Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam (Phần 2)
Tóm tắt Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam (Phần 2): ...vị để trên cơ sở đó làm những việc có ích cho đời. Nguyễn Công Trứ có đề cao cá nhân nhƣng nội dung chủ yếu là đòi hỏi phải đóng góp cho xã hội. Nhà thơ coi nhiệm vụ đó nhƣ một món nợ lần phải trả. -Tang bồng là cái nợ Làm trai chi sợ áng công danh. (Quân tử cố cùng I) -Tang bồng hồ thỉ n...ng mà hùng tráng của dân tộc, nhiều hi sinh mất mát nhƣng rất tự hào, giai đoạn Khổ nhục nhƣng vĩ đại. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 83 3.Sự phân hóa giai cấp trong xã hội: Trƣớc những biến cố lớn lao, xã hội có sự phân hóa giai cấp sâu sắc. Mỗi tầng lớp bị ph...m bình dân, đã thể hiện trữ tình đạo đức và tính nhân dân sâu sắc. 2.Thơ văn yêu nƣớc của Nguyễn Đình Chiểu: TOP 2.1.Ðặc điểm về thơ văn yêu nƣớc chống Pháp: - Thơ văn yêu nƣớc của Nguyễn Ðình Chiểu thể hiện tƣ tƣởng nhân nghĩa. Nguyễn Ðình Chiểu đã kế thừa tƣ tƣởng nhân nghĩa của cha ông ...
ng nhƣ một bản cáo trạng đanh thép lên án xã hội thực dân nửa phong kiến trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. Tú Xƣơng sáng tác rất nhiều và thất lạc cũng nhiều. Ông viết khoảng 151 bài thơ bằng chữ Nôm với đủ các thể loại. Ngoài ra, ông có dịch một số thơ Ðƣờng. II.NỘI DUNG THƠ VĂN TRẦN TẾ XƢƠNG: 1.Thơ Tú Xƣơng là một bức tranh nhiều vẻ, sinh động về một xã hội thực dân nửa phong kiến: Trong thơ ông có hình bóng con ngƣời và sinh hoạt của xã hội phong kiến cũ đã bị thực dân hóa, và có hình bóng những vật mới, những sinh hoạt mới - sản phẩm của xã hội thực dân nửa phong kiến. Thơ Tú Xƣơng là tiếng nói đả kích, châm biếm sâu sắc và dữ dội vào các đối tƣợng mà ông căm ghét. 1.1.Ðả kích bọn thực dân Pháp: Ðốái với thực dân Pháp, tuy chua phải là đối tƣợng chính để tập trung phê phán nhƣng ta vẫn bắt gặp bóng dáng những tên thực dân xuất hiện với dáng vẻ rất buồn cƣời. Ðó là hình ảnh những ông Tây, bà Ðầm rất nghênh ngang lố bịch (Vịnh khoa thi Hương năm Ðinh Dậu). Với ngòi bút châm biếm sắc sảo, Tú Xương đả kích chúng không khoang nhƣợng, vạch trần thói gian ác, bần tiện, thủ đoạn kiếm ăn dơ bẩn của chúng bằng bút pháp trào phúng sâu sắc (Ông Cò). 1.2.Ðối với bọn quan lại, tay sai: Ðề tài này thật ra không có gì mới mẻ so với trƣớc, nhƣng cái mới ở đây là bút pháp của Tú Xƣơng có cá tính và mang nét cảm hứng thời sự. Dƣới ngòi bút của ông, hình ảnh bọn quan lại hiện lên rất phong phú đa dạng. Ðó là những lũ bất tài, dốt nát (Bác Cử Nhu); chúng không khác chi những tên hề (Hát bội). Ông phê phán trò gian lận, hối lộ, bòn rút của dân không nghĩ gì đến trách nhiệm (Ðùa ông Phủ). Ông còn vạch trần bản chất làm tay sai của những tên quan lại lúc bấy giờ (Cô hầu gửi quan lớn). Từ đó thấy đƣợc thái độ phẫn uất của Tú Xƣơng trƣớc thực trạng xã hội và ông đã dùng ngòi bút của mình để lên án, phê phán những con ngƣời, những hiện tƣợng trái tai, gai mắt. Nhà thơ đã dựng lại