Giáo trình Sinh thái vùng cửa sông ven biển (Phần 1)

Tóm tắt Giáo trình Sinh thái vùng cửa sông ven biển (Phần 1): ...biên độ cao. Bán nhật triều thì hiếm có ở Việt Nam và biên độ thấp. Tạp triều ở Việt Nam rất nhiều. Sự phân bố như sau: Từ Móng Cái đến Thanh Hóa: nhật triều với biên độ tương đối lớn, khoảng 3-4 m. Nó hình thành vùng nước lợ tương đối rộng. Cảng chính là Hòn Dấu. Đặc tính thủy triều trong ...g. Chúng còn có giá trị không thể đánh giá hết đối với y học và dược học. Trong nhiều trường hợp rạn còn là rào chắn bảo vệ bờ chống xói lở. Những đê tự nhiên này còn bảo vệ cho vùng nước sau rạn khỏi sóng bão. Ước tính mỗi km2 rạn san hô cho phép tiết kiệm 190.000 USD chi phí cho việc bảo v... nuôi dưỡng hoặc nơi sống lâu dài cho nhiều loài hải sản có giá trị như tôm, cá, cua, sò,... Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy rằng việc đánh bắt thủy sản cho năng suất cao chủ yếu ở các vùng nước sông, ven bờ, cửa sông có rừng ngập mặn. Có thể giải thích vì vùng này là nơi tập trung chất di...

pdf55 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 422 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Sinh thái vùng cửa sông ven biển (Phần 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chất lơ lững. Vật chất 
lơ lững gồm các hạt sét, phù sa, các mảnh vụn hựu cơ. Chúng được giữ lơ lững bởi sự khấy 
động của dòng nước. Nhưng độ đục của nước không chỉ gây ra bởi vật chất lơ lững vô sinh 
học mà còn có sự góp phần của các thành phần sinh học như sự phát triển của phiêu sinh thực 
vật. Thông thường, độ đục do yếu tố chất lơ lững thường mang lại những ảnh hưởng bất lợi 
đối với việc nuôi trồng thủy sản trong ao cũng như trong lồng, bè. 
Do trong nước biển, nước sông và nhất là nước lợ, hàm lượng chất dinh dưỡng cao, có 
nhiều chất phù sa lơ lững và nhiều hạt sét mịn, những vật chất này sẽ lắng đọng nhanh chóng 
làm cho nền đáy bị biến đổi mau lẹ và tạo nên trầm tích nhiều sét. 
Ngoài ra độ đục cao sẽ cản trở sự chiếu sáng qua cột nước xuống đáy. 
 Nhiệt độ: Nước lợ có sự thay đổi nhiệt độ theo điều kiện bên ngoài tương đối nhanh 
(do có các ion muối với hàm lượng cao), tức mau nóng và mau lạnh. Sự chênh lệch nhiệt độ 
trong một thủy vực tương đối lớn. Nhiệt độ nước biển ít khi lên đến 39oC, do đó ảnh hưởng 
bất lợi lên tôm cá ít xảy ra. 
1.3.3.3 Các thành phần sinh học vùng CSNL 
 Phytoplankton vùng CSNL 
Phiêu sinh thực vật (PSTV) có mặt khắp nơi trong vùng CSNL. Chúng góp phần đáng kể 
vào sức sản xuất sơ cấp tổng cộng của vùng CSNL. Chúng cung cấp một nguồn thức ăn chính 
và trực tiếp cho nhiều động vật trong cột nước cũng như trong tầng sa lắng. Nhìn chung, 
nhóm tảo chiếm ưu thế là tảo khuê (diatom) và tảo Dinoflagellate. Những nhóm quan trọng 
khác gồm tảo giáp (Cryptophyte) và tảo lục (Chlorophyte), tảo vàng ánh (Chrysophyte) cũng 
phong phú. 
Thành phần loài của những tảo kể trên phụ thuộc vào các yếu tố môi trường như: độ mặn, 
độ đục, chất dinh dưỡng, sự xáo động dòng nước và độ sâu. Chúng khác nhau nhiều về hình 
dạng cũng như kích thước. 
