Giáo trình Dinh dưỡng khoáng cây trồng - Nguyễn Bảo Vệ
Tóm tắt Giáo trình Dinh dưỡng khoáng cây trồng - Nguyễn Bảo Vệ: ... leaves isolated chloroplasts. Plant Physiol. 59, 1146-1155. Herzog, H. (1981). Wirkung von zeitlich begrenzten Stickstoff-und Cytokiningaben auf die Fahnenblatt-und Kornentwicklung von Weizen. Z. Pflanzenernaehr. Bodenkd. 144, 241-253. Horgan, J. M. and Wareing, P. F. (1980). Cytokinins a...zyme phytase, dẫn tới sự giảm sỳt nhanh chúng của P liờn kết phytate (Bảng 9.12). Bảng 9.12 Những thay đổi của P thành phần trong hạt lỳa ở giai đoạn nảy mầm (Mukherji et al., 1971) Nẩy mầm giờ P thành phần (mg P/g trọng lượng khụ) Phytate Lipid Vụ cơ Este RNA+DNA 0 2,67 0,43 0,24...rong lục lạp (ở stroma hay ở màng thylakoid) vẫn cũn là vấn đề đang thảo luận (Jackson et al., 1978; Sandmann và Bửger, 1983). Tuy nhiờn, cỏc nhà khoa học thừa nhận rằng, ngoài chức năng trong hệ thống phõn ly nước, Mn cũn cú chức năng chớnh trong lục lạp (là thành phần kim loại của enzyme SOD...
K ở đậu và cà chua (Shea et al., 1967; Gerloff và Gabelman, 1983). Theo nguyên tắc, hiệu quả hấp thu dinh dưỡng cao (được thể hiện bởi ngưỡng thiếu thấp hơn) ở một kiểu di truyền so với một kiểu di truyền khác trong cùng một loài, có thể dựa trên các cơ chế khác nhau: 1. Chuyển vị lại của dưỡng khoáng với tốc độ cao hơn trong suốt thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng hoặc sinh trưởng sinh sản. Thí dụ như Zn ở bắp (Massey và Loeffel, 1976). 253 2. Hoạt tính của enzym khử nitrate cao ở lá và vì vậy việc sử dụng N hiệu quả hơn trong dự trữ protein. Thí dụ, ở hạt lúa mì (Dalling et al., 1975) và ở củ khoai tây (Kapoor và Li, 1982). 3. Sự thay thế K bằng Na có tỷ lệ cao hơn và ngưỡng thiếu của K thấp hơn. Thí dụ ở cà chua (Gerloff và Gabelman, 1983). 4. Sự khác nhau về tỷ lệ sinh trưởng ở chồi dinh dưỡng (source) đối với sinh trưởng của cơ quan sinh sản hay dự trữ (sink). * Phân tích tổng số & ly trích từng phần Thường thì tổng hàm lượng chất khô của một dưỡng chất khoáng được xác định qua sự phân tích cây (sau khi đốt thành tro). Xác định một thành phần nào đó của dưỡng chất khoáng (phần dưỡng chất khoáng hòa tan trong nước hoặc trong acid pha loảng hoặc trong các chelate) đôi khi chỉ thị tình trạng dinh dưỡng tốt hơn. Thí dụ ở Zn, thành phần hòa tan trong nước, thể hiện tình trạng dinh dưỡng tốt hơn là Zn tổng số, hoặc hoạt tính trong carbonic anhydrase (Rahimi và Schropp, 1984). Ở loài cây có sự ưu tiên tích lũy nitrate, thì hàm lượng nitrate là chỉ thị tốt cho tình trạng dinh dưỡng N hơn là N tổng số (Hylton et al., 1965). Hàm lượng nitrate ở gốc thân lúa mì được đo bán định lượng (Beringer và Hess, 1979) hoặc định lượng (Papastylianou et al., 1982), cũng như hàm lượng nitrate ở cuống lá (lá nở hoàn toàn) của củ cải đường (Gilbert et al., 1983) và bông vải (Tabor et al., 1984) là một chỉ thị đáng tin cậy cho tình trạng dinh dưỡng N. Trong một vài năm, cách test nhanh này được sử