Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tống Văn Chung (Phần 2)
Tóm tắt Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tống Văn Chung (Phần 2): ...hiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập; thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội côn...m vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng hiện nay là một công việc hết sức phức tạp và khó khăn. Có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được sáng tỏ. Tuy vậy, nếu chúng ta dựa chắc vào tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt sâu sắc và thực hiện đầy đủ, đúng đắn, sáng tạo những di huấn của Người thì nhất đị...NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. 1 - Cách mạng trƣớc hết phải có Đảng cách mạng. 2 - Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nƣớc. 3 - Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai...
mệnh giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng dân tộc, xoá bỏ áp bức, bất công, xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp. - Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin " làm cốt" không có nghĩa là giáo điều, máy móc theo từng câu, từng chữ của Mác, của Lênin mà chính là nắm vững tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó linh hồn sống là phép biện chứng duy vật. Hay theo cách nói của Hồ Chí Minh là nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin. - Đồng thời phải thâu thái những tinh hoa của văn hoá dân tộc và nhân loại, tham khảo kinh nghiệm của các đảng anh em, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để hoạch định đường lối đúng đắn. Bản thân Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương mẫu mực về vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam. - Trong tình hình hiện nay, một mặt phải kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, mặt khác phải không ngừng sáng tạo lý luận. Không kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin sẽ rơi vào chủ nghĩa cơ hội, xét lại, rốt cuộc cũng không có sáng tạo lý luận đích thực. Ngược lại, không phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong tình hình mới sẽ làm mất đi sức sống của nó mà thời đại mới đang yêu cầu. Dĩ nhiên phải luôn xác định được ranh giới giữa kiên trì chủ nghĩa Mác- Lênin với các biểu hiện bảo thủ, giáo điều; giữa sáng tạo lý luận với cơ hội chính trị. 5 - Đảng Cộng sản Việt Nam phải đƣợc xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. 6 - Đảng cộng sản việt nam cầm quyền vừa là ngƣời lãnh đạo, vừa là ngƣời đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Câu 18: Trả lời: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƢỚC KIỂU MỚI Ở VIỆT NAM. 1 - Nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân, dƣới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. a. Nhà nước của dân, do dân, vì dân Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của một chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ cho quyền lợi của ai. Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: " Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc". Sau khi nước ta giành được độc lập, Người khẳng định: " Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân...Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra...Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Đó là điểm khác nhau căn bản về bản chất giữa nhà nước của nhân dân với các nhà nước của giai cấp bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử. - Thế nào là nhà nước của dân? Nói nhà nước của dân, như điều thứ 1-Hiến pháp năm 1946 do Hồ Chí Minh làm trưởng ban soạn thảo đã khẳng định: " Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Điều thứ 32-Hiến pháp năm 1946 cũng quy định: " Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết". Thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta. Sau khi giành được chính quyền, nhân dân uỷ quyền cho các đại diện do mình bầu ra. Đồng thời " nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân". Trong nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước dân chủ phải bằng mọi nỗ lực, hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Cũng trên ý nghĩa đó, các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa uỷ quyền của dân, chỉ là " công bộc" của dân theo ý nghĩa đúng đắn của từ này. - Thế nào là nhà nước do dân? Đó là nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình; nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động; nhà nước đó lại do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu: tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. - Thế nào là nhà nước vì dân? Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có một nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là nhà nước vì dân được. Đó là một nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm, liêm, chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ Chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân. Vì vậy: " việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh". Đến đây, nảy sinh mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân dân với người cán bộ nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân uỷ quyền. Hồ Chí Minh nói: " dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là quan cách mạng". Nhưng đối với cán bộ nhà nước, Hồ Chí Minh không bao giờ chỉ nhấn mạnh một vế. Là người phục vụ, cán bộ nhà nước đồng thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân. Hồ Chí Minh nói: " Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường". b. Nhà nước phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo ( khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta). Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do dân, vì dân về bản chất là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Quán triệt các nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất giai cấp của nhà nước, Hồ Chí Minh ý thức rất rõ: tính chất của nhà nước là nội dung giai cấp của chính quyền; trong nhà nước đó giai cấp nào thống trị, giai cấp nào bị trị, nhà nước bảo vệ lợi ích của giai cấp nào thì mạng lợi ích của giai cấp đó. Trên cơ sở quan niệm chung đó, Hồ Chí Minh khẳng định: " Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công- nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo". Như vậy, nội hàm khái niệm " dân" ở Hồ Chí Minh mang nội dung xã hội, giai cấp với " cái lõi" của nó là công nhân , nông dân, trí thức. Mặt khác, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhà nước quyết định bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây: - Tổ chức, hoạt động của Nhà nước Việt Nam theo các nguyên tắc phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước chuyên chính vô sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nền tảng tư tưởng của nhà nước là học thuyết Mác-Lênin. Xa rời các nguyên lý này, Nhà nước sẽ biến chất, trở thành nhà nước của giai cấp khác và quyền lợi của nhân dân không được bảo đảm. - Nhà nước luôn luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Ở nước ta Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo trong tất cả các giai đoạn cách mạng. - Nhà nước được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ-một nguyên tắc tổ chức đặc thù của giai cấp công nhân : tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung; dân chủ càng mở rộng, tập trung càng cao độ. - Cơ sở xã hội của Nhà nước là khối đại đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh công-nông-trí. - Nhà nước được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc: quyền lực Nhà nước là thống nhất, nhưng trong tổ chức, hoạt động có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. - Nhà nước điều hành, quản lý xã hội bằng pháp luật, mà pháp luật đó thể hiện ý chí, nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng lao động. Với các biểu hiện trên đây, ở nhà nước ta, bản chất giai cấp công nhân bao giờ cũng thống nhất chặt chẽ với tính nhân dân và tính dân tộc. 2- Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nƣớc là tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội. - Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh là công cụ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, để thống trị lại số ít bóc lột và để thực hiện mục tiêu vĩ đại của mình là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đem lại quyền tự do, bình đẳng, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân lao động. - Do đó, chức năng Nhà nước không phải lấy trấn áp làm chủ yếu, mà ngược lại lấy tổ chức xây dựng là chủ yếu, thể hiện chức năng quản lý của Nhà nước là tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội, trên lĩnh vực kinh tế cũng như chính sách đối nội và đối ngoại... - Tại Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã nêu một cách cụ thể hơn về cơ cấu của một Nhà nước kiểu mới mà đại diện của nó là chính phủ công, nông, binh. Nhà nước về mặt kinh tế là mở mang công nghiệp và nông nghiệp, quản lý cơ sở sản xuất, thực hành chính sách thuế quan phù hợp, chia ruộng đất cho dân cày nghèo, nâng cao đời sống nhân dân. Về mặt xã hội, dân chúng được hưởng quyền tự do dân chủ, nam nữ bình quyền. Về mặt văn hoá giáo dục, thực hành giáo dục toàn dân, xây dựng nền văn hoá mới. Về mặt bảo vệ Tổ quốc, tổ chức quân đội công nông. - Việc tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội của Nhà nước phải dựa vào pháp luật, thông qua pháp luật để điều hành và quản lý. Người xem pháp luật như một phương tiện để củng cố Nhà nước, giữa pháp luật và nhà nước có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Nhà nước phải dựa vào pháp luật để điều hành xã hội. Pháp luật đúng sẽ tạo nên sự ổn định của Nhà nước, làm cho bộ máy Nhà nước vận hành đúng quỹ đạo. Hồ Chí Minh đã trực tiếp soạn thảo và chỉ đạo việc soạn thảo Hiến pháp năm 1946 và năm 1960, cũng như 613 sắc lệnh từ 1945 đến 1969, trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức Nhà nước....