Giáo trình Marketing căn bản (Phần 2)
Tóm tắt Giáo trình Marketing căn bản (Phần 2): ...ủa marketing mix mà công ty sử dụng để đạt được mục tiêu. Các quyết định về giá phải được phối hợp với các quyết định về sản phẩm, phân phối và truyền thông để hình thành một chương trình marketing nhất quán và có hiệu quả. Các quyết định về sản phẩm, phân phối hay truyền thông đều có ảnh hư... thắng thầu thường phải đưa ra một mức giá dự thầu thấp hơn so với các nhà thầu khác. Nếu chọn mức giá dự thầu ngang bằng giá của đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp phải chứng minh được chất lượng sản phẩm ưu thế hơn hẳn của đối thủ cạnh tranh. Phương pháp định giá cạnh tranh được áp dụng rất ...giống nhà bán buôn trong kênh hàng tiêu dùng. Kênh C giới thiệu thêm người trung gian thứ hai: đại lý, hoạt động như lực lượng bán độc lập của nhà sản xuất và giới thiệu nhà sản xuất cho người sử dụng công nghiệp. A B C D Nhµ SX Ngêi SDCN Nhµ SX Nhµ SX Nhµ SX Nhµ PPCN §¹i lý ...
o của công ty thường hướng vào những vấn đề sau đây: + Tăng doanh số lượng hàng tiêu thụ trên thị trường truyền thống. + Mở ra thị trường mới + Giới thiệu sản phẩm mới Giáo trình Marketing căn bản Tổ bộ môn Kế toán DN Trường Cao đẳng nghề Nam Định - 122 - + Xây dựng và củng cố uy tín của những nhãn hiệu và công ty. Quảng cáo thông tin được dùng nhiều trong giai đoạn đầu của chu kỳ sống sản phẩm với mục tiêu tạo nhu cầu ban đàu. Quảng cáo thuyết phục trở nên quan trọng ở giai đoạn cạnh tranh khi mục tiêu của công ty là làm tăng nhu cầu. Quảng cáo nhắc nhở rất quan trọng trong giai đoạn trưởng thành của sản phẩm nhằm duy trì khách hàng. 2.1.2. Xác định ngân sách quảng cáo Căn cứ vào mục tiêu quảng cáo của công ty để xác định ngân sách. Cần chú ý tới việc phân phối ngân sách truyền thông cho quảng cáo và các hoạt động truyền thông khác. Phân phối ngân sách cho quảng cáo cho từng loại sản phẩm, từng thị trường cần hoạt động quảng cáo. 2.1.3. Quyết định nội dung truyền đạt Những nhà quảng cáo dùng nhiều giải pháp để hình thành những ý tưởng diễn tả mục tiêu quảng cáo. Một số người sử dụng phương pháp quy nạp bằng cách nói chuyện với khách hàng, với các nhà buôn, các đối thủ cạnh tranh để tìm ra nội dung cần truyền đạt. Một số khác sử dụng phương pháp suy diễn để hình thành nội dung thông điệp quảng cáo. Nội dung quảng cáo thường được đánh giá dựa trên tính hấp dẫn, tính độc đáo và tính đáng tin cậy. Thông điệp quảng cáo phải nói lên những điều đáng mong ước hay thú vị về sản phẩm. Nó cũng cần nói lên những khía cạnh độc đáo, khác biệt so với những sản phẩm khác. Công ty cần phân tích ba tính chất này trong nội dung thông điệp quảng cáo của mình. 2.1.4. Quyết định phương tiện quảng cáo Công ty cần căn cứ vào mục tiêu quảng cáo, đối tượng quảng cáo và đối tượng nhận tin mà lựa chọn phương tiện truyền tin quảng cáo cụ thể. Dưới đây là một số đặc tính nổi bật của một số phương tiện quảng cáo mà các công ty thường sử