Giải thích pháp luật

Tóm tắt Giải thích pháp luật: ...cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thông qua việc làm rõ nội dung, ý nghĩa của các quy phạm pháp luật, giải thích pháp luật sẽ giúp các chủ thể pháp luật hiểu chính xác và thống nhất các quy định của pháp luật, qua đó nâng cao nhận thức pháp luật và ý thức pháp luật của các chủ thể, giúp họ t... nghị giải thích được UBTVQH chấp nhận thì Ban soạn thảo được thành lập để chuẩn bị dự thảo nghị quyết giải thích. Thông thường, chủ thể giải thích sẽ tự thành lập Ban soạn thảo. UBTVQH thành lập Ban soạn thảo trong trường hợp chủ thể đề nghị giải thích là: UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban...hoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993. Xem xét nội dung của Thông tư này, về bản chất, chính là hoạt động giải thích luật. Việc giải thích luật chỉ được chính thức thực hiện lần đầu tại phiên họp thứ 25 của UBTVQH khoá XI. Trên cơ sở Tờ trình số 06/CP-XDPL ngày 21/01/2005 của Chính phủ về việ...

pdf33 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 330 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giải thích pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị 
quyết được giao cho nhiều cơ quan phối hợp thẩm tra, thì cơ quan được giao chủ 
trì thẩm tra có trách nhiệm tổ chức phiên họp liên tịch để tiến hành thẩm tra. Báo 
cáo thẩm tra phải phản ánh đầy đủ ý kiến của thành viên cơ quan thẩm tra 
- Thảo luận tại phiên họp và xem xét thông qua dự thảo nghị quyết giải thích Hiến 
pháp, luật, pháp lệnh 
Thông thường, UBTVQH quyết định xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết tại 
hai phiên họp. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo nghị quyết, 
UBTVQH có thể xem xét thông qua tại một phiên họp. Về cơ bản, trình tự, thủ tục 
thông qua tại một phiên họp và hai phiên họp là tương tự nhau. Tại phiên họp thứ 
nhất, dự thảo nghị quyết sẽ được biểu quyết thông qua các nội dung cơ bản như 
phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng và những vấn đề còn nhiều ý kiến khác 
nhau. Sau đó, trên cơ sở các ý kiến đóng góp, trong thời gian giữa hai phiên họp, 
UBTVQH chỉ đạo cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan tiến hành nghiên 
cứu tiếp thu và chỉnh lý dự thảo nghị quyết để trình UBTVQH thông qua tại kỳ 
họp thứ hai. Tại phiên họp thứ hai, sau khi, tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo nghị quyết 
được đọc trước toàn thể phiên họp UBTVQH. Các thành viên UBTVQH tiến hành 
biểu quyết thông qua một số nội dung còn ý kiến khác nhau và biểu quyết toàn văn 
dự thảo nghị quyết. Nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh được thông 
qua khi có quá nửa thành viên UBTVQH biểu quyết tán thành, trừ trường hợp Chủ 
tịch nước đề nghị xem xét lại được quy định tại Điều 39 và Điều 103 Hiến pháp 
1992. Theo các quy định này, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nghị quyết được 
UBTVQH thông qua, Chủ tịch nước có quyền đề nghị UBTVQH xem xét lại 
những nội dung mà Chủ tịch nước chưa đồng ý. Nếu nghị quyết đó vẫn được 
UBTVQH biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch 
nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất (khoản 7 Điều 103 Hiến pháp 
1992). 
- Công bố nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh: 
Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể về việc công bố nghị quyết giải thích 
Hiến pháp, luật, pháp lệnh của UBTVQH. Nhưng theo quy định chung, sau khi 
nghị quyết được Chủ tịch Quốc hội ký sẽ được gửi tới Chủ tịch nước để ký lệnh 
công bố. Thời hạn này là 15 ngày, kể từ ngày nghị quyết được thông qua. 