chân dung của bọn quan lại, mỗi ngƣời mỗi vẻ nhƣng đều rất sắc cạnh, cụ thể. Một tên quan huyện Mình trung đâu đấy trách ngƣời trinh, một ông Aám Chạy lăng quăng, ấm chẳng ngồi, ông Ðốc cờ bạc ăn chơi rặt một màu, ông Cử Sách như hủ nút, chữ như mù, một cô Bố Chồng chung, vợ chạ, một chú Hàn thì Ðậu lạy, quan xin và cả một xã hội lố lăng, rởm đời với quý vị phu nhân, các cậu ấm tử, sƣ sãi cũng đƣợc Tú Xƣơng tái hiện, sinh động, cụ thể: Hai cậu con con đóng vai ấm tử, lỗi bếp bồi cậu cũng như nhau. Ðôi đức bà lên mặt phu nhân, ngón đĩ thỏa bà nào cũng nhất. Nhất tắc mộ sư mô chi cực, nay chùa này, mai chùa khác, mở lòng từ tô tượng, đúc chuông. Nhất tắc ham chài lái chi khu, lên mành nọ xuống mành kia, che miệng thế đong dầu rót mật (Khai lý lịch) 1.3.Ðối với khoa cử, nho học: Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 104 Trong bức tranh xã hội của Tú Xƣơng còn có những nho sĩ đi thi, những ông Nghè, ông Cống; có hình ảnh của trƣờng thi, của một nền nho học đang xuống dốc trầm trọng. Thời Tú Xƣơng không còn tìm thấy hình ảnh uy nghi, trang trọng của một trƣờng thi chữ Hán xƣa kia nữa mà nó đang lùi dần trƣớc uy thế của kẻ thù. Ông phản ánh thực trạng nho học suy đồi bằng tiếng thở dài áo não (Than đạo học). Ông còn chế giễu những ngƣời kéo nhau đi thi ở những trƣờng lớp mới mở của thực dân (Ðổi thi). Trong buổi lễ xứng danh khoa Ðinh Dậu, nhà thơ đã vẽ ra trƣớc mắt ngƣời đọc bức tranh về cảnh trƣờng thi cảnh ngao ngán của sĩ tử trƣớc thực trạng nƣớc mất, nhà tan, sĩ khí tiêu điều, bút lông hết đƣợc săn đón Vứt bút lộng đi giắt bút chì. Ðó là hình ảnh: Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ Ậm oẹ quan trường miệng thét loa. Lọng cắm rợp trời quan sứ đến, Váy lê quét đất mụ đầm ra Cái tàn tạ của nho học đƣợc Nguyễn Bính ghi lại: Mực tàu giấy bản là đây Nước non đi hết những người áo xanh Lỡ duyên bút tóc củ hành Trường thi Nam Ðịnh biến thành trường bay. Tú Xƣơng than thở cho số phận của một ông Nghè, ông Cống và giễu cả những ông Phán: Nào có gì lạ cái chữ nho Ông nghè, ông cống cũng nằm co Sao bằng đi học làm ông Phán. Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò (Chữ nho) 1.4. Phê phán thế lực đồng tiền: Trƣớc Tú Xƣơng, nhiều tác giả Việt Nam cũng nhƣ nừơc ngoài đã lên án sức mạnh đồng tiền. Nó chi phối tƣ tƣởng và hành động của con ngƣời. Ðến thời Tú Xƣơng, đồng tiền lại một lần nữa gây đảo điên xã hội nhất là ở thành thị. Nó làm cho đạo đức suy đồi từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội. Tú Xƣơng đã mắng nhiếc cái xã hội đã hỗn loạn lên vì đồng tiền (Ðất Vị hoàng, Vị Hoàng hoài cổ) Có thể thấy bức tranh xã hội của Tú Xƣơng bị tha hóa đến trầm trọng. Nào là cảnh: Ở phố Hàng Song thật lắm quan Thành thì đen kịt, độc thì lang Chồng chung vợ cha kìa cô Bố Ðậu lại quan xin nọ chú Hàn ( Phố Hàng song) Vì đồng tiền, con ngƣời lƣờng gạt nhau để sống, đối xử với nhau không ra gì. Tình nghĩa cha con, vợ chồng, tình yêu, tình