Người ta chia PSTV thành 2 nhóm kích thước. Những tảo bị giữ lại trên lưới lọc kích 
thước chuẩn (20 µm) gọi là netplankton hay microplankton, những tảo lọc qua lưới được gọi 
là nanoplankton. Một nhóm thứ 3 được gọi là ultraplankton hay picoplankton có kích thước 
nhỏ hơn 2 µm. Nhóm nanoplankton thường chiếm ưu thế về số lượng trong hầu hết cửa sông, 
mặc dù netplankton chiếm phần lớn về khối lượng. 
Khi đi từ sông ra biển, PSTV có khuynh hướng càng nhiều tảo nhỏ hơn. Nhiều tác giả cho 
rằng, chỉ 2 đến 10% tảo khuê và tảo flagellate bị giữ lại trên lưới (20 µm) khi thu mẫu. 
Người ta thấy trong thành phần loài tảo ở vùng cửa sông ven biển, tảo chiếm ưu thế là tảo 
khuê Skeletonema costatum, nó chiếm 81% tổng số lượng tế bào PSTV trong sinh khối tảo 
của vùng. Nói chung trong những tháng lũ, tảo lục và tảo lam phát triển phong phú trong các 
thủy vực nước lợ nhạt. Tảo giáp và tảo khuê ưa sống nơi có độ mặn cao, nhưng 1 số loài thích 
nghi với nước lợ nhạt ven bờ. 
Những khu vực giàu muối dinh dưỡng, nhất là các cửa sông ven biển và các khu vực 
nước trồi đều là những nơi PSTV phát triển rất mạnh. 
 Zooplankton vùng CSNL 
Zooplankton được chia thành 2 nhóm dựa vào vòng đời là holoplankton và meroplankton. 
Holoplankton trãi qua toàn bộ đời sống ở hình thức phiêu sinh. Meroplankton chỉ có một 
phần đời sống ở dạng phiêu sinh khi ở giai đoạn ấu trùng của nó. Holoplankton luôn sống nổi 
9 
trong môi trường và có tốc độ sinh trưởng nhanh, có sức chịu đựng về mặt sinh lý rộng và các 
hình thức cư trú đặc biệt cho phép chúng tồn tại trong môi trường biến đổi. Meroplankton trãi 
qua giai đoạn ngắn dạng phiêu sinh. Chúng thường xuất hiện trong những thời gian nào đó 
trong năm khi năng suất sinh học của thủy vực cao và điều kiện môi trường tốt cho sự tồn tại 
và phát triển. Về kích thước, chúng được chia thành hai nhóm: net-zooplankton (mắc lại ở 
lưới 0,2 mm) và micro-zooplankton (lọc qua lưới 0,2 mm). 
Nhóm chân chèo copepod chiếm số lượng nhiều. Những nhóm không phải chân chèo 
gồm: giáp xác (crustacean) và hàm tơ Chaetognath (arrow worm). 
Trong nhóm meroplankton, ấu trùng dạng này là một nhóm sinh vật đa dạng với nhiều đại 
diện của các lớp khác nhau. Thông thường là các dạng chưa trưởng thành của những động vật 
không xương sống ở đáy và động vật có dây sống, trứng, ấu trùng, các dạng ấu niên 
(juvenile) của những sinh vật bơi lội (tôm, cua, cá). 
Nhóm microplankton phong phú hơn nhóm netplankton. Chúng có thể là những dạng ấu 
trùng metazoa rất nhỏ, chẳng hạn Acarta hay có thể là một số các protozoa của flagellate dị 
dưỡng. 
Sự phân bố giống loài PSĐV thay đổi theo độ mặn của môi trường. Ví dụ: khi triều cao, 
độ mặn tăng, chiếm đa số là giống Calanus, Podon và Evadne. Khi triều thấp, nước ngọt hơn, 
có một nhóm Cladocera nước ngọt chẳng hạn Bosnia, Daphnia và Holapedium. Copepod 
nước ngọt như Cyclop và Diaptomus. Hai nhóm này, trong trường hợp hiếm hơn, là đại diện 
cho những PSĐV khi nước rất mặn và ngọt (trong khoảng giao động của nước lợ). 
Sự phong phú của phiêu sinh động vật cũng biến đổi theo mùa, do phytoplankton biến đổi 
theo mùa, do đó zooplankton cũng có khuynh hướng biến động theo. 