dụng một cách thành công, để khuyến cáo mức độ N áp dụng trong suốt vụ mùa lúa mì (Wollring và Wehrmann, 1981; Wehrmann et al., 1982). Theo nguyên tắc, phương pháp này thích hợp cho tất cả các loài hoa màu, như củ cải đường (Gilbert et al., 1983), trong đó nitrate là dạng N phổ biến thường được rễ hấp thu và vận chuyển tới chồi. Ở nhiều loài, nitrate được khử chủ yếu ở rễ (thí dụ các cây thuộc Rosaceae) hoặc khi ammonium được cung cấp và hấp thu, thì việc test nhanh một vài amino acid hoặc amide có thể thay thế cho test nhanh nitrate. Việc đánh giá tình trạng dưỡng khoáng S của cây, hàm lượng SO42- (dạng S dự trữ chính) là chỉ thị tốt hơn hàm lượng S tổng (Ulrich và Hylton, 1968). Chỉ thị tốt nhất tình trạng dinh dưỡng S của lúa mì (Ulrich và Hylton, 1968) và lúa nước (Islam và Ponnamperuma, 1982) là sử dụng tỉ số SO42-/S tổng số. Tầm quan trọng của việc xác định chỉ một thành phần dinh dưỡng được trình bày trong Bảng 11.7. Sự khác nhau về tính mẫn cảm của các giống thuốc lá, đối với Bảng 11.7 Hàm lượng Ca và oxalic acid của 2 giống thuốc lá đối với sự mẫn cảm thiếu Ca (Brumagen và Hiatt, 1966). Ca trong chồi (meq/g trọng lượng khô) Ca trong lá trên (meq/g trọng lượng khô) Giống Cây trồng có triệu chứng thiếu Ca (%) Ca Oxalic acid Ca oxalic acid (Ca hoà tan) Ca Oxalic acid Ca oxalic acid (Ca hoà tan) Ky 10 0 0,25 0,08 0,17 0,28 0,11 0,17 B 21 50 0,23 0,16 0,07 0,03 0,15 0,15 254 thiếu Ca, không tương quan tới hàm lượng Ca tổng số, nhưng có tương quan tới thành phần Ca hòa tan ở chồi. Sự khác nhau này là do khác nhau về tốc độ tổng hợp của oxalic acid, và vì vậy khác nhau về sự kết tủa của oxalate calcium hòa tan. Xác định thành phần hòa tan, là phương pháp thích hợp để đánh giá tình trạng dinh dưỡng khoáng Ca ở hai giống thuốc lá. Hàm lượng Fe tổng số, không phải là chỉ thị đáng tin cậy cho tình trạng dinh dưỡng Fe, bởi nhiều lý do. Vì vậy, ngưỡng thiếu hoặc đầy đủ, chỉ để tham khảo. Trong tương lai, để đo sắt “hữu dụng sinh lý” hoặc “sắt hoạt động” cần phải trích ly sắt bằng các acid loảng hoặc trích ly Fe(II) bằng chất chelate. 11.4 Phương pháp mô hoá học và sinh hóa Sự rối loạn dinh dưỡng nói chung, có liên quan tới những thay đổi đặc trưng trong vi cấu trúc tế bào (Vesk et al., 1966; Hecht-Buchholz, 1972) và mô. Các nghiên cứu bằng kính hiển quang học, về sự thay đổi hình thái giải phẩu của mô lá và mô thân, có thể giúp để chẩn đoán sự thiếu Cu, B và Mo (Pissarek, 1980; Bussler, 1981a). Kết hợp phương pháp mô học và mô hóa học, thì rất hữu ích, giúp chẩn đoán thiếu Cu và P (Besford và Syred, 1979). Phương pháp enzyme, bao gồm những enzyme được đánh dấu, là một phương pháp để đánh giá tình trạng dưỡng khoáng của cây. Các phương pháp này dựa trên hoạt tính mạnh hay yếu hơn (tùy vào dinh dưỡng) của một enzyme nào đó, trong mô bị thiếu so với mô có đầy đủ. Thí dụ, Cu và ascorbic acid oxidase; Zn và aldolase hoặc carbonic alhydrase; và Mo và nitrate reductase. Hoạt tính của enzyme