bè bạn . . . đều bị chà đạp bởi thế lực của đồng tiền. Bài thơ Mùng hai tết viếng cô Ký, Ðể vợ chơi nhăng đã phê phán thói đời thật đáng sợ. Ông chồng khóc vợ chết chỉ vì thƣơng cái xe tay. Còn vợ đối với chồng thì Trăm năm tuổi lại trăm thằng Ngòi bút Tú Xƣơng đã khái quát bức tranh hiện thực sinh động về một xã hội lố lăng, rởm đời, có những cảnh khá nực cƣời, những cảnh chƣớng tai, gai mắt cứ nhan nhản xuất hiện trong thơ Tú Xƣơng ( Năm mới, Thói đời, Chữ nho): Khăn là bác nọ lo tày rế, Váy lĩnh cô kia quét sạch hè. Công đức tu hành sư có lọng, Xu hào xủng xoảng mán ngồi xe. ( Năm mới) Hay cảnh nực cƣời khác: Chí cha chí chát khua giày dép, Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 105 Ðen thủi đen thui cũng lụa là. 1.5 Lên án những thói hƣ tật xấu của thời đại: Phê phán những ngƣời hành đạo mà lòng dạ xấu xa và hành vi bẩn thỉu nhƣ cảnh sƣ sãi vụng trộm trong chùa, sƣ cho vay nặng lãi, sƣ chứa của gian đến nỗi phải ở tù (Sư ở từ, Ông sư và mấy ả lên đồng) Ông còn lên án thói đồng bóng, cho đồng bóng là trò mê tín giả dối không thể chịu đƣợc: Ðồng giỏi sao đồng không giúp nước Hay là đồng sợ súng thần công. Phê phán những phong tục xa hoa, phù phiếm trong ngày tết ý tứ mỉa mai trƣớc thực trạng nƣớc mất, nhà tan (Thói đời), vạch trần những tâm lý giả dối, sáo rỗng của con ngƣời trong ngày tết bằng lời lẽ châm biếm sắc sảo. Bài thơ Chúc tết đã chế giễu độc địa và sâu sắc: Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu. Phen này ông quyết đi buôn cối, Thiên hạ bao nhiêu đứa giả trầu. Nó lại chúc nhau cái sự sang! Ðứa thời mua tước đứa mua quan. Phen này ông quyết đi buôn lọng, Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng. Nó lại mừng nhau cái sự giàu! Trăm ngìn vạn mớ để vào đâu? Phen này ắt hẳn gà ăn bạc, Ðồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu Nó lại mừng nhau sự lắm con Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn. Phố phường chật hẹp người đông đúc, Bồng bế nhau lên nó ở non. 2. Thơ Tú Xƣơng là tiếng nói tâm tình trĩu nặng đau xót: 2.1. Nỗi đau xót về bản thân và thời cuộc: - Về bản thân: Gánh nặng đeo đẳng nhà thơ suốt đòi là nợ lều chõng. Ban đầu hỏng thi, ông còn cƣời cợt, còn tự nghĩ cách để an ủi mình. Nhƣng các khoa thi sau ( 1903, 1906) ông càng thất vọng, càng chua chát. Tú Xƣơng ngày càng đau buồn, chán nãn, tuyệt vọng và cay cú: Học đã sôi cơm nhưng chữa chín. Thi không ăn ớt thế mà cay Ðến khoa thi cuối ( 1906) tiếng thở dài của Tú Xuơng càng áo não và bi thiết hơn nhiều: Bụng buồn còn biết nói năng chi Ðệ nhất buồn là cái hỏng thi Một việc văn chương thôi cũng nhảm Trăm năm thân thế chẳng ra gì ( Buồn thi hỏng) Ở đây, dù đau vì thi rớt, vì công danh không thành đạt nhƣng Tú Xƣơng vẫn ít ủy mị và luôn tỏ thái độ khôi hài, lúc nào nụ cƣời trào phúng cũng đến với ông. Qua những lời tự trào, tƣ thú về mình càng thấy rõ con ngƣời và tính cách Tú Xƣơng: Tú Xƣơng tự khoe về sự ăn chơi của mình: Nghiện chèm nghiện