Một số đánh giá về cơ sở pháp lý của giải thích pháp luật 
- Thứ nhất, hệ thống VBQPPL hiện hành mới chỉ quy định về giải thích Hiến 
pháp, luật, pháp lệnh mà chưa có các quy định về giải thích pháp luật. Đã đến lúc 
chúng ta phải nhìn nhận lại giá trị của Điều 53 Hiến pháp 1959, tức là bên cạnh 
việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh thì giải thích các văn bản quy phạm pháp 
cũng cần phải được quy định. Chỉ có như vậy, mới khắc phục được tình trạng đánh 
đồng hoạt động quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật của Chính phủ với 
việc giải thích pháp luật. 
- Thứ hai, giải thích Hiến pháp chưa được thiết lập theo một cơ chế riêng so với 
giải thích các VBQPPL khác. Theo quy định hiện hành, giải thích Hiến pháp được 
thực hiện giống hoạt động giải thích luật, pháp lệnh. Điều này chưa thể hiện được 
vị trí và vai trò của Hiến pháp, đặc biệt trong nhà nước pháp quyền. 
- Thứ ba, UBTVQH là chủ thể duy nhất có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, 
pháp lệnh là chưa hợp lý, đặc biệt về giải thích Hiến pháp và giải thích luật. 
- Thứ tư, quy trình, thủ tục trong hoạt động giải thích còn chưa cụ thể, thiếu chi 
tiết. Cụ thể là: i) Quy trình, thủ tục của việc giải thích Hiến pháp chưa được Quốc 
hội quy định chi tiết theo khoản 1 Điều 13 Luật Ban hành VBQPPL; ii) Chưa phân 
biệt quy trình, thủ tục giữa việc UBTVQH tự mình thực hiện việc giải thích Hiến 
pháp, luật, pháp lệnh và việc UBTVQH thực hiện việc giải thích Hiến pháp, luật, 
pháp lệnh theo đề nghị của các chủ thể có thẩm quyền khác; iii) Quy trình tiếp 
nhận và xử lý đề nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh chưa được quy định. 
Các nội dung cơ bản và yêu cầu của đề nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh 
chưa được quy định cụ thể làm căn cứ cho hoạt động xử lý đề nghị; iv) Việc phân 
công soạn thảo dự thảo nghị quyết trong trường hợp đại biểu Quốc hội đề nghị giải 
thích chưa được làm rõ; v) Quy trình, thủ tục trong hoạt động thẩm tra dự thảo 
nghị quyết giải thích chưa được quy định; vi) Việc lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, 
cá nhân liên quan đến nội dung giải thích chưa được quy định cụ thể; vii) Chưa 
xác định thẩm quyền của Chủ tịch nước ký công bố đối với nghị quyết giải thích 
Hiến pháp, luật, pháp lệnh theo quy định của Điều 51 Luật Ban hành VBQPPL; 
viii) Các thời hạn trong từng giai đoạn chưa được xác định. 
2.2. Việc thực hiện giải thích pháp luật ở Việt Nam trong thời gian qua 
Kể từ lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp 1959, qua gần 50 năm phát triển 
và hoàn thiện cơ sở pháp lý, cho đến nay, UBTVQH đã hai lần thực hiện thẩm 
quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh và cả hai lần đều là giải thích luật; đối 
với giải thích Hiến pháp và giải thích pháp lệnh thì chưa thực hiện. 
Tuy nhiên, tìm hiểu thực tế cho thấy, việc giải thích luật được đặt ra lần đầu tiên 
tại Quốc hội khoá VIII, khi quy định của khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai 1993 đã 
dẫn đến các cách hiểu không thống nhất làm phát sinh tranh chấp về thẩm quyền 
giải quyết tranh chấp giữa Toà án nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Để giải quyết 
việc này, Tổng cục Địa chính đã đề nghị UBTVQH giải thích nội dung này. 
Nhưng do nhiều lý do, việc giải thích luật đã không được thực hiện. Một trong các 
lý do có thể kể đến là nhiều ý kiến trong UBTVQH cho rằng, Điều 89 Luật Đất 
đai, Quốc hội đã giao Chính phủ quy định chi tiết nên việc này thuộc thẩm quyền 
của Chính phủ. Nếu UBTVQH tiến hành giải thích sẽ tạo ra tiền lệ và chắc chắn 
UBTVQH sẽ khó có thể đảm đương được nhiệm vụ này. Kết quả là, Toà án nhân 
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tổng cục Địa chính đã ban hành 
Thông tư số 02/TTLT, ngày 28/7/1997 để hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án 
nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định tại 
khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993. Xem xét nội dung của Thông tư này, về 
bản chất, chính là hoạt động giải thích luật. 