dụng. - Báo: Dễ sử dụng, kịp thời, phổ biến rộng tại thị trường địa phương, độ tin cậy cao. Tuy nhiên, nhược điểm là tuổi thọ ngắn, số lượng độc giả hạn chế. - Tạp chí: Độ chọn lọc theo dân số và địa lý cao, gắn bó với người đọc lâu dài. Tuy nhiên, nhược điểm là thời gian chờ đợi lâu, một số lượng phát hành lãng phí. Giáo trình Marketing căn bản Tổ bộ môn Kế toán DN Trường Cao đẳng nghề Nam Định - 123 - - Ti vi: ở các nước có kinh tế phát triển quảng cáo qua tivi rất thông dụng. Quảng cáo qua ti vi khai thác được các lợi thế về âm thanh, ngôn ngữ, hình ảnh, màu sắc. Đối tượng khán giả rộng, thuộc nhiều tầng lớp xã hội, khả năng truyền thông nhan dễ dàng tạo nên sự chú ý. Nhược điểm của TV là thời lượng có hạn, chi phí cao, khán giả ít chọn lọc, thời gian quá ngắn. - Radio: Người nghe nhiều, chi phí thấp, linh hoạt về địa lý. Tuy nhiên, chỉ giới thiệu bằng âm thanh, khả năng gây chú ý thấp, tuổi thọ ngắn. - Ngoài ra các công ty còn quảng cáo qua panô, áp phích, qua catologe, qua thư, bao bì và qua truyền miệng Mỗi loại phương tiện đều có những lợi thế và tác dụng nhất định. 2.1.5.Đánh giá chương trình quảng cáo Đánh giá hiệu quả của quảng cáo là rất cần thiết những cũng rất khó khăn. Trước hết, người ta dựa vào doanh số để đánh giá hiệu quả quảng cáo. Quảng cáo làm tăng mức độ nhận biết và ưa thích hàng hoá lên bao nhiêu và cuối cùng làm tăng doanh số lên bao nhiêu. Phương pháp đánh giá hiệu quả là so sánh khối lượng bán gia tăng với những chi phí quảng cáo trong thời kỳ đã qua. Hiệu quả quảng cáo còn được đánh giá qua hiệu quả hoạt động truyền thông bằng các chỉ tiêu như: có bao nhiêu người biết đến, bao nhiêu người nhớ, bao nhiêu người ưa thích thông điệp quảng cáo. 2.2. Khuyến mại Khuyến mại là công cụ truyền thông sử dụng hỗn hợp các công cụ cổ động, kích thích khách hàng nhằm tăng nhanh nhu cầu về sản phẩm tại chỗ tức thì. 2.2.1.Xác định nhiệm vụ: Mục tiêu khuyến mại rút ra từ mục tiêu marketing cơ bản đối với mỗi sản phẩm. Những mục tiêu riêng của khuyến mại sẽ thay đổi tuỳ theo loại thị trường. Với người tiêu dùng, khuyến khích họ tiêu dùng nhiều hơn, mua với số lượng lớn hơn và mở ra những khách hàng mới. Với các trung gian phân phối: khuyến khích tăng cường hoạt động phân phối, củng cố và mở rộng kênh phân phối, thực hiện dự trữ thị trường, phân phối thường xuyên liên tục nhằm mở rộng thời vụ tiêu dùng cho sản phẩm. 2.2.2.Lựa chọn công cụ khuyến mãi Có nhiều công cụ khuyến mãi khác nhau nhằm đạt được những mục tiêu Giáo trình Marketing căn bản Tổ bộ môn Kế toán DN Trường Cao đẳng nghề Nam Định - 124 - khuyến mãi khác nhau tuỳ theo thị trường, sản phẩm và điều kiện cạnh tranh. Sau đây là một số công cụ chính: + Nhóm công cụ tạo nên lợi ích kinh tế trực tiếp: Hàng mẫu, phiếu thưởng, quà tặng + Nhóm công cụ thúc đẩy hoạt động của các trung gian trong kênh phân phối: Tài trợ về tài chính, tài trợ quảng cáo, hàng miễn phí, hội nghị khách hàng, hội chợ và triển lãm