâu sát cho đội ngũ cán bộ, xây 
dựng đội ngũ cán bộ phải gắn với việc bố trí, sử dụng hợp lý: xây dựng kế hoạch 
đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng hệ thống ngạch bậc,thi tuyển, đề bạt, kiểm tra, giám 
sát, xây dựng chế độ, chính sách, tiền lương thoả đáng... 

File đính kèm:

  • pdfde_cuong_on_tap_tu_tuong_ho_chi_minh_tong_van_chung_phan_2.pdf