Việc giải thích luật chỉ được chính thức thực hiện lần đầu tại phiên họp thứ 25 của 
UBTVQH khoá XI. Trên cơ sở Tờ trình số 06/CP-XDPL ngày 21/01/2005 của 
Chính phủ về việc giải thích điểm c khoản 2 Điều 241 của Luật Thương mại và 
Báo cáo ý kiến số 1519 a /UBKTNS ngày 24/01/2005 của Thường trực Uỷ ban 
Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội, UBTVQH đã thông qua Nghị quyết số 
746/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 28/01/2005 để giải thích khoản c Điều 241 Luật 
Thương mại 1997. 
Lần thứ hai UBTVQH thực hiện thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh 
là để giải thích khoản 6 Điều 19 của Luật Kiểm toán Nhà nước. Trên cơ sở Tờ 
trình số 682/TTr-KTNN ngày 12/10/2006 của Tổng Kiểm toán Nhà nước và Báo 
cáo ý kiến số 3050/UBKTNS ngày 8/11/2006 của ủy ban Kinh tế và Ngân sách 
của Quốc hội, UBTVQH đã thông qua Nghị quyết số 1053/2006/NQ-UBTVQH11 
ngày 10/11/2006. 
Một số đánh giá về thực hiện giải thích pháp luật ở Việt Nam 
Tìm hiểu hai lần UBTVQH tiến hành giải thích luật trên cho thấy, còn một số bất 
cập sau đây: 
- Các chủ thể pháp luật nói chung và các chủ thể có thẩm quyền đề nghị giải thích 
Hiến pháp, luật, pháp lệnh nói riêng chưa hiểu đầy đủ và tuân thủ đúng các quy 
định của pháp luật. Cụ thể, trong việc giải thích điểm c khoản 2 Điều 241 Luật 
Thương mại, Uỷ ban trọng tài Quốc tế Việt Nam và Phòng Thương mại và Công 
nghiệp Việt Nam đã có công văn đề nghị UBTVQH giải thích luật mặc dù theo 
quy định của pháp luật hai chủ thể trên không có thẩm quyền này[20]. 
- Hoạt động phối hợp công tác giữa các chủ thể chưa đáp ứng yêu cầu; quy trình, 
thủ tục trong hoạt động giải thích luật chưa được thực hiện nghiêm minh. Trong 
việc giải thích điểm c khoản 2 Điều 241 Luật Thương mại giữa Chính phủ, Phòng 
thương mại và công nghịêp Việt Nam, Văn phòng Quốc hội chưa có sự phối hợp 
chặt chẽ, nên đã dẫn đến việc giải thích vụ việc bị kéo dài làm ảnh hưởng tới 
quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp. 
- Tình trạng quá tải trong công việc của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải 
thích và trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ ở các 
cơ quan nhà nước còn hạn chế. Như đã nói, đây là một trong các nguyên nhân 
chính dẫn đến việc giải thích pháp luật nói chung và giải thích Hiến pháp, luật, 
pháp lệnh còn hạn chế. 