thương mại 2.2.3. Phát triển chương trình khuyến mại. Trong việc hoạch định chương trình khuyến mại, nhà marketing cần phải phối hợp nhiều phương tiện truyền thông để thông tin cho những khán giả mục tiêu về đợt khuyến mại sắp tới, chẳnghạn như quảng cáo trên TV, băng – rôn, panô, áp – phích, gửi thư trực tiếp. Sau khi đã quyết định về một công cụ khuyễn mại cụ thể, nhà marketing cần cân nhắc 5 yếu tố sau đây: - Quy mô của khuyến mại: Quy mô thường được xác định bằng tổng giá trị giải thưởng và cơ cấu giải thưởng. Quy mô quá nhỏ không hấp dẫn khách hàng còn quy mô quá lớn làm doanh nghiệp tốn kém và không hiệu quả. - Điều kiện tham gia: Ai có đủ điều kiện tham gia chương trình đó. - Độ dài của khuyến mại: Theo một nghiên cứu, tần suất tối ưu là ba tuần một quý và độ dài tối ưu là chu kỳ mua sắm trung bình. - Phương tiện phân phối: Chẳng hạn như các thẻ tham dự khuyễn mại được đặt vào trong bao bì, được đặt tại các điểm mua sắm hay trong quảng cáo về sản phẩm. - Thời điểm khuyến mại. Thời điểm khuyến mại cần được lựa chọn cho phù hợp với lịch mua sắm của khách hàng, chẳng hạn khuyến mại giấy viết, vở viết, sách giáo khoa nên được bắt đầu trước ngày khai giảng 2.2.4. Xác định ngân sách khuyến mại. Ngân sách khuyến mại cần được xác định như là một bộ phận riêng trong tổng ngân sáhc xúc tiến bán hàng. Việc đưa khuyến mại gộp chung với quảng cáo hay quan hệ công chúng sẽ dẫn tới vấn đề coi nhẹ khuyến mại và khuyến mại không phối hợp tốt với các thành phần xúc tiến bán khác. Doanh nghiệp cần công nhận và quản trị một ngân sách khuyến mại riêng biệt. Giáo trình Marketing căn bản Tổ bộ môn Kế toán DN Trường Cao đẳng nghề Nam Định - 125 - Để phát triển các chương trình xúc tiến bán phối hợp, ngân sách khuyến mại cần được xác định theo phương pháp căn cứ vào mục tiêu. Từ mục tiêu và chiến lược, doanh nghiệp sẽ lựa chọn những công cụ khuyến mại cụ thể và ước tính ngân sách. 2.2.5. Đánh giá kết quả Để đánh giá một chương trình khuyến mại, có thể sử dụng ba phương pháp sau đây: phân tích dữ liệu bán hàng, điều tra khách hàng và nghiên cứu thử nghiệm. Phân tích dữ liệu bán hàng cho biết sự biến động của doanh số và thị phần trước, trong và sau đợt khuyến mại. Điều tra khách hàng có thể được tiến hành để tìm hiểu về thái độ và hành vi của khách hàng: bao nhiêu nhớ lại được khuyến mại, họ nghĩ gì về no, bao nhiêu người đã tham gia và khuyến mại có ảnh hưởng gì đến sự lựa chọn thương hiệu của họ không. Nghiên cứu thử nghiệm cũng có thể sử dụng theo cách thay đổi một số biến số của khuyến mại như giá trị khuyến mại, thời gian khuyến mại và phương tiện phân phối để xem phản ứng của khách hàng 2.3 Tuyên truyền Tuyên truyền là việc sử dụng những phương tiện truyền thông đại chúng truyền tin không mất tiền về hàng hóa, dịch vụ và về chính doanh nghiệp tới khách hàng hiện tại và tiềm năng nhằm đạt những mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp. 2.3.1. Nội dung tuyên truyền gồm: - Tuyên truyền cho sản phẩm: gồm các nỗ lực làm cho công chúng biết về một sản phẩm nào đó. - Tuyên truyền hợp tác: hoạt động này bao gồm việc truyền thông nội bộ cũng như bên ngoài để người ta hiểu về tổ chức của mình. Nhằm tạo một hình ảnh tốt đẹp, tăng ưu thế của công ty. - Vận động hành lang: Là việc giao tiếp với các nhà soạn thảo luật, các quan chức nhà nước để ủng hộ hay cản trở một chính sách nào đó. - Tuyên truyền về xử lý một sự việc bất lợi cho công ty đang lan truyền ra ngoài. Giáo trình Marketing căn bản Tổ bộ môn Kế toán DN Trường Cao đẳng nghề Nam Định - 126 - Hoạt động tuyên truyền còn được thực hiện ở nhiều lĩnh vực nhằm giải quyết những công việc cụ thể công ty đặt ra. 2.3.2.Những quyết định cơ bản Những quyết định cơ bản trong tuyên truyền gồm: - Xác định mục tiêu Mục tiêu tuyên truyền xuất phát từ mục tiêu Marketing của công ty. Để thực hiện được nhiệm vụ của mục tiêu chiến lược đặt ra, tuyên truyền phải chi tiết hoá để có được các mục tiêu nhiệm vụ cụ thể đối với các loại sản phẩm hàng hoá trong những thời kỳ khác nhau trên các thị trường. Mục tiêu càng chi tiết, cụ thể và rõ nét, nó bao hàm cả định hướng và định lượng thì tổ chức hoạt động sẽ thuận lợi. Mục tiêu có thể là sự thuyết phục, hướng dẫn, khuyên nhủ, vận động, thuyết minh Đối với công chúng đồng thời thực hiện nhiệm cụ nào đó của công ty. - Thiết kế thông điệp và chọn công cụ tuyên truyền Thông điệp trong tuyên truyền là những câu chuyện hay, những bài viết lý thú nói về sản phẩm hay công ty, tạo các sự kiện như biểu diễn thời trang, liên hoan văn nghệ, các cuộc thi - Thực hiện tuyên truyền: Hoạt động tuyên truyền diễn ra trong một thời gian ở một không gian nhất định. Việc huy động các phương tiện thông tin và sử dụng lực lượng không đơn giản. Công ty cần có kế hoạch chi tiết và cụ thể trong việc sáng tạo, lựa chọn các thông điệp từ lực lượng biên tập trong hoặc ngoài công ty, lựa chọn phương tiện truyền tin. Vấn đề quan trọng nhất là xây dựng và khai thác được các mối quan hệ cá nhân với những người biên tập ở các phương tiện truyền tin để đảm bảo tin được đăng tải. - Đánh giá kết quả tuyên truyền Cũng giống như quảng cáo, hoạt động truyền thông rất khó đánh giá vì những tác động của nó không trực tiếp và không dễ nhận biết. Một số phương pháp đánh giá có thể áp dụng: + Đo lường số lần thông tin xuất hiện trên phương tiện thông tin đại chúng. Người ta có thể lưu giữ được tài liệu về hoạt động tuyên truyền này. Chẳng hạn, bao nhiêu lần xuất hiện trên tivi với tổng lượng bao nhiêu phút. + Đo lượng sự thay đổi thái độ của khách hàng với sản phẩm. Giáo trình Marketing căn bản Tổ bộ môn Kế toán DN Trường Cao đẳng nghề Nam Định - 127 - + Đo lường sự thay đổi doanh số và lợi nhuận. Người ta so sánh chỉ tiêu doanh số trước và sau chiến dịch. Nếu chiến dịch tác động có hiệu quả sẽ làm doanh số tăng lên sau chiến dịch. 2.4. Bán hàng cá nhân Bán hàng cá nhân bao gồm những mối quan hệ trực tiếp