được xác định trong mô sau khi trích ly, hoặc lấy lá đem ủ với các dưỡng khoáng khoảng 1-2 ngày, để xác định hoạt tính của enzyme được kích thích. Thí dụ enzyme khử nitrate có thể được kích thích bởi Mo và hoạt tính của peroxidase bởi Fe (Bar- Akiva et al., 1970). Phương pháp enzyme nầy rất có giá trị, nếu như hàm lượng tổng hoặc thành phần hòa tan của dưỡng chất khoáng kém tương quan với hữu dụng sinh lý của nó. Phương pháp enzyme nầy, có thể thay thế phương pháp phân tích hóa học được hay không trong khuyến cáo phân bón, là tùy thuộc tính chọn lọc, sự chính xác, và nó có đơn giản để thử nghiệm không. Như ở trường hợp Fe và peroxidase (Bar-Akiva et al., 1978; Bar-Akiva, 1984), Cu và ascorbic acid oxidase (Delhaize et al., 1982), thì phương pháp enzyme nầy đáp ứng những yêu cầu trên. Tuy nhiên, hiệu chỉnh của phương pháp enzyme vẫn còn là một vấn đề, khi mà tiêu chuẩn thích hợp (ở cây không thiếu dinh dưỡng) chưa có, và không thấy thể hiện triệu chứng thiếu dinh dưỡng. Phương pháp sinh hóa cũng có thể sử dụng đối với dưỡng chất khoáng đa lượng. Sự tích lũy của putrescine ở cây thiếu K là một chỉ thị sinh hóa cho nhu cầu K của cỏ linh lăng, lucerne (Smith et al., 1982). Hoạt tính enzyme khử nitrate có thể sử dụng như là một chỉ thị của tình trạng dinh dưỡng N (Bar-Akiva et al., 1970; Witt và Jungk, 1974). Hoạt tính của pyruvate kinase trong dịch trích của lá tùy thuộc vào hàm lượng K và Mg trong mô lá (Besford, 1978b). Ở mô cây thiếu P, hoạt tính phosphatase cao hơn rất nhiều, đặc biệt là hoạt tính của một vài thành phần nào đó (như thành phần B; isozyme) của enzyme (Bảng 11.8). Sự gia tăng hoạt tính của enzyme phosphatase trong mô thiếu, là hiện tượng sinh lý và sinh hóa, 255 nó có liên quan tới sự thúc đẩy tốc độ thu được hoặc/và tái di động của P (Smyth và Chevalier, 1984). Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là, phương pháp trắc nghiệm enzyme, đặc biệt đối với dưỡng chất khoáng đa lượng, sẽ trở nên quan trọng để đánh giá tình trạng dưỡng khoáng của cây, cũng như là phương pháp trắc nghiệm nhanh nitrate dùng cho khuyến cáo phân N. Bảng 11.8 Sự tăng trưởng, hàm lượng P, và hoạt tính enzyme phosphatase trong chồi non cây lúa mì (Barrett-Lennard và Greenway, 1982) Hoạt tính enzym phosphatase (µmol NPPb/g trọng lượng tươi x giờ) Sự cung cấp P Trọng lượng khô chồi (mg/cây) Hàm lượng P trong chồi (%) Tổng Thành phần A Thành phần B Cao 223 0,8 5,6 4,4 0,5 Thấp 135 0,3 11,1 6,7 2,9 bNPP, p-nitrophenylphosphate 11.5 Phân tích cây & phân tích đất Một thời gian dài, đã có tranh luận về việc phân tích đất hay phân tích cây, cái nào thích hợp để làm cơ sở cho việc lập khuyến cáo phân bón. Cả hai phương pháp, đều xác định mối quan hệ giữa các mức độ dinh dưỡng trong đất (hoặc trong cây) và đường cong biểu diễn năng suất và sinh trưởng tương ứng, qua các thí nghiệm thực hiện trong chậu hoặc ở ngoài đồng, sử dụng các mức độ phân khác nhau. Cả hai phương pháp có những ưu và