3. Một số kiến nghị 
3.1. Một số quan điểm, định hướng 
Nhu cầu giải thích pháp luật phát sinh, tồn tại trong bất cứ hệ thống pháp luật nào, 
do đó, việc nghiên cứu hoàn thiện cơ sở pháp lý và khắc phục những hạn chế trong 
quá trình thực hiện giải thích pháp luật là một đòi hỏi khách quan mang tính tất 
yếu. Điều này lại càng mang tính cấp thiết và cần thiết đối với nước ta. Để hoàn 
thiện việc giải thích pháp luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã 
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; xây dựng nền pháp chế 
xã hội chủ nghĩa, cần phải quán triệt một số quan điểm và định hướng sau đây: 
Thứ nhất, hoàn thiện giải thích pháp luật phải gắn với quá trình xây dựng nhà 
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở quán triệt một số nguyên tắc cơ bản 
sau đây: i) Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả 
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; ii) quyền lực nhà nước là thống nhất, có 
sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền 
lập pháp, hành pháp, tư pháp; iii) pháp luật có vai trò quan trọng trong quản lý nhà 
nước, quản lý xã hội, trong đó, Hiến pháp và luật có vị trí tối cao trong đời sống xã 
hội. Bên cạnh đó khẳng định vai trò của đạo đức và các quy tắc xã hội khác; iv) 
bảo đảm quyền con người, quyền công dân, khẳng định và thực hiện nguyên tắc 
trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân, thực hiện dân chủ xã hội chủ 
nghĩa, tiếp tục thể chế hóa chủ trương dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội; v) 
xác định trách nhiệm đầy đủ của Nhà nước trong việc thực hiện các cam kết quốc 
tế trong quá trình hội nhập kinh tế theo tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối 
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và 
phát triển; vi) bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà 
nước trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân 
dân, do nhân dân, vì nhân dân[21]. 
Thứ hai, hoàn thiện giải thích pháp luật để khắc phục những tồn tại và đáp ứng kịp 
thời yêu cầu giải thích pháp luật phát sinh trên thực tế. Qua hơn 20 năm đổi mới 
vừa qua, trước sức ép của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển của 
xã hội, một số lượng lớn các VBQPPL đã được ra đời. Với tốc độ “làm luật 
khoán” và trình độ làm luật ở nước ta hiện nay, không ai dám chắc chắn và khẳng 
định chất lượng về nội dung của các văn bản đã được ban hành. Thực tế cho thấy, 
tình trạng luật khung, luật ống vẫn còn tồn tại với số lượng không ít làm cho các 
đạo luật chậm đi vào cuộc sống và luôn phải chờ hướng dẫn, quy định chi tiết. Bên 
cạnh đó, vấn đề kỹ thuật lập pháp cũng chưa được quan tâm một cách đúng mức 
nên nội dung của các điều luật không phải lúc nào cũng minh bạch, rõ ràng dễ hiểu 
và đơn nghĩa. Chính vì vậy, trong thời gian tới chắc chắn nhu cầu giải thích pháp 
luật sẽ phát sinh nhiều và cần được giải quyết một cách kịp thời nhằm đảm bảo 
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đặc biệt để bảo vệ quyền lợi của các 
doanh nghiệp trước các tranh chấp quốc tế. 
Trước yêu cầu hoàn thiện hoạt động giải thích pháp luật trong tình hình mới, một 
số nhà khoa học pháp lý đã đề cập, nghiên cứu và đề xuất các giải pháp. Tuy 
nhiên, trong giới khoa học pháp lý hiện nay, với cách thức tiếp cận và căn cứ khác 
nhau nên còn tồn tại các quan điểm khác nhau. Có thể kể đến các quan điểm chính 
sau đây: 
Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc UBTVQH thực hiện giải thích Hiến pháp, luật, 
pháp lệnh là phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay. Do đó, về cơ 
bản, không cần có sự thay đổi nhiều về hoạt động này mà chỉ cần tập trung vào 
việc nâng cao năng lực giải thích của UBTVQH thông qua việc giao nhiệm vụ cụ 
thể cho các đơn vị giúp việc; đồng thời, tăng cường hiệu quả công tác của các đơn 
vị giúp việc cho UBTVQH trong thời gian tới. Quan điểm này cho rằng, nhu cầu 
giải thích pháp luật nói chung và giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh nói riêng ở 
nước ta là không nhiều và giải thích của chúng ta là giải thích chính thức mang 
tính quy phạm chứ không phải giải thích theo từng vụ việc cụ thể; đồng thời, 
Chính phủ có thể giải thích pháp luật trên cơ sở hoạt động quy định chi tiết và 
hướng dẫn thi hành và thực tế trong những năm vừa qua cho thấy, Chính phủ vẫn 
đảm nhiệm công việc này và cũng không phát sinh nhiều bất cập đáng kể. 
