Lịch sử thống nhất đất nước Hàn Quốc

Tóm tắt Lịch sử thống nhất đất nước Hàn Quốc: ...nước của người dân Hàn Quốc. Phong trào này đã dẫn tới việc thành lập một chính phủ lâm thời tại Thượng Hải, Trung Quốc và cuộc đấu tranh vũ trang có tổ chức chống lại thực dân Nhật tại Mãn Châu Lý. Vào ngày mồng 1 tháng Ba hàng năm, người Hàn Quốc vẫn kỷ niệm Phong trào Độc lập này và đây...n ở Hàn Quốc được tiến hành vào ngày 10-05-1948 tại những vùng ở phía nam vĩ tuyến 38. Vĩ tuyến này đã trở thành đường chia cắt bán đảo Triều Tiên thành hai miền Bắc, Nam. Syngman Rhee (Lý Thừa Vãn) được bầu làm Tổng thống đầu tiên của Đại Hàn Dân Quốc vào năm 1948. Đồng thời, ở phía bắc...1963. Chính quyền của Tổng thống Park theo đuổi công cuộc công nghiệp hóa nhanh chóng và đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao trong những thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ trước, thường được gọi là "Kỳ tích trên sông Hàn", nhưng sự cai trị của ông cũng kéo theo hạn chế nghiêm ngặt những quyền chí...

pdf10 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 311 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Lịch sử thống nhất đất nước Hàn Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỊCH SỬ THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC 
HÀN QUỐC 
Từ đầu thế kỷ 17, một phong trào chủ trương Silhak, có nghĩa học thuật 
thực hành, đã phát triển mạnh trong các quan chức học giả có tư tưởng 
tự do như một phương tiện để xây dựng một quốc gia hiện đại. 
Các học giả này kiên quyết kiến nghị việc cải thiện nông nghiệp và công 
nghiệp, đồng thời thực hiện cải cách triệt để việc phân chia đất đai. 
Đương nhiên những nhà quý tộc của một chính phủ bảo thủ không sẵn 
sàng ủng hộ một sự thay đổi mạnh mẽ như vậy. 
Trong nửa sau của thời kỳ Joseon, người ta thấy chính quyền chính phủ 
và tầng lớp thượng lưu bắt đầu có những biểu hiện của tư tưởng bè 
phái. Để chỉnh đốn tình hình chính trị không mong muốn này, vua 
Yeongjo (trị vì 1724-1776) cuối cùng đã đề ra một chính sách không 
thiên vị. Nhờ thế nhà vua đã củng cố được quyền lực của vương triều 
và sự ổn định chính trị. 
Vua Jeongjo (trị vì 1776-1800) đã duy trì chính sách không thiên vị và 
lập nên một thư viện của triều đình để gìn giữ những tài liệu và những 
biên bản của vương triều. Ông cũng khởi xướng những cuộc cải cách về 
chính trị và văn hóa khác. Giai đoạn này đã chứng kiến sự phát triển rực 
rỡ của Silhak. Một số học giả có tên tuổi đã viết ra những công trình 
tiến bộ đề nghị cải cách nông nghiệp và công nghiệp, nhưng chỉ một số 
ít những ý tưởng đó được triều đình chấp thuận. 
Sự chiếm đóng của thực dân Nhật và phong trào độc lập 
của Hàn Quốc 
Hàn Quốc trở thành một “Quốc gia ẩn dật” vào thế kỷ 19, 
kiên quyết phản đối những đòi hỏi của phương Tây về quan 
hệ ngoại giao và thương mại. Cùng với thời gian, một số 
nước châu Á và châu Âu với tham vọng đế quốc đã đua 
tranh để giành ảnh hưởng đối với bán đảo Triều Tiên. Nhật 
Bản, sau khi thắng Trung Quốc và Nga trong chiến tranh, đã 
thôn tính Hàn Quốc và thiết lập sự cai trị thực dân tại đây từ 
năm 1910. 
Chế độ cai trị thực dân của Nhật Bản đã khơi dậy tinh thần 
yêu nước của người Hàn Quốc. Các nhà trí thức Hàn Quốc đã 
căm phẫn trước chính sách đồng hóa ngang nhiên của Nhật 
Bản mà thậm chí chính sách này còn cấm cả việc giảng dạy 
bằng tiếng Hàn trong các trường học. Ngày 1-3-1919, người 
dân Hàn Quốc đã tổ chức những cuộc phản đối trên phạm vi 
cả nước, trong đó hàng nghìn người đã hy sinh. 
Mặc dù thất bại, Phong trào Độc lập mồng 1 tháng 3 đã tạo 
nên một mối liên kết vững vàng giữa bản sắc dân tộc và tinh 
thần yêu nước của người dân Hàn Quốc. Phong trào này đã 
dẫn tới việc thành lập một chính phủ lâm thời tại Thượng 
Hải, Trung Quốc và cuộc đấu tranh vũ trang có tổ chức 
chống lại thực dân Nhật tại Mãn Châu Lý. Vào ngày mồng 1 
tháng Ba hàng năm, người Hàn Quốc vẫn kỷ niệm Phong 
trào Độc lập này và đây được coi là ngày lễ quốc gia. 
 Trong suốt thời kỳ thực dân, Nhật Bản đã không ngừng bóc 
lột Hàn Quốc về kinh tế. Cuộc sống của người Hàn Quốc trở 
nên khốn khổ dưới ách thống trị của thực dân Nhật cho tới 
khi Nhật Bản bị đánh bại trong cuộc chiến tranh thế giới lần 
thứ II vào năm 1945. 
Thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc 
Người Hàn Quốc vui mừng khi Nhật bị đánh bại trong Chiến 
tranh Thế giới lần thứ II. Tuy nhiên, niềm vui của họ chỉ hết 
sức ngắn ngủi. Tự do không đem lại ngay cho người Hàn 
Quốc một nền độc lập mà họ đã chiến đấu hết sức ác liệt để 
giành lấy. 
Thay vào đó, nó đã để lại một đất nước bị chia cắt bởi sự 
khác biệt về tư tưởng do cuộc chiến tranh lạnh. Những nỗ 
lực của người Hàn Quốc nhằm xây dựng nên một chính phủ 
độc lập đã thất bại do lực lượng quân đội Mỹ chiếm đóng 
nửa phía nam bán đảo và quân đội Xô Viết kiểm soát phần 
phía Bắc. 
Tháng 11-1947, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (LHQ) thông 
qua một nghị quyết kêu gọi tổng tuyển cử tại Hàn Quốc dưới 
sự giám sát của một Ủy ban LHQ. 
Tuy nhiên, Liên Xô đã từ chối thi hành nghị quyết này và 
ngăn Ủy ban LHQ tiến vào nửa phía bắc bán đảo. Sau đó, đại 
hội đồng LHQ đã thông qua một nghị quyết khác kêu gọi bầu 
cử tại các địa phương mà Ủy ban LHQ có thể đến được. 
Những cuộc bầu cử đầu tiên ở Hàn Quốc được tiến hành vào 
ngày 10-05-1948 tại những vùng ở phía