giữa người bán và các khách hàng hiện tại và tiềm năng. Nó là một loại ảnh hưởng cá nhân và là một quá trình giao tiếp phức tạp. 2.4.1. Quá trình bán hàng Công ty thường đặt những mục tiêu khác nhau cho người bán hàng của họ. Những nhiệm vụ chủ yếu của người bán là: - Thăm dò tìm kiếm những khách hàng mới. - Truyền đạt khéo léo những thông tin về sản phẩm của công ty. - Thực hiện việc bán. - Cung cấp các dịch vụ cho khách hàng, tư vấn về các vấn đề mà khách hàng gặp phải, trợ giúp kỹ thuật, giao hàng. - Nghiên cứu và thu thập thông tin về thị trường. - Đánh giá tính chất khách hàng và điều phối hàng hóa. Bán hàng cá nhân là một nghệ thuật hơn là một khoa học. Bởi vì quá trình bán hàng phải rất sáng tạo, với điều kiện như nhau, một người bán được đào tạo có thể bán được nhiều hơn một người bán không đào tạơ. Người bán phải hiểu rõ quá trình bán hàng. tất nhiên quá trình bán hành sẽ khác nhau theo qui mô của công ty, đặc điểm của sản phẩm, đặc điểm thị trường . Về cơ bản quá trình bán bao gồm các bước sau: Thăm dò và đánh giá Bước đầu tiên trong tiến trình bán hàng là xác định các khách hàng tiềm năng. Mặc dù công ty cung cấp những thông tin song người bán cần phải tiếp xúc với nhiều khách hàng, phát triển những mối quan hệ riêng của mình và duy trì, khai thác tốt các mối quan hệ đó. Người bán cần biết loại ra những đầu mối kém triển vọng. Tiền tiếp xúc Người bán hàng cần biết về công ty khách hàng tiềm năng và những người mua của công ty, càng chi tiết cụ thể càng tốt. Ví cụ cần biết kiểu mua, ai quyết Giáo trình Marketing căn bản Tổ bộ môn Kế toán DN Trường Cao đẳng nghề Nam Định - 128 - định mua, khả năng tài chính Có thể suy nghĩ về cách thức tiếp cận nào là tốt nhất như thăm viến trực tiếp, điện thoại hoặc thư từ và phác thảo mục tiêu bán của mình. - Tiếp xúc: Nhân viên bán hàng phải biết cách tiếp xúc chào mời người mua để có được mối liên hệ tốt ban đầu. Trong tiếp xúc ngoại hình và trang phục phù hợp cùng với những câu hỏi then chốt và chú ý lắng nghe là rất quan trọng. Người bán cần phân tích để hiểu nhu cầu của người mua. Giới thiệu và chứng minh Nhân viên bán hàng trình bày sản phẩm với người mua tuân theo quy luật nhận thức của truyền thông nhằm đạt được sự chú ý, duy trì sự quan tâm, khuyến khích sự ham muốn và nhận được hành động. Cần nhấn mạnh lợi ích của khách hàng, dùng đặc tính sản phẩm chứng minh cho những điều được nhấn mạnh như: Chi phí ít hơn, tiết kiệm nhiều hơn, gọn nhẹ hơn, giá trị sử dụngcao hơn - Xử lý những từ chối: Khách hàng hầu như luôn luôn từ chối. sự từ chối đó phần lớn mang tính chất tâm lý. Sự phán kháng mang tính tâmlý là do không ưa bị quấy rầy, ưa thích nhãn hiệu hoặc nguồn cung cấp quen thuộc, không muốn từ bỏ ưa thích của mình, không thích phải quyết định, Ngoài ra còn có sự chống đối logic như phản ứng về giá cả, thời điểm cung ứng hoặc đặc tính nào đó của sản phẩm. Người bán cần được huấn luyện kỹ để xử lý những từ chối này. Để