rượu, nghiện cả cao lâu, Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 106 Hay hát, hay chơi, hay nghề xuống lõng. Quanh năm phong vận, áo hàng Tàu, khăn nhiễu tím, ô Nhật Bản anh, Ra phố nghênh ngang, quần Tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Ðịnh bóng . . . ( Phú hòng thi) - Về cảnh nghèo: Qua thơ ông, gia cảnh nhà ông hiện lên rất áo não và bi thiết ( Mùa nực mặc áo bông) Nhà thơ từng thấm thía cảnh chạy ăn, vay nợ, nhiều lúc ông phải gào lên: Van nợ lắm khi trào nước mắt Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi ( Than nghèo) Trong hoàn cảnh nào, Tú Xƣơng vẫn cƣời cợt, châm biếm, nói ngông. Vì nghèo quá, ông đã tính đến chuyện đi tu nhƣng không phải tu vì đạo lý mà tu vì tấm áo (Nghèo), rồi nghĩ đến chuyện làm mứt rận đãi gai đình trong ngày tết, có những ý nghĩ ngông nghênh, hợm hĩnh ( Mứt rận), hoặc nhiều lúc ông đâm ra chán chƣờng tuyệt vọng: Ngủ quách sự đời thây đứa thức. Bên chùa chú trọc đã khua chuông. ( Ðêm hè) Vốn là con nhà trào phúng nên trong hoàn cảnh nào nhà thơ vẫn có thể cƣời cợt, vẫn bông đùa: Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo Tiền bạc trong kho chữa lĩnh tiêu Ðúng là nói cho vui, chứ kho đâu mà lĩnh, tiền đâu mà tiêu? Chính cái nghịch lý này đã hình thành nên tính cách của Tú Xƣơng. 2.2. Nỗi lo lắng thầm kín của Tú Xƣơng trƣớc thời cuộc và vận mệnh đất nƣớc: - Tình cảm của Tú Xƣơng đối với nhân dân: Ðối với ngƣời nghèo nhƣ những ngƣời học trò, những ngƣời nông dân chân lắm tay bùn (Thề với ăn xin) . . . những dòng thơ của Tú Xƣơng chứa chan tình cảm và đầy lòng ƣu ái (Ðại hạn) Hoặc ở một bài thơ khác, tâm trạng Tú Xƣơng càng thể hiện rõ hơn: Ỳ ào tiếng học nghe không rõ Mát mẻ nhà ai ngủ hẳn lâu Ông lão nhà quê tan tản dậy, Bảo con đem đó, chớ đem gầu . . . Ðối với ngƣời phụ nữ, hình ảnh họ hiện lên thật đáng thƣơng, họ không những khổ sở về vật chất mà còn bị đau đớn về mặt tinh thần Thƣơng vợ là một bài thơ tiêu biểu của Tú Xƣơng viết về vợ: Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không. Nỗi u hoài kín đáo của Tú Xƣơng trƣớc thời cuộc và vận mệnh đất nƣớc thƣờng triền miên, day dứt: Nhân tài đất Bắc nào ai đó? Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà ( Vịnh khoa thi Hương năm Ðinh dậu) Nhà thơ thƣờng thao thức suốt đêm dài để lặng lẽ suy tƣ và thấy đƣợc cái heo hút Vắng lặng của đêm trường: Ðêm sao đêm mãi tối mò mò, Ðêm đến bao giờ mới sáng cho. Ðàn trẻ u ơ chừng muốn dậy, Ông già thúng thắng vẫn đang ho. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 107 Ngọn đèn rình trộm khêu còn bé, Tiếng chó kinh người cắn vẫn to. Hàng xóm bốn bề ai dậy chửa, Dậy thì lên tiếng gọi nhà nho. ( Ðêm dài) Trong hoàn cảnh đó, nhà thơ vẫn còn tỉnh táo để nhận ra mình: Kìa cái đêm nay mới gọi đêm Mắt giương không ngủ bũng không thèm Tình này ai thấu cho ta nhỉ Tâm sự năm canh một bóng đèn. Ðiểm sáng nhất, xúc động nhất trong thơ ông là ở tình này. Ðó là tình cảm của ông đối với