Ở vùng nhiệt đới, người ta thấy PSĐV nghèo nàn vào mùa đông. Ở khu rừng sác, người 
ta thấy sinh khối PSĐV cao nhất vào mùa mưa và thấp nhất vào mùa khô. 
Nói về sự biến động theo ngày đêm theo chiều thẳng đứng, những PSĐV như Copepoda, 
Cladocera, Chaetognatha và nhiều loại ấu trùng lên gần mặt nước khi mặt trời lặn. Có lẽ điều 
này cho phép việc tìm kiếm thức ăn vào ban đêm được tương đối an toàn nhờ bóng tối, giảm 
địch hại. 
 Động vật đáy vùng CSNL 
Tầng đáy của CSNL cung cấp một nơi cho những sinh vật sống chui rúc, đào hang, 
trường bò và ngay cả những sinh vật bơi lội. Đáy là nơi tang trữ chất hữu cơ, là nơi cho 
những biến đổi hóa học cần thiết cũng như những tương tác lý học. 
Đáy của một vùng CSNL điều chỉnh hoặc bổ sung cho hầu hết những quá trình lý hóa, địa 
chất và sinh học thông qua toàn bộ một hệ thống CSNL. Động vật đáy liên quan trực tiếp hoặ 
gián tiếp đến hầu hết các quá trình lý hóa xảy ra ở CSNL. Ví dụ, một số động vật làm sạch 
nước bằng cách lọc những vật chất hữu cơ, trong khi đó số khác lại làm đục nước do chúng 
khấy đảo lớp trầm tích. 
Động vật đáy đóng vai trò quan trọng trong việc đóng góp thức ăn cho những sinh vật 
khác ở vực nước cạn. Ngoài ra chúng cũng là những loại thực phẩm có giá trị cho con người 
(như hàu, vẹm, nghêu, sò, v.v.) 
Nhiều động vật đáy lọc nước lấy thức ăn, như vậy chúng cạnh tranh thức ăn với những 
con ăn lọc ở tầng nước. Tuy nhiên, những sinh vật đáy này sản sinh ra một số lượng lớn trứng 
và ấu trùng hàng năm, đóng góp vào nguồn thức ăn nổi của thủy vực. 
Nhiều động vật đáy tạo môi trường đáy mềm bằng cách tạo một lớp mùn dày từ chất thải 
của chúng, trong khi đó số khác làm mềm nền đáy cứng. Hầu hết động vật đáy đều lấy oxy từ 
tầng đáy nhưng số trong nhóm này lại dẫn oxy vào đáy bằng cách bơm nước vào lớp trầm 
tích. 
10 
Các động vật đáy hấp thục chất độc và ăn sinh vật gây bệnh trong cột nước và tích vào cơ 
thể của chúng. Quá trình này gây sự tích lũy độc chất trong những sinh vật ăn trên nền đáy. 
Phân bố không gian của động vật đáy thay đổi theo điều kiện đáy. Ví dụ, đáy bùn pha cát 
vùng nước cạn hay những vùng có bùn với lưu tốc nước mạnh, thường chiếm ưu thế là những 
động vật ăn chất lơ lững. Ở tầng lắng đọng mịn hơn tại những vùng được che chắn nhiều hơn, 
có những động vật ăn mùn bả. Ví dụ, ốc bùn lầy và cua bùn lầy. Dọc theo dòng chảy thủy 
triều trong những đầm lầy nước mặn và CSNL có nhiều rừng sác có thể có nhiều rạn hàu. 
Vùng độ mặn trên oligohaline của những vùng CSNL nhiệt đới, có sò nước lợ và ấu trùng 
muỗi lắc (Chironemus). Các rạn đá có hàu, vẹm, v.v. 
 Hệ thống vi sinh vật và mùn bả hữu cơ 
Vi sinh vật vùng CSNL gồm protozoa, fungi, virus, bacteria. Sự phân giải vật chất của 
VSV giúp cho các vòng tuần hoàn vật chất được liên tục. Ngoài ra nó cũng hấp thụ những 
chất hữu cơ hòa tan, có tác dụng ngăn chặn sự mất năng lượng, vì cuối cùng chúng cũng bị ăn 
bởi những sinh vật khác trong chuỗi thức ăn. Nói chung, vi sinh vật như là chiếc cầu nối dinh 
dưỡng giữa các sinh vật. Các vòng tuần hoàn C,N,P,S đều phụ thuộc phần lớn vào hoạt động 
của vi sinh vật. 