Điều đó chứng tỏ Hồ Chí Minh luôn đánh giá đúng vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội. Khẳng định chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước là tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội, vừa phản ánh bản chất của Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa phân định rõ mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước; Đảng không làm thay Nhà nước, đồng thời Nhà nước phải thông qua tổ chức thực hiện của mình để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. 3 - Bộ máy Nhà nƣớc phải đƣợc chấn chỉnh thƣờng xuyên từ dƣới lên, từ trên xuống. - Xuất phát từ vai trò quan trọng của bộ máy Nhà nước trong xây dựng đất nước, quản lý, điều hành xã hội ( Nhà nước là công cụ của một giai cấp, nhằm thực hiện ý chí của một giai cấp đối với toàn xã hội. Nhà nước ta là của GCVS, của toàn thể dân tộc). Từ thực tế tác động của Nhà nước đối với xã hội: bộ máy Nhà nước đủ mạnh sẽ góp phần đưa đất nước phát triển;bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực sẽ hạn chế sự phát triển của đất nước. - Mục đích xây dựng bộ máy Nhà nước theo Hồ Chí Minh là nhằm xây dựng bộ máy Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân, một bộ máy Nhà nước tinh, gọn, hoạt động có hiệu quả. - Yêu cầu chấn chỉnh bộ máy Nhà nước theo Hồ Chí Minh: phải làm thường xuyên. Vì đây là đòi hỏi tất yếu của thực tiễn: thực tiễn xã hội vận động, phát triển không ngừng, đòi hỏi Nhà nước phải chấn chỉnh, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Từ thực tế vai trò, quyền lực của Nhà nước: nói đến Nhà nước là nói đến quyền lực ( về kinh tế, chính trị...) nếu không được chấn chỉnh sẽ sinh ra quan liêu, cửa quyền, tham nhũng... Phải chấn chỉnh từ dưới lên, từ trên xuống: chính quyền các cấp từ xã đến huyện, tỉnh, trung ương phải được thường xuyên chấn chỉnh. Trên phải làm gương cho dưới, Trung ương làm gương cho địa phương. - Nội dung chấn chỉnh: Chấn chỉnh cơ cấu, tổ chức của bộ máy Nhà nước:bộ máy phải được tổ chức chặt chẽ, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ cấu phải phù hợp ( địa phương, ngành, thành phần...) nhằm tăng cường sức mạnh, tinh giảm và hiệu quả; chấn chỉnh về phương thức hoạt động của bộ máy:đảm bảo thống nhất từ Trung ương đến địa phương, phân định phạm vi trách nhiệm, quyền hạn từng cấp, từng ngành. Thường xuyên sửa đổi lề lối làm việc đảm bảo tình khoa học và hiệu quả cao;chấn chỉnh mỗi cá nhân trong bộ máy:Yêu cầu nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, giữ vững phẩm chất người cán bộ: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư... Chống mọi biểu hiện quan liêu, kiêu ngạo, ức hiếp, trù đập nhân dân. Nếu không chấn chỉnh thường xuyên thì không những không lựa chọn được người có đủ đức, tài ra đảm nhiệm công việc Nhà nước mà còn tạo ra một bộ máy cồng kềnh, kém hiệu quả, là điều kiện nảy sinh tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng...trở thành những " ông quan cách mạng" có hại cho dân. 4 - Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ Nhà nƣớc là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nƣớc. - Đây là một vấn đề thu hút nhiều tâm lực của Hồ Chí Minh. Người cho rằng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. - Hồ Chí Minh có một quan niệm rất hiện đại về cán bộ, công chức, các ngạch, bậc trong nền hành chính. người có những sắc lệnh cụ thể về vị thế, chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, công chức. Người yêu cầu phải xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng công tác, có tính chuyên môn và tính chuyên nghiệp cao, đảm bảo cho nền hành chính hoạt động ổn định trong mọi điều kiện và trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. - Để có một đội ngũ cán bộ công chức như vậy, Hồ Chí Minh đã xác lập một hệ thống các tiêu chuẩn với từng loại công chức cụ thể. Các tiêu chuẩn đó bao gồm cả " Đức" và " Tài", mà " Đức " là nền tảng, là gốc. Đặc biệt, Hồ Chí Minh lưu ý: đã là cán bộ, công chức thì phải nắm chắc luật pháp, am hiểu pháp luật và vận dụng nhuần nhuyễn chúng trong lĩnh vực hoạt động của mình, tránh làm sai, gây hậu quả xấu cho dân, cho nước. - Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc xây dựng được một quy chế tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện và sử dụng công chức nhà nước. Đối với việc sử dụng cán bộ, công chức, Người đề ra quy chế thi, làm cơ sở đánh giá, xếp đúng các ngạch, bậc trong nền hành chính. Nội dung thi tuyển công chức được Người đề cập rất khái quát, nhưng lại rất cụ thể, bao gồm sáu môn: lịch sử, địa lý, kinh tế, chính trị, pháp luật và ngoại ngữ nhằm trang bị cho mỗi cán bộ, công chức một tri thức cơ bản, từ đó có thể đi sâu vào lĩnh vực chuyên môn của mình. Tất cả các quan điểm này đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng xây dựng pháp lệnh công chức mà chúng ta đang thực hiện trong điều kiện mới. III - MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC TA HIỆN NAY DƢỚI ÁNH SÁNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH. 1 - Giữ vững và nâng cao bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nƣớc. - Đây là một nhân tố quyết định sự tồn tại và vững mạnh của Nhà nước ta, đảm bảo thật sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân: vấn đề này đã được thực tiễn gần 50 năm qua khẳng