quê hƣơng đất nƣớc. Nỗi đau khi nhìn thấy đất nƣớc đổi thay mà bản thân ông thì không làm gì thay đổi thời cuộc ( Sông lấp). Bài thơ chứng tỏ Tú Xƣơng vẫn là ngƣời nặng tình đời và tha thiết với cuộc sống. Mặc dù có lúc ông đâm ra bối rối, lạc lõng, mất phƣơng hƣớng trƣớc bao biến đổi của thời cuộc: Hỏi người chỉ thấy non xanh ngắt, Ðợi nước càng thêm tóc bạc phơ Ðường đất xa khơi ai mách bảo? Biết đâu mà ngóng dến bao giờ? ( Lạc đường) Lòng yêu nƣớc của Tú Xuơng còn thể hiện qua sự khâm phục của Tú Xƣơng đối với những ngƣời có tài, có đức ra cứu đời, giúp nƣớc: Vá trời gặp hội mây năm vẻ Lấp bể ra công đất một hòn ( Gửi cụ thủ khoa Phan) Tuy không đủ dũng khí để đi vào cuộc cách mạnh nhƣ bao nghĩa sĩ yêu nƣớc khác nhƣng ông có cảm tình nồng hậu đối với những ngƣời làm cách mạng. Hình ảnh Phan Bội Châu Vá trời, lấp bể đã đến với Tú Xƣơng bằng tất cả sự kính mến, khâm phục. 3. Triết lý sống của Tú Xƣơng giữa thời buổi loạn ly của đất nƣớc: Triết lý sống của Tú Xƣơng đặc biệt không giống ai giữa thời buổi loạn ly. Ông sống giả câm, giả điếc, làm ngơ trƣớc dƣ luận. Sống nhƣ ông phải có kiểu cách riêng, giống nhƣ hình ảnh của chú Mán ở Nam Ðịnh: Khi để chỏm, lúc cạo đầu Nghêu ngao câu hát nửa tàu, nửa ta Chẳng đội nón chịu màu da dãi nắng, Chẳng nhuộm răng để trắng dễ cười đời, Chốn quyền môn lòn cúi mặc ai, Ngoài cương tỏa thảnh thơi ai đã biết. ( Chú Mán) Thái độ sống khác của Tú Xƣơng có phải chăng là thái độ chống đối của nhà thơ trƣớc thời cuộc? Ông không muốn hòa vào cuộc sống ngột ngạt không lối thoát này, không muốn hợp tác với cái văn minh trong thời kỳ nƣớc mất, nhà tan. Giữa bao cái rối rắm mà mọi ngƣời đang tìm cách chen chân vào thì Tú Xƣơng tách khỏi nó. Từ đó thể hiện sự yêu thích tự do, không chịu cúi lòn làm nô lệ. Triết lý sống của Tú Xƣơng nếu đem đặt bên cạnh triết lý sống của các nhà chiến sĩ yêu nƣớc là xả thân vì nƣớc lúc bấy giờ thì triết lý sống của Tú Xƣơng có phần nhạt nhẽo, vô vị. Nhƣng nói chung, triết lý sống của ông đã phần nào phản ảnh đƣợc tâm trạng của lớp ngƣời sống trong thời buổi không đành tâm theo giặc cũng không cầm vũ khí chống giặc. III. NGHỆ THUẬT THƠ VĂN TRẦN TẾ XƢƠNG: 1. Kết cấu: Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 108 1.1.Thơ trào phúng của Tú Xương hết sức đa dạng và phong phú. Có bài thơ vừa có hiện thực vừa có trào phúng. Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật, Tú Xƣơng sử dụng tiếng cƣời làm vũ khí. Ở Tú Xƣơng không có cái nhàn nhạt, cái lƣng chừng, cƣời là cƣời phá, chửi là chửi độc, chua chát đến ứa mật, ứa máu. Có những bài tự trào, tự khoe về mình, dùng ngôn ngữ lấp lững, ỡm ờ, hoặc những từ hoàn toàn thô tục . . . Tứ thơ thƣờng độc đáo, đột ngột, táo bạo gây sự chú ý và bám vào linh hồn của chủ đề. Tú Xƣơng đã quàng vào cổ ông Hàn nọ ( Vốn làm nghề nấu rƣợu) những xâu, chai, lọ, vung, nồi lổn nhổn: Hàn lâm tu soạn kém gì ai? Ðủ cả vung nồi, cả cóng chai ( Ðưa ông hàn) Cái tài tình của Tú