hiểu rõ nội dung phản kháng, có thể nêu câu hỏi để chính người mua trả lời về sự phản kháng của họ và biến nó thành một trong những nguyên nhân của việc mua hàng. - Kết thúc: Những nhân viên bán hàng cần phải sớm nhận ra những dấu hiệu kết thúc ở người mua, bao gồm những tác động vật lý, những lời nói hay bình luận, những câu hỏi. Người bán hàng có thể sử dụng nhiều kỹ thuật kết thúc. Có thể nhắc lại hệ thống những điểm đã thoả thuận về một đơn hàng, đề xuất được giúp đỡ về việc soạn thảo đơn hàng, nêu ra lợi ích cho người mua nếu họ có quyết định mua sớm hơn - Theo dõi: Giáo trình Marketing căn bản Tổ bộ môn Kế toán DN Trường Cao đẳng nghề Nam Định - 129 - Đây là bước cuối cùng song rất quan trọng nhằm kiểm tra, đánh giá sự hài lòng của khách hàng và khả năng mua hàng lặp lại của họ Ngay sau khi kết thúc bán, nhân viên bán hàng khéo léo bổ sung những thông tin cần thiết và mới cho khách hàng như: về thời gian, các điều khoản mua Nhân viên bán hàng phải có thời gian biểu theo dõi khi có đơn hàng đầu tiên và quan tâm đến việc vận hành có thông suốt hay còn trục trặc. 2.5. Marketing trực tiếp Marketing trực tiếp là sự kết hợp của 3 yếu tố quảng cáo, khuyến mại và bán hàng cá nhân để có thể thực hiện việc bán hàng trực tiếp khôgn qua trung gian. 2.5.1.Những công cụ chủ yếu của marketing trực tiếp: - Marketing bằng thư trực tiếp: Doanh nghiệp gửi thư qua đường bưu điện, gửi fax, gửi thư điện tử (e-mail) và gửi thư thoại (voice mail) những thư chào hàng, tờ quảng cáo và các hình thức chào hàng khác cho khách hàng. Qua đó hy vọng bán được hàng hoá hay dịch vụ, thu thập hay tuyển chịn được danh sách khách hàng cho lực lượng bán hàng, thông báo thông tin hoặc gửi quà tặng để cảm ơn khách hàng -Marketing bằng catalog: doanh nghiệp gửi thư trong đó có một hoặc nhiều catalog về sản phẩm tới những địa chỉ chọn lọc để đảm bảo rằng những người nhận sẽ có xu hướng đặt mua cao. - Marketing qua điện thoại: doanh nghiepẹ sử dụng điện thoài để chào hừng trực tiếp đến những khách hàng chọn lọc. Doanh nghiệp cũng có thể đặt một số điện thoại miễn phí để khách hàng đặt mua những mặt hàng mà họ biết được qua quảng cáo truyền hình, truyền thanh, gửi thư trực tiếp, catologe. - Marketing trực tiếp trên truyền hình . Truyền hình được sử dụng theo hai cách để bán sản phẩm trực tiếp cho khách hàng. Cách thứ nhất là phát các chương trình truyền hình giới thiệu về sản phẩm và cho khách hàng số điện thoại miễn phí để đặt hàng. Cách thứ hai, sử dụng toàn bộ chương trình truyền hình hoặc kênh truyền hình cho việc quảng cáo và bán sản phẩm và dịch vụ. - Marketing qua ki-ốt. Một số doanh nghiệp thiết kế các máy tiếp nhận đơn đặt hàng cho khách hàng và đặt chúng ở trong cửa hàng, sân bay và các địa điểm khác. - Kênh trực tuyến (mạng Internet): sử dụng mạng Internet để quảng cáo và tạo giao dịch. Khách hàng có thể đặt hàng, thanh toán trực tiếp qua mạng. Giáo trình Marketing căn bản Tổ bộ môn Kế toán DN