nhược điểm, và cho nhiều kết quả có chất lượng khác nhau (Schlichting, 1976). Phân tích hóa học đất, cho biết tiềm năng dinh dưỡng hữu dụng, mà rễ hấp thu trong điều kiện thích hợp cho sự sinh trưởng và cho hoạt động của rễ. Phân tích cây, chỉ thể hiện được tình trạng dinh dưỡng thật sự của cây mà thôi. Vì vậy, sự kết hợp cả hai phương pháp nói trên, là cơ sở tốt để lập khuyến cáo áp dụng phân bón hơn là chỉ một phương pháp đơn thuần. Tuy nhiên, tầm quan trọng của mỗi phương pháp cho khuyến cáo thì khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện như loài cây, thành phần đất và chất dinh dưỡng. Ở cây ăn trái và cây rừng, việc phân tích đất đơn thuần, không thỏa mãn yêu cầu để khuyến cáo phân bón, chủ yếu do khó xác định chính xác vùng rễ của cây, mà ở đó rễ hấp thu các dinh dưỡng. Mặt khác, ở những cây đa niên, dao động hàm lượng dinh dưỡng ở lá theo mùa thì tương đối nhỏ, so với hàm lượng dinh dưỡng ở lá của các loài cây hàng niên. Vì vậy, hàm lượng dinh dưỡng của lá trưởng thành, cũng thể hiện chính xác tình trạng dinh dưỡng dài hạn của cây. Hơn nữa, việc xác định khoảng thiếu và đầy đủ đã được thực hiện một cách rất chính xác theo vùng đặc biệt, loài cây và thậm chí theo giống. Vì vậy, ở cây đa niên, phân tích lá là phương pháp tốt nhất được chọn lựa. Ở hoa màu hàng niên, dao động của dưỡng chất khoáng trong thời gian ngắn, đã làm hạn chế việc phân tích cây, dùng làm cơ sở để lập khuyến cáo phân bón. Phân tích hóa học đất cần thiết để tiên đoán sự biến thiên của hàm lượng dinh dưỡng trong suốt mùa sinh trưởng. Ở cây hàng niên, một tỷ lệ lớn các dưỡng chất 256 được lấy từ lớp đất mặt, nên việc phân tích đất dễ dàng hơn, và phân tích đất trở thành công cụ quan trọng để khuyến cáo phân bón, có nhiều hứa hẹn trong tương lai. Trong thâm canh, sự mất cân bằng dưỡng chất khoáng trong cây, đặc biệt là thiếu dưỡng chất khoáng vi lượng, trở nên tăng nghiêm trọng (Franck và Finck, 1980). Vì những lý do kinh tế và sinh thái, việc áp dụng phân bón nên được giữ ở mức độ đảm bảo hàm lượng dưỡng khoáng của cây không vượt xa quá ngưỡng thiếu, vì vậy cần phải được kiểm tra qua phân tích cây. Ở đồng cỏ, việc phân tích cây được dùng thường xuyên hơn việc phân tích đất, không chỉ do tính chất riêng biệt của dạng rễ ở các bãi cỏ hổn hợp (gồm các loài có bộ rễ ăn sâu và cạn), mà còn do tầm quan trọng của các thành phần khoáng của cỏ cho dinh dưỡng gia súc. Tài liệu tham khảo Bansal, K. N., Motiramani, D. P. and Pal, A. R. (1983). Stidies on sulphur in vertisols, I. Soil and plant tests for diagnosing sulphur deficiency in soybean (Glycine max (L.) Merr.). Plant Soil. 70, 133-140. Bar-Akiva, A. (1984). Substitutes for benzidine as H-donor in the peroxidase assay, for rapid diagnosis of iron deficiency in plants. Commun. Soil Sci. Plant Anal. 15, 929-934. Bar-Akiva, A., Maynard, D. N. and English, J. E. (1978). A rapid tissue test for diagnosing iron deficiencies in vegetable crops. HortScience 13, 284-285. Bar-Akiva, A., Sagiv, J. and Leshem, J. (1970). Nitrate reductase activity as an indicator for assessing the nitrogen requirement of grass crops. J. Sci. Food Agric. 