định. Nhờ giữ vững bản chất giai cấp công nhân mà Nhà nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã hoàn thành sứ mạng , chức năng của mình. - Tuy nhiên, trước yêu cầu sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà nước ta còn bộc lộ nhiều yếu kém về kiến thức, năng lực tổ chức thực hiện, về trình độ, phẩm chất của cán bộ, nhân viên Nhà nước, tổ chức cồng kềnh, chồng chéo... Một bộ phận cán bộ, viên chức Nhà nước bị thoái hoá, biến chất ( quan liêu, xa dân, hối lộ...); Kẻ thù đang tìm mọi cách chống phá ta: làm mất hiệu lực của Nhà nước. - Do vậy: xây dựng Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững và nâng cao bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, dân tộc của Nhà nước là vấn đề thường xuyên, nhất quán, vừa cơ bản, vừa cấp bách trước yêu cầu của công cuộc đổi mới hiện nay. - Yêu cầu: Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đây là nguyên tắc sống còn, là điều kiện đảm bảo cho Nhà nước ta là của dân, do dân, vì dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước hải bằng đường lối, chủ trương, bằng sự kiểm tra uốn nắn mọi lệch lạc, kịp thời, chống bao biện làm thay Nhà nước; Nhà nước phải bảo đảm trên thực tế là Nhà nước của dân, do dân, vì dân:Nhà nước phải thực hiện cho được nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để phát huy quyền làm chủ của nhân dân và quyền làm chủ đó phải được thể chế hoá bằng hiến pháp, pháp luật. Đi đôi với mở rộng dân chủ, Nhà nước phải kiên quyết chuyên chính với mọi hành vi xâm phạm đến quyền lợi của nhân dân, dân tộc. Quán triệt tốt nguyên tắc tập trung, dân chủ trong mọi hành động của Nhà nước: trong tổ chức bộ máy, trong hoạt động xây dựng pháp luật, chính sách và quản lý điều hành xã hội. Tăng cường sự lãnh đạo điều hành tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy trách nhiệm và tính năng động của chính quyền địa phương ( chống 2 khuynh hướng: phân tán cục bộ và tập trung quan liêu...) 2 - Nâng cao hiệu lực quản lý mọi mặt của Nhà nƣớc, đẩy mạnh cải cách hành chính. - Đây là vấn đề thường xuyên của mỗi quốc gia, dù ở chế độ chính trị nào. Sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta càng đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước: từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò và hoạt động của Nhà nước có thay đổi căn bản; quản lý trực tiếp bằng mệnh lệnh là chủ yếu sang quản lý gián tiếp tầm vĩ mô. Bộc lộ nhiều hạn chế về tổ chức bộ máy và trình độ năng lực quản lý, điều hành....Đòi hỏi phải nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. - Yêu cầu: Kiện toàn sắp xếp bộ máy hợp lý, cải cách một bước nền hành chính quốc gia, tránh chồng chéo, cồng kềnh, kém hiệu lực; Đổi mới tổ chức và hoạt động phối hợp của ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, thực hiện xây dựng Nhà nước pháp quền Việt Nam. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ gắn với việc tổ chức thực hiện hiệu quả, kết hợp dân chủ và pháp quền, đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội của Nhà nước; Phát huy vai trò của quần chúng nhân dân để tập trung trí tuệ nhân dân tham gia vào những vấn đề quan trọng của đất nước ( phát huy vai trò của Mặt trận và các các đoàn thể...). mục tiêu nhằm: xây dựng nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực hoàn thành chức năng, nhiệm vụ, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng. 3 - Xây dựng đội ngũ cán bộ Nhà nƣớc có phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ cách mạng. - Đây chính là sự thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ trong việc xây dựng Nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: " cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Vấn đề này đã được thực tiễn khảo nghiệm trong giành, giữ và xây dựng chính quyền Nhà nước. - Công cuộc đổi mới hiện nay đòi hỏi đội ngũ cán bộ Nhà nước không ngừng phải thay đổi nếp nghĩ, thói quen và cung cách quản lý từ cơ chế bao cấp...sang một phong cách làm việc mới với tư duy nhanh nhạy, khoa học gắn liền với trình độ chuyên môn vừa bảo đảm bề rộng vừa có chiều sâu. - Yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ theo quan điểm Hồ Chí Minh:phải xây dựng đội ngũ cán bộ vừa" hồng" vừa " chuyên". - Cụ thể: Phải xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ ( tiêu chuẩn đầu tiên của người cán bộ ). Đòi hỏi phải đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết, giải quyết đúng mối quan hệ lợi ích cá nhân, tập thể, gắn bó quần chúng, nói đi đôi với làm; Không ngừng xây dựng năng lực chuyên môn cho cán bộ, nâng cao trình độ lý luận về chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, trình độ về tổ chức, quản lý, xây dựng tác phong công tác khoa học, sâu sát cho đội ngũ cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ phải gắn với việc bố trí, sử dụng hợp lý: xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng hệ thống ngạch bậc,thi tuyển, đề bạt, kiểm tra, giám sát, xây dựng chế độ, chính sách, tiền lương thoả đáng...
File đính kèm:
- de_cuong_on_tap_tu_tuong_ho_chi_minh_tong_van_chung_phan_2.pdf