Quan điểm thứ hai, xuất phát từ vị trí và vai trò của các VBQPPL trong hệ thống 
VBQPPL, đặc biệt vị trí và vai trò của Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền cho 
rằng, việc giải thích Hiến pháp là một trong các nội dung của hoạt động bảo hiến, 
do đó, nó cần phải được thực hiện theo một cơ chế riêng khác với giải thích các 
VBQPPL khác. Cụ thể, việc giải thích Hiến pháp cần phải được trao cho một cơ 
quan bảo hiến. 
Quan điểm thứ ba, xuất phát từ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà 
nước cho rằng, không thể tồn tại việc một cơ quan cấp dưới lại giải thích văn bản 
của cơ quan cấp trên và chủ thể ban hành văn bản đồng thời là chủ thể thực hiện 
việc giải thích văn bản đó. Do đó, để đảm bảo đối trọng quyền lực và tính khách 
quan trung thực thì việc giải thích pháp luật nên được trao nhánh quyền lực tư 
pháp là thích hợp nhất. 
3.2. Một số kiến nghị cụ thể 
Trên cơ sở lý luận, thực tiễn của việc giải thích pháp luật và định hướng, quan 
điểm hoàn thiện nêu trên, việc giải thích pháp luật ở Việt Nam trong thời gian tới 
cần thực hiện những nội dung sau đây: 
Thứ nhất, cần sớm nghiên cứu quy định về việc giải thích pháp luật thay vì chỉ quy 
định việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp luật như hiện nay để khắc phục tình 
trạng “bỏ ngỏ” việc giải thích các VBQPPL khác hay đánh đồng giữa việc Chính 
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các văn bản quy phạm pháp luật với 
việc giải thích pháp luật. 
Thứ hai, cần thiết lập một cơ chế riêng về giải thích Hiến pháp cho phù hợp với vị 
trí, vai trò của Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền và phù hợp với điều kiện 
Việt Nam. Theo đó, Quốc hội phải là cơ quan (chủ thể) duy nhất có thẩm quyền 
giải thích Hiến pháp với tư cách là một chủ thể lập hiến. 
Việc giao Quốc hội giải thích Hiến pháp cũng hoàn toàn phù hợp với truyền thống 
và nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như nguyên tắc tổ 
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Hơn nữa, nó còn bảo đảm tính thứ bậc 
pháp lý trong hệ thống VBQPPL; bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp trong nhà 
nước pháp quyền. 
Thứ ba, cần có sự phân định về thẩm quyền giữa các chủ thể trong việc giải thích 
pháp luật theo hướng trao một phần thẩm quyền giải thích pháp luật cho hệ thống 
toà án. Bởi vì, tư pháp (theo nghĩa hẹp là hệ thống tòa án)[22] là việc xét xử các 
hành vi vi phạm pháp luật và các vụ kiện tụng trong nhân dân[23]. Toà án là các 
cơ quan xét xử có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã 
hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của 
tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân[24]. 
Mục đích cơ bản của cơ quan tư pháp là bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên 
(cả nhà nước và công dân). Nguyên tắc hoạt động là khách quan và khi xét xử, 
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật[25]. Do vậy, nếu toà án 
giải thích pháp luật sẽ bảo đảm tính khách quan hơn. 
Thêm vào đó, thực tế cho thấy, đa số các nhu cầu giải thích đều phát sinh và gắn 
liền hữu cơ với một vụ việc cụ thể. Nói cách khác, đa số giải thích pháp luật đều là 
giải thích vụ việc và gắn với việc giải quyết một tranh chấp nhất định và theo phân 
công quyền lực nhà nước thì chính Toà án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các 
tranh chấp này. 
Như vậy, không phải lập pháp hay hành pháp mà chỉ có thể là tư pháp mới là cơ 
quan hiểu rõ và gắn liền với nhu cầu giải thích pháp luật; là cơ quan giải thích 
pháp luật mang tính khách quan, trung thực và thiết thực nhất. Điều này cũng phù 
hợp với tiến trình cải cách thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền đến năm 
2010, đã được Đảng ta đề ra. 