21, 405-407. Barrett-Lennard, E. G. and Greenway, H. (1982). Partial separation and characterization of soluble phosphatases from leaves of wheat grown under phosphorus deficiency and water deficit. J. Exp. Bot. 33, 694-704. Beringer, H. and Hess, G. (1979). Brauchbarkeit der Pflanzenanalyse zur Bemessung später N-Gaben zu Winterweizen. Landwirtsch. Forsch. 32, 384- 394. Besford, R. T. (1978b). Use of pyruvate kinase activity of leaf extracts for the quantitative assessment of potassium and mangnesium status of tomato plants. Ann. Bot. (London) [N.S.] 42, 317-324. Besford, R. T. and Syred, A. D. (1979). Effect of phosphorus nutrition on the cellular distribution of acid phosphatase in the leaves of Lycopersicon esculentum L. Ann. Bot. (London) [N.S.] 43, 431-435. Bosch, C. (1983). Ernährungskundliche Untersuchung über die Erkrankung der Fichte (Picea abies Karst.) in den Hochlagen des Bayrischen Waldes. Diplomarbeit, Universität München. Bould, C. (1966). Leaf analysis of deciduous fruits. In “Temperate to Tropical Fruit Nutrition” (N. F. Childers, ed.), pp. 651-684. Horticultural Publications, Rutgers University, New Brunswick, New Jersey. 257 Bouma, D. (1983). Diagnosis of mineral deficiencies using plant tests. In “Encyclopedia of Plant Physiology, New Series” (A. Läuchli and R. L. Bieleski, eds.), Vol. 15A, pp. 120-146. Springer-Verlag, Berlin and New York. Brown, R. H. (1978). A difference in N use efficiency in C3 and C4 plants and its implication in adaptation and evolution. Crop. Sci. 18, 93-98. Brumagen, D. m. and Hiatt, A. T. (1966). The relationship of oxalic acid to the translocation and utilization of calcium in Nicotiana tobacum. Plant Soil. 24, 239-249. Bussler, W. (1981a). Microscopic possibilities for thr diagnosis of trace element stress in plants. J. Plant Nutr. 3, 115-128. Colman, R. L. and Lazemby, A. (1970). Factors affecting the response of tropical and temperate grasses to fertilizer nitrogen. Proc. 11th, Int. Grassl. Conf. Surf. Paradise, pp. 393-397. Dalling, M. J., Halloran, G. M. and Wilson, J. H. (1975). The ralationship betwwen nitrate reductase acitivity and grain nitrogen productivity in wheat. Aust. J. Agric. Res. 26, 1-10. Delhaize, E., Loneragan, J. F. and Webb, J. (1982). Enzymic iron diagnosis of copper iron deficiency in subterrannean clover. II. A simple field test. Aust. Agric. Res. 33, 981-987. Elliott, G. C. and Läuchli, A. (1985). Phosphorus efficiency and phosphate-iron interaction in maize. Agron. J. 77, 399-403. Franck, E. and Finck, A. (1980). Ermittlung von Zink-Ertragsgrenzwerten für Hafer und Weizen. Z. Pflanzenernaehr. Bodenkd. 