Xƣơng là chợp đúng cái thần của sự vật bằng một vài nét điển hình, rồi với cách nói thẳng thừng, táo bạo và hài hƣớc của mình, ông phơi bày cái lõi của sự thật cho mọi ngƣời xem có khi ở câu đầu: Lúc túng toan lên bán cả trời Trời rằng thằng bé nó hay chơi ( Tự cười mình) Có khi ở cuối câu: Cụ Xứ có cô con gái đẹp Lăm le xin bố cưới làm chồng ( Ði thi nói ngông) Có khi mƣợn lối chơi chữ: Ấm không ra ấm, ấm ra nồi Ấm chạy lăng quăng, ấm chẳng ngồi ( Bỡn ông ấm Ðiềm) Có lúc nhân cái mồm tu hú của đối tƣợng mà hạ một ý thật lạ lùng: Cậu này ắt hẵn hay nghề sáo, Dây vũ dây văn vụng ngón đàn ( Thông gia với quan) Hoặc mở đầu bài thơ Ðể vợ chơi nhăng là đánh thẳng đối tƣợng là anh chồng ngu”: Thọ kia mày có biết hay chăng Con vợ mày kia xiết nói năng Vợ đẹp của người không giữ được Chồng ngu mượn đứa để chơi nhăng Nhƣng mục đích chính là đả kích mụ vợ, nên khổ thơ cứ dồn dập và quyết liệt: Ra đường đáng giá người trinh thục Trong bụng sao mà những gió trăng, Mới biết hồng nhan là thế thế, Trăm năm, trăm tuổi, lại trăm thằng. Có thể nói, Tú Xƣơng đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kết cấu trong thơ trào phúng, trƣớc hết vì tiếng cƣời của ông là sự phê phán của một lý trí và cảm xúc nhạy bén của con tim nên tiếng cƣời trào phúng của Tú Xƣơng rất chắc, hiệu quả cao. 1.2.Thơ trữ tình của Tú Xƣơng: Lời thơ nhuần nhuyễn, ý thơ gần gũi, sâu lắng. Các bài thơ tiêu biểu Ðêm hè, Ngẫu hứng, Sông lấp, Gửi cụ thủ khoa Phan, Nhớ bạn phương trời . . . thể hiện cái sâu xa trong tâm trạng của ông đó là tinh thần dân tộc, tuy có giới hạn nhƣng rất đáng quý, đã hình thành nên tính cách Tú Xƣơng. Ông có những bài thơ thể hiện tình cảm lãng mạn cũng khá hiện đại: Em gửi cho anh mãnh lụa đào Không biết rằng em bán thế nào Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 109 ( Tặng người quen) Ðề tài thơ trữ tình của Tú Xƣơng tuy không phong phú và đa dạng nhƣ thơ trào phúng nhƣng cũng rất sâu sắc và đậm đà. Nhà thơ sử dụng nhiều chi tiết từ cuộc sống nên tứ thơ rất sinh động, nhiều chi tiết xác thực nhƣ bản thân đời sống . Hình ảnh bà Tú đƣợc tái hiện bằng những nét rất thực: Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông. ( Thương vợ) Bài thơ Nhớ bạn phƣơng trời đã đi sâu vào thế gới tâm trạng, tràn ngập cảm xúc trữ tình của nhà thơ đối với nhà cách mạng Phan Bội Châu. Ta nhớ người xa cách núi sông, Người xa, xa lắm nhớ ta không? Sao đang vui vẻ ra buồn bã Vừa mới quen nhau đã lạ lùng Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng Khi riêng riêng đến cả tình chung Tương tư lọ phải là trai gái, Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng. 1.3.Sự kết hợp hai yếu tố hiện thực và trữ tình: Rất độc đáo và sâu sắc. Kết cấu bài thơ không gò bó. Tính phóng túng trong suy nghĩ cũng nhƣ trong tính tình đã đem vào khuôn khổ thể thơ bảy chữ tám câu nhiều nét mới đã phá vỡ mọi qui định: Việc bác không xong tôi chết ngay! Chết ngay? Như thế vội vàng thay! ( Bỡn người làm mối) Hỏi lão đâu ta?