Trường Cao đẳng nghề Nam Định - 130 - Marketing trực tiếp đã và đang được các nhà sản xuất, bán lẻ, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ sử dụng. Marketing trực tiếp mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng như lựa chọn và đặt hàng thuận tiện, tiết kiện thời gian. Đối với người bán, marketing trực tiếp cho phép chọn lọc khách hàng triển vọng kỹ lưỡng, các định được thời gian tiếp cận khách hàng chính xác hơn. 2.5.2.Các quyết định chủ yếu trong marketing trực tiếp Để thực hiện một chiến dịch marketing trực tiếp, doanh nghiệp phải quyết định về mục tiêu, đối tượng, chiến dịch chào hàng, các thử nghiệm khác nhau và đánh giá mức độ thành công của chiến dịch. - Xác định mục tiêu: Mục tiêu của marketing trực tiếp là làm cho khách hàng tiềm năng mua hàng ngay lập tức qua mức độ phản ứng đáp lại. Chiến dịch marketing trực tiếo cũng còn có mục tiêu khác là lập danh sách khách hàng triển vọng cho lực lượng bán hàng, cung cấp thông tin để củng cố hình ảnh nhãn hiệu và uy tín của công ty. - Xác định khách hàng mục tiêu: Doanh nghiệp phải xác định những đặc điểm của khách hàng hiện có và tiềm năng, có mong muốn và sẵn sàng mua sản phẩm nhất, từ đó đánh giá và tuyển chọn được danh sách khách hàng triển vọng. Người làm marketing trực tiếp có thể phát hiện những khách hàng triển vọng tốt căn cứ vào các biến số như tuổi, giới tính, trình độ học vấn, lý do mua, hành vi mua trước đây Sau khi xác định thị trường mục tiêu, doanh nghiệp cần lập danh sách cụ thể: tên, địa chỉ cùng các thông tin về nhân khẩu học và tâm lý học của khách hàng để làm cơ sở cho chiến lược chào hàng. - Lựa chọn chiến lược chào hàng: Xác định chiến lược chào hàng qua việc phối hợp 5 yếu tố: Sản phẩm, chào hàng, phương tiện truyền thông, phương pháp phân phối và chiến lược sáng tạo. Tuỳ theo từng công cụ marketing trực tiếp được sử dụng mà họ phải lựa chọn và phối hợp các yếu tố này với nhau một cách hợp lý để tăng khả năng tác động đến khách hàng. - Thử nghiệm các yếu tố marketing trực tiếp: Người làm marketing trực tiếp cần thử nghiệm các yếu tố của chiến lược chào hàng trong thực tế thị trường để đánh giá kết quả trước khi áp sụng cho toàn bộ thị trường. Họ có thể thử nghiệm tính chất của sản phẩm, thông điệp quảng cáo, giá cả, phương tiện truyền thông, danh sách khách hàng, Giáo trình Marketing căn bản Tổ bộ môn Kế toán DN Trường Cao đẳng nghề Nam Định - 131 - - Đánh giá kết quả của chiến dịch marketing trực tiếp Người làm marketing trực tiếp cần đánh giá kết quả của chiến dịch marketing trực tiếp qua tỷ lệ đặt hàng, mua hàng của khách hàng. Họ cũng phải tính toán chi phí, doanh thu và lợi nhuận cho chiến dịch marketing trực tiếp. Tất nhiên, kết quả của chiến dịch marketing trực tiếp không chỉ được đánh giá bằng kết quả kinh doanh trực tiếp mà còn phải đánh giá khả năng tạo lập quan hệ lâu dài của doanh nghiệp với khách hàng.
File đính kèm:
- giao_trinh_marketing_can_ban_phan_2.pdf