143, 38-46. Gerloff, G. C. and Gabelman, W. H. (1983). Genetic basis of inorganic plant nutrition. In “Encyclopedia of Plant Physiology, New Series” (A. Läuchli and R. L. Bieleski, eds.), Vol. 15B, pp. 453-480. Springer-Verlag, Berlin and New York. Gilbert, W. A., Ludwick, A. E. and Westfall, D. G. (1983). Predicting in-season N requirements of sugar beets based on soil and petiole nitrate. Agron. J. 73, 1018-1022. Hecht-Buchholz, C. (1972). Wirkung der Mineralstoffernährung auf die feinstruktur der Pflanzenzelle. Z. Pflanzenernaehr. Bodenkd. 132, 45-68. Horst, W. J. and Marschner, H. (1978a). Effect of silicon on manganese tolerance of bean plants (Phaseolus vulgaris L.). Plant Soil 72, 213-218. Howeler, R. H., Edwards, D. G. and Asher, C. J. (1982b). Micronutrient deficiencies and toxicities of cassava plants grown in nutrients solutions. I. Critical tissue concentration. J. Plant Nutr. 5, 1059-1076. Hylton, L. O., Jr., Ulrich, A. and Cornelius, D. R. (1965). Comparision of nitrogen constituents as indicators of the nitrogen status of Italian ryegrass and relation of top to root growth. Crop Sci. 5, 21-22. Islam, M. M. and Ponnamperuma, F. N. (1982). Soil and plant tests for available sulfur in wetland rice soils. Plant Soi 68, 97-113. Jarrell, W. M. and Beverly, , R. B. (1981). The dilution effect in plant nutrition studies. Adv. Agron. 34, 197-224. 258 Jones, J. B. Jr. (1972). Plant tissue analysis for micronutrients. In “Micronutrients in Agriculture” (J. J. Mortvedt, P. M. Giordano and W. L. Lindsay, eds.), pp. 319-346. Soil Sci. Soc. Am., Madison, Wisconsin. Kapoor, A. C. and Li, P. H. (1967). Effects of age and variety on nitrate reductase and nitrogen fractions in potato plants. J. Sci. Food Agric. 33, 401-406. Läuchli, A. (1976b). Genotypic variation in transport. In “Transport in Plants 2, Part A” (U. Lüttge and M. G. Pitman, eds.), pp. 372-393. Springer-Verlag, Berlin and New York. Leigh, R. A., Stribley, D. P. and Johnston, A. E. (1982). How should tissue nutrient concentrations be expressed? In “Proceedings of the Ninth Plant Nutrition Colloquium, Warwick, England” (A. Scaife, ed.), pp. 39-44. Commonw. Agric. Bur., Farnham Royal, Bucks. Massey, H. F. and Loeffel, A. (1976). Species specific variations in zinc content of corn kernels. Agron. J. 59, 214-217. Papastylianou, I., Graham, R. D. and Puckridge, D. W. (1982). The diagnosis in wheat by means of a critical nitrate concentration in stem bases. Commun. Soil Sci. Plant Anal. 13, 473-485. Pissarek, H. P. (1979). Der Einfluss von Grad und Dauer des Mg-Mangels auf den Kornertrag von Hafer. Z. Acker. Pflanzenbau 148, 62-71. Pissarek, H. P. (1980). Makro-und Mikrosymptome des Bormangels bei Sonnenblumen, Chinakohl und mais. Z. Pflanzenernaehr. Bodenkd. 143, 150-160. Rahimi, A. and Schropp, A. (1984). Carboanhydraseaktivität und extrahierbares Zink als Maßstab für die Zink-Versorgung von Pflanzen. Z. Pflanzenernaehr. Bodenkd. 