- Lão ở Liêm Trông ra bóng dáng đã hom hem ( Già chơi trống bỏi) Người đói ta đây cũng chẳng no, Cha thằng nào có tiếc không cho ( Thề với ăn xin) Rất nhiều bài thơ của Tú Xƣơng có sự kết hợp hài hòa hai yếu tố hiện thực và trữ tình (Vịnh khoa thi hƣơng năm Ðinh Dậu, Thƣơng vợ, Thề với ăn xin . . .) Nói về sự kết hợp giữa hai yếu tố hiện thực và trữ tình trong một bài thơ, Nguyễn Tuân cho rằng: Sở dĩ thơ Tú Xƣơng không bị tắt gió, không bị bay ra khỏi là vì thơ Tú Xương đã đi bằng hai chân hiện thực và lãng mạn, là vì thi pháp của Tú Xương phối hợp cả hiện thực và trữ tình 2. Ngôn ngữ và chất liệu dân gian: 2.1. Ngôn ngữ: Tú Xƣơng là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh. Ngôn ngữ giản dị, chính xác, uyển chuyển, gợi hình và có tính chất dân gian ( Ði hát mất ô) đƣợc xem là bài duyên dáng, hóm hĩnh, độc đáo của Tú Xƣơng vì ông đã thể hiện đƣợc cái thần của bài thơ. Sử dụng ngôn ngữ hàng ngày, tƣơi mát, tự nhiên mà vẫn thanh nhã, óng chuốt. Mấy câu sau đây nhƣ lời nói ở cửa miệng, không thêm bớt mà rất chân thành: Tôi hỏi thăm ông đến tận nhà, Trước nhà có miếu, có cây đa Cửa hè sân ngõ chừng ba thước, Nửa tá tre pheo đủ một tòa . . . ( Ông ấm Ðiềm) Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 110 Hoặc đây là cách nói ngang tàng nhƣng rất tự nhiên: Gái tơ đi lấy làm hai họ Năm mới vừa sang được một ngày ( Viếng cô Ký) Hai họ là vợ hai, đối với Một ngày tức mùng một tết. Vậy câu thơ chỉ giữ cái vỏ của phép đối mà vƣợt qua những ràng buộc khác khiến cho lời thơ của Tú Xƣơng không những êm tai, sƣớng miệng mà còn rất độc đáo, có giá trị châm biếm cao. 2.2.Chất liệu dân gian: Nhiều thành ngữ dân gian, ca dao đã đi vào thơ Tú Xƣơng bằng sự sáng tạo riêng. Các thành ngữ nhƣ Học đã sôi cơm, thi không ăn ớt, vuốt râu nịnh vợ, quắc mắt khinh đời, năm nắng mưới mưa, thân cò lặn lội . . . đã được Tú Xương vận dụng khá độc đáo trong thơ. Vuốt râu nịnh vợ con bu nó Quắc mắt khinh đời cái bộ anh. Tú Xƣơng rất am hiểu ca dao, nhiều câu ca dao còn thể hiện cái tình tứ, duyên dáng, hóm hỉnh của nhà thơ. Ai ơi còn nhớ ai không? Trời mưa một mảnh áo bông che đầu Nào ai có tiếc ai đâu Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô? Người đi tam đảo, ngũ hồ. Kẻ về khóc trúc, than ngô một mình. Non non, nước nước, tình tình Vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ ( Áo bông che đầu) IV. KẾT LUẬN: Về nội dung, thơ trào phúng và trữ tình của Tú Xƣơng có giá trị hiện thực cao. Thơ Tú Xƣơng là tiếng nói, là nỗi lòng của tầng lớp nho sĩ đang đứng giữa thời cuộc không đành tâm theo giặc cũng không cầm vũ khí chống giặc. Về nghệ thuật, cả hai mặt trào phúng và trữ tình, Tú Xƣơng xứng đáng là nhà thơ lớn của dân tộc, xứng đáng đƣợc Yên Ðỗ ( Nguyễn Khuyến) nhà thơ cùng thời xếp vào loại thi hào bất tử : Kìa ai chín suối Xương không nát Có nhẽ nghìn thu tiếng vẫn còn.
File đính kèm:
- giao_trinh_van_hoc_trung_dai_viet_nam_phan_2.pdf