Bên cạnh những tác động dương, VSV cũng có những tác động âm đến hệ sinh vật sống 
trong vùng CSNL. Cả chủng quần thực vật lẫn động vật đều bị ảnh hưởng bởi những mầm 
bệnh VSV, và nó có tác dụng điều khiển biến động hầu hết các chủng quần sinh vật cao hơn. 
Mùn bả hữu cơ được coi là một trong những nguồn thức ăn quan trọng trong CSNL. 
Năng suất thủy vực cao hay thấp, đều có liên quan đến mùn bả hữu cơ, đó cũng là phần lớn 
nguồn năng lượng trong các CSNL. 
 Các loài thủy sản 
Vùng CSNL dồi dào các loại thủy sản, gồm tôm, cua, cá, mực và các loài thú. Những 
nguồn lợi này có nguồn gốc từ: 
• Những loài có nguồn gốc từ nước ngọt, thỉnh thoảng vào vùng nước lợ. 
• Những loài thủy sản nước lợ thực sự, có toàn bộ đời sống trong nước lợ. 
• Những loài sống ở biển và nước lợ, trãi qua một thời gian ở nước lợ như những 
bãi sinh trưởng, chúng thường đẻ và sống phần lớn đời sống trưởng thành ở biển, 
nhưng hay trở về vùng nước lợ theo mùa. 
• Những loài sống ở biển đi vào nước lợ kiếm ăn theo mùa trong giai đoạn trưởng 
thành. 
• Những loài đi qua vùng nước lợ trong quá trình di cư xuôi dòng và ngược dòng. 
• Những con xuất hiện ở nước lợ không theo qui luật. 
1.3.3.4 Địa chất vùng CSNL 
Về cơ học: thông thường đất vùng nước lợ do quá trình bồi lắng tạo nên. Quá trình bồi 
lắng nhanh hay chậm sẽ quyết định tính chất cơ học của đất. Bồi lắng lẹ thì thành phần sét 
cao và đất chắc, như thế rừng sác không được thay thế nhiều lần nên thành phần hữu cơ ít 
làm cho độ kết dính cao. Ngược lại, quá trình bồi lắng chậm thì hạt cát nhiều và chất hữu cơ 
nhiều nên độ kết dính thấp. Tuy nhiên đôi khi quá trình bồi lắng lẹ, dưới đất còn một lớp 
nhiều loại vỏ của nhuyễn thể nên tuy thành phần hạt sét nhiều nhưng có thể không vững chắc. 
Khi đắp đê, cần phải có các thiết bị chống thấm. 
Về hóa học: do đất mới được thành lập nên hóa học của đất thay đổi theo quá trình bồi 
lắng. Quá trình bồi lắng nhanh hay chậm sẽ quyết định tình trạng phèn tiềm tàng nhiều hay ít. 
Nếu quá trình hình thành đất nhanh chóng thì sẽ không có phèn tiềm tàng (FeS2). Ngược lại, 
quá trình hình thành đất chậm thì phèn tiềm tàng nhiều. 
11 
Đất phèn được hình thành trong điều kiện trầm tích (trừ đất phèn nhiễm), thành phần hóa 
học có quá nhiều lưu huỳnh. Lưu huỳnh trong đất phèn thường ở dạng sulphur, cơ bản là 
pyrite, công thức chung FeS2. 
Đất phèn tiềm tàng (phèn chưa hoạt động) là loại đất trong đó tinh khoáng FeS2 còn giữ 
nguyên trạng. Trạng thái này được duy trì khi nước luôn luôn ngập trên tầng đất chứa FeS2. 
Phẫu diện đất loại này chỉ có tầng mùn và tầng sinh phèn. 
Phèn hoạt động là loại phèn tiềm tàng chuyển hóa thành. Hợp chất sulphur (FeS2) trong 
phẩu diện đất, vì một lý do nào đó đã chuyển thành hợp chất sulphur, chẳng hạn như: FeSO4, 
H2SO4, KFe(SO4)2(OH)6, v.v. Phẩu diện đất loại này có thể gồm: tầng mùn  tầng tích tụ  
tầng sinh phèn. 