147, 572-583. Rasmussen, P. E., Ramig, R. E., Ekin, L. G. and Rhode, C. R. (1977). Tissue analyses guidelines for diagnosing sulfur deficiency in white wheat. Plant Soil. 46, 153-163. Reuter, D. J., Robson, A. D., Loneragan, J. F. and Tranthim-Fryer, D. J. (1981). Copper nutrition of subterranean clover (Trifolium subterraneum L. cv. Seaton Park). II. Effects of copper supply on distribution of copper and the diagnosis of copper deficiency by plant analysis. Aust. J. Agric. Res. 32, 267- 282. Richards, B. N. and Bevege, D. I. (1969). Critical foliage concentrations of nitrogen and phosphorus as a guide to the nutrients status of Araucaria underplanted to Pinus. Plant Soil 31, 328-336. Robson, A. D. and Pitman, M. G. (1983). Interactions between nutrients in higher plants. In “Encyclopedia of Plant Physiology, New Series” (A. Läuchli and R. L. Bieleski, eds.), Vol. 15A, pp. 147-180. Springer-Verlag, Berlin and New York Schlichting, E. (1976). Pflanzen-und Bodenanalysen zur Charakterisierung des Nährstoffzustandes von Standorten. Landwirtsch. Forsch. 29, 317-321. Shea, P. F., Gabelman, W. H. and Gerloff, G. C. (1967). The inheritance of efficiency in potassium utilization in snap beans (Phaseolus vulgaris L.) Proc. Am. Soc. Hortic. Sci. 91, 286-293. 259 Smith, G. S., Lauren, D. R., Cornforth, I. S. and Agnew, M. P. (1982). Evaluation of putrescine as a biochemical indicator of the potassium requirements of lecerne. New Phytol. 91, 419-428. Smyth, D. A. and Chevalier, P. (1984). Increases in phosphatase and β–glucosidase activities in wheat seedlings in response to phosphorus-deficient growth. J. Plant Nutr. 7, 1221-1231. Tabor, J. A., Pennington, D. A. and Warwick, A. W. (1984). Sampling variability of petiole nitrate in irrigated cotto. Commun. Soil Sci. Plant Anal. 15, 573-585. Ulrich, A. and Hylton, L. O., Jr. (1968). Sulfur nutrition of Italian ryegrass measured by growth and mineral content. Plant Soil. 29, 274-284. Vesk, M., Possingham, V. and Mercer, F. V. (1966). The effect of mineral nutrient deficiency on the structure of the leaf cells of tomato, spinach and maize. Aust. J. Bot. 14, 1-18. Wehrmann, J., Scharpf, H. C., Böhmer, M. and Wollring, J. (1982). Determination of nitrogen fertilizer requiremtnes by nitrate analysis of the soil and of the plant. In “Proceedings of the Ninth Plant Nutrition Colloquium, Warwick, England” (A. Scaife, ed.), pp. 702-709. Commonw. Agric. Bur., Farnham Royal, Bucks. Whiteaker, G., Gerloff, G. C., Gabelman, W. H. and Lindgren, D. (1976). Intraspecific differences in growth of beans at stress levels of phosporus. J. Am. Soc. Hortic. Sci. 101, 472-475. Witt, H. H. and Jungk, A. (1974). The nitrate inducible nitrate reductase activity in relation to nitrogen nutritional status of plants. Proc. 7th Int. Collop. Plant Anal. Fert. Probl., pp. 519-527. Hannover. Wollring, J. and Wehrmann, J. (1981). Der Nitrat-Schnelltest-Entscheidungshilfe für die N-Spätdüngung. Mitt. DLG 8, 448-449.
File đính kèm:
- giao_trinh_dinh_duong_khoang_cay_trong_nguyen_bao_ve.pdf