Về phạm vi thẩm quyền của Tòa án và hình thức, giá trị pháp lý của nội dung giải 
thích: tất nhiên, khi chúng ta đã trao thẩm quyền giải thích pháp luật cho Tòa án 
tức là đồng nghĩa với việc chúng ta phải công nhận hình thức giải thích chính thức 
mang tính vụ việc bên cạnh hình thức giải thích chính thức mang tính quy phạm 
hiện nay của UBTVQH. Đây cũng chính là một trong các căn cứ để xác định phạm 
vi thẩm quyền giải thích của Tòa án và hình thức, giá trị pháp lý của nội dung giải 
thích. Tức là, trong quá trình tòa án giải quyết một vụ việc cụ thể thuộc thẩm 
quyền mà phát sinh nhu cầu giải thích pháp luật để áp dụng thì Thẩm phán được 
giao xét xử vụ việc đó giải thích. Các nội dung giải thích phải được ghi trong các 
văn bản có liên quan, đặc biệt nội dung giải thích chính thức phải được thể hiện 
trong bản án, quyết định giải quyết vụ việc đó. Giá trị pháp lý của nội dung giải 
thích chính là giá trị pháp lý của quyết định, bản án được tuyên. 
Tuy nhiên, việc trao thẩm quyền giải thích pháp luật cho Tòa án không đồng thời 
đánh mất đi quyền giải thích pháp luật của cơ quan lập pháp – một hoạt động giải 
thích chính thức mang tính quy phạm. Nhưng trong thời gian tới, Quốc hội phải là 
chủ thể đảm nhận thẩm quyền này thay vì ủy quyền cho UBTVQH. Quốc hội phải 
bằng việc ban hành nghị quyết để giải thích các quy định của luật trên cơ sở đề 
nghị giải thích luật của các chủ thể đã được quy định. Phạm vi giải thích pháp luật 
của Quốc hội còn lại chủ yếu là liên quan đến các luật về tổ chức bộ máy các cơ 
quan nhà nước và các quy định về thẩm quyền của các cơ quan nhà nước (các quy 
phạm pháp luật thuộc luật công). Ví dụ, giải thích về thẩm quyền giải quyết tranh 
chấp về đất đai giữa tòa án và ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định của khoản 3 
Điều 38 Luật Đất đai hoặc giải thích về thẩm quyền ban hành VBQPPL của Tổng 
Kiểm toán Nhà nước theo quy định của khoản 3 Điều 16 của Luật Kiểm toán Nhà 
nước. Các quy phạm pháp luật cần giải thích này là rất quan trọng và hiện nay 
cũng không thuộc thẩm quyền của tòa án; do đó, với vị trí là cơ quan quyền lực 
nhà nước cao nhất, Quốc hội mới là chủ thể có đủ tư cách và thẩm quyền để thực 
hiện giải thích. 
Bên cạnh các sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể trong hoạt động 
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh như đã đề cập, thì điều kiện đủ để triển khai 
sự thay đổi đó chính là cần bảo đảm các điều kiện về nhân lực và vật chất. 
Tóm lại, giải thích pháp luật là hoạt động làm sáng tỏ về tư tưởng và nội dung của 
các quy phạm pháp luật. Thông qua hoạt động này, nội dung của các quy phạm 
pháp luật được hiểu một cách rõ ràng, cụ thể và thống nhất hơn, giúp các chủ thể 
pháp luật có nhận thức đúng đắn về pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức pháp 
luật; đảm bảo việc thực thi và áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh, thống nhất; 
bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; tăng cường pháp chế xã hội 
chủ nghĩa. Chính vì vậy, nghiên cứu hoàn thiện cơ chế giải thích pháp luật là một 
nhu cầu cần thiết mang tính tất yếu, khách quan đối với bất cứ hệ thống pháp luật 
của nước nào. Nó còn trở nên thật sự cần thiết hơn khi Việt Nam đang xây dựng 
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân trong điều kiện 
hội nhập kinh tế quốc tế. /. 
TS. HOÀNG VĂN TÚ 

File đính kèm:

  • pdfgiai_thich_phap_luat.pdf