Các phản ứng chuyển hóa thành phèn hiện tại: 
FeS2 + 7/2 O2 + H2O  Fe
2+ + 2SO4
2- + 2H+ 
Fe2+ + 1/2 O2 + 2H
+  Fe3+ + H2O 
Fe3+ + 3H2O  Fe(OH)3+ 3H
+ 
_________________________________________ 
FeS2 + 4O2 + 3H2O  Fe(OH)3 + 2SO4 + 3H
+ 
1.4 Thủy triều 
1.4.3 Định nghĩa 
Thủy triều (tide) là hiện tượng nước trong các thủy vực tự nhiên dâng lên cao và hạ 
xuống thấp theo một chu kỳ nào đó. 
Có 2 nguyên nhân gây ra hiện tượng thủy triều. Thủy triều do các thiên thể gây ra, tác 
động bởi lực vạn vật hấp dẫn, gọi là thủy triều thiên văn. Thủy triều do các điều kiện khí 
tượng như gió bão, hoạt động của sóng v.v., gọi là thủy triều khí tượng. Thủy triều khí tượng 
xảy ra không theo qui luật. Thủy triều thiên văn xảy ra hàng ngày và có qui luật. 
Các hiện tượng khí tượng được giải thích như sau: 
Để giải thích, người ta giả sử mặt đất được bao phủ bởi một lớp thủy quyển 
(hydrosphere). 
• Trong một ngày có 2 lần nước lên và 2 lần nước xuống 
R: bán kính trái đất 
C: nằm ở ¾ R, là tâm quay của mặt trăng 
r: khoảng cách giữa trái đất và mặt trăng 
Lực vạn vật hấp dẫn GF = (m1 + m2)/r
2 
với (m1 và m2 là khối lượng của từng vật thể) 
Trái đất tự quay quanh trục của nó, tạo ra lực ly tâm tại mọi điểm trên bề mặt của nó đều 
bằng nhau, gọi là CF. 
Tổng lực tại một điểm: F = CF + GF2 
Tổng lực F tại điểm A và A’ là lực dương, nên nước lớn tại 2 điểm này, hay có thể nói 
mỗi ngày sẽ có 2 lần nước lớn tại 2 điểm A và A’. Như vậy, sẽ có 2 lần nước kém tại B và B’ 
như hình vẽ. 
12 
• Ngày thủy triều dài 24 giờ 50 phút 
Trong thực tế, thủy triều lên đến đỉnh ở ngày hôm sau chậm hơn ngày hôm trước gần một 
giờ. Chúng ta có thể chứng minh được điều này. 
Trái đất quay quanh trục của nó một vòng 360o trong vòng 24 giờ. Mặt trăng quay 360o 
trong vòng 30 ngày. Như vậy, 1 ngày nó quay 12o. Do đó, ngày hôm sau, khi mặt trăng từ 
điểm 1 sang điểm 2, trái đất phải quay 360o + 12o để có mặt trăng trên đỉnh đầu tại điểm A, 
tức là cần phải quay 24h + 48’ = 24h48’. Hay ta làm tròn 24h50’. Như vậy, nước ngày hôm 
sau sẽ lên trễ hơn ngày hôm trước một khoảng thời gian gần bằng 50 phút. Điều này có nghĩa 
là 1 ngày thủy triều dài 24h50’. 
• Mỗi tháng có 2 con nước cao (gọi là nước rong) và 2 con nước thấp (gọi là nước 
kém) 
Hiện tượng này do tác động cộng hưởng của mặt trăng và mặt trời lên trái đất. Mặt trời 
tuy xa trái đất nhưng có khối lượng lớn nên lực F2 cũng có ý nghĩa. Như vậy, 2 con nước 
rong là những ngày trăng non và những ngày tối trời (đêm 30 âm lịch). Còn 2 con nước kém 
là những ngày trăng khuyết. 
. 
CF CF 
GF GF 
M 
E 
A A’ 
B 
B’ 
. 
CF CF 
GF GF 
M 
E 
A A’ 
B 
B’ 
1
2
o 
1
 n
g
à
y
M 
13 
1.3.2 Các dạng thủy triều: căn cứ vào chu kỳ người ta chia thành các dạng thủy triều như 
sau. 
Bán nhật triều (semi-diurnal tide): trong 1 ngày thủy triều có 2 lần nước lớn và 2 lần 
nuớc ròng. Đây là hiện tượng phổ biến ở các vùng biển và đại dương trên thế giới. Biên độ 
tương đối lớn. 
Toàn nhật triều (diurnal tide): trong một ngày thủy triều có 1 lần nước lên và một lần 
nước xuống. Nó ít phổ biến và có biên độ thấp. 
Tạp triều (mixed tide): không phải là 2 dạng trên, gồm 3 dạng là: 
+ Tạp triều thiên bán nhật hay bán nhật triều không đều. Luôn có 2 lần nước thấp trong 
ngày. 
+ Tạp triều thiên toàn nhật hay toàn nhật triều không đều. Luôn có một lần nước thấp 
trong ngày. 
+ Tạp triều đúng nghĩa. 
1.3.3 Sự phân bố các dạng thủy triều 
Dọc theo duyên hải Việt Nam, sự phân bố dạng thủy triều rất phong phú, nó có tất cả các 
dạng triều trên thế giới nhưng cũng rất phức tạp do có nhiều điểm riêng. Ví dụ, trên thế giới 
hiện tượng toàn nhật triều hiếm và biên độ nhỏ, còn ở Việt Nam thì khá nhiều và biên độ cao. 
Bán nhật triều thì hiếm có ở Việt Nam và biên độ thấp. Tạp triều ở Việt Nam rất nhiều. Sự 
phân bố như sau: 
Từ Móng Cái đến Thanh Hóa: nhật triều với biên độ tương đối lớn, khoảng 3-4 m. Nó 
hình thành vùng nước lợ tương đối rộng. Cảng chính là Hòn Dấu. Đặc tính thủy triều trong 
vùng giống Hòn Gai. 
14 
Từ Nghệ Tĩnh đến Hàm Tân: nhật triều không đều với biên độ 1-2 m (trừ vùng xung 
quanh biển Thuận An-Huế). Diện tích bãi triều tương đối nhỏ. Cảng chính là Đà Nẵng. 
Biển Thuận An-Huế: bán nhật triều tiêu biểu. Biên độ tương đối nhỏ. 
Hàm Tân đến Mũi Cà Mau: bán nhật triều không đều và có 2 lần nước lên xuống rất dễ 
lầm với bán nhật triều. Biên độ tương đối lớn, 3-4 m. Diện tích bãi triều khá lớn. Cảng chính 
là Vũng Tàu. 
Mũi Cà Mau-Mũi Nai: nhật triều không đều biên độ nhỏ dưới 1 m. Cảng chính là Hà 
Tiên. 
1.3.4 Qui luật phân bố biên độ thủy triều 
Biên độ thủy triều tương đối lớn đối với những nơi có thểm lục địa tương đối rộng, 
những nơi tận cùng của vịnh có miệng mở rộng và những eo biển. Ví dụ: vùng biển Nam và 
Bắc bộ. Biên độ trung bình ứng với những bờ biển tương đối thẳng, ví dụ biển miền Trung 
Việt Nam. Biên độ nhỏ ứng với nơi có vịnh kín, ví dụ vịnh Thái Lan. 
1.3.5 Thủy triều và nghề nuôi thủy sản nước lợ: 
Nói chung, vùng triều được chia thành 3 khu triều: 
+ Khu triều cao: là khu chỉ bị ngập nước ở thủy triều nhị chí mà hầu như không bị ngập ở 
thủy triều nhị phân. 
+ Khu triều trung: là khu giới hạn bởi mức nước lớn của thủy triều nhị phân đến nước 
thấp của thủy triều nhị phân. Ở khu này, nước lớn thông thường hàng ngày thì ngập và nước 
ròng hàng ngày thì cạn (gọi là ngập theo chu kỳ tháng). 
+ Khu triều thấp: là khu giới hạn bởi mức nước thấp của thủy triều nhị phân đến mức 
nước thấp của thủy triều nhị chí. Khu này chỉ phơi cạn khi nước thủy triều ròng xuống thấp 
(hay ròng sát). Thời gian ngập nước trong năm nhiều và thời gian cạn ít. 
* Lưu ý: 
- Nhị chí là 2 lần trái đất gần mặt trời hơn, gồm đông chí (22/12) và hạ chí (23/6). Nhị 
phân là 2 lần trái đất xa mặt trời hơn, gồm xuân phân (21/3) và thu phân (23/9). 
- Không mét hải đồ (chart datum): có thể được tính là mực nước biển thấp nhất trong 
nhiều năm và có trừ đi một khoảng nào đó (khoảng 10-20 cm), tức là mức nước ròng không 
bao giờ xuống tới 0 m hải đồ (tính theo hệ thống Pháp); hoặc tính bằng mực nước biển thấp 
nhất trong nhiều năm và 0 m hải đồ là mức thực tế, do đó mực nước có thể xuống dưới 0, và 
có thể là số âm (theo hệ thống Anh). 
15 
Chế độ thủy triều và cường độ triều có ảnh hưởng mạnh đến tính chất nước hệ sinh thái vùng 
CSVB. Cường độ thủy triều cũng khác nhau nhiều tùy từng vùng địa lý, và có thể chia thành 
các mức độ khác nhau như trình bày ở bảng sau: 
 Bảng 2: Tên gọi vùng triều theo cường độ triều 
Loại triều Biên độ triều Ví dụ 
Microtidal < 2 m Vùng biển tây Việt Nam-Vịnh Thái lan (1-2 m) 
Mesotidal 2-4 m Biển Bắc bộ và Nam bộ (3-4 m) 
Macrodidal 4-6 m Việt Nam không thấy có biên độ này 
Hypertidal > 6 m Việt Nam không thấy có biên độ này 
1.3.4 Môi trường không khí 
Thường chất lượng không khí ở các vùng ven biển rất tốt nếu không có các hoạt động công 
nghiệp. Những vùng hoạt động công nghiệp ven biển thì môi trường không khí sẽ bị ảnh 
hưởng. Hàm lượng muối trong không khí cao dễ gây ăn mòn kim loại, các công trình xây 
dựng và vật liệu. 
1.3.5 Đa dạng sinh học 
Xét về tính đa dạng sinh học, vùng CSVB có thể được chia làm hai phần: phần dưới nước và 
trên cạn. Phần trên cạn gồm có những sinh vật ở vùng cao và sinh vật ở vùng ngập và bán 
ngập. Phần dưới nước chia ra sinh vật tầng mặt, sinh vật tầng nước nông và sinh vật tầng 
nước sâu. Nhìn chung đa dạng sinh học ở vùng ven biển rất phong phú và đa dạng. Tính đa 
dạng này phụ thuộc nhiều vào điều kiện môi trường tự nhiên như nhiệt độ, chế độ nước, môi 
trường đất. Đối với vùng đất cao, ít ngập triều và không có nước ngọt, đất dễ nhiễm mặn và 
khô hạn thì đa dạng sinh học nghèo nàn. Đối với vùng ngập nước và bán ngập triều hay còn 
gọi là đất ngập nước, thì đa dạng sinh học phong phú hơn nhiều. 
1.3.6 Ô nhiễm môi trường vùng ven biển 
Ngày nay với tốc độ phát triển kinh tế mạnh mẽ, hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con 
người đa tác động mạnh mẽ đến môi trường sinh thái ven biển theo hướng ngày một xấu 
đi. Nguyên nhân của ô nhiễm xuất phát từ: chất thải từ sinh hoạt thành phố; chất thải từ các 
khu công nghiệp; chất thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp bao gồm cả nuôi trồng thủy 
sản. 
1.3.7 Các dạng năng lượng trong môi trường ven biển 
Năng lượng sóng biển: vô cùng lớn nhưng đến nay con người chỉ mới khai thác, sử dụng 
được khoảng 1-2%. Một số nước trên thế giới đa sử dụng một phần năng lượng sóng biển để 
phát điện, tuy nhiên vấn đề này còn có nhiều khó khăn trong thiết kế, xử lý công trình. 
Mặt trời 
Trái đất 
16 
Năng lượng gió: là loại năng lượng có tiềm năng rất lớn dùng để phát điện, bơm nước, quay 
các động cơ,... Tuy nhiên nguồn năng lượng này cũng chưa được khai thác nhiều. 
Năng lượng ánh sáng mặt trời: sinh vật sử dụng năng lượng này cho quang hợp, sinh trưởng 
và phát triển, con người sử dụng để sấy khô nguyên liệu, làm muối, v.v. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_sinh_thai_vung_cua_song_ven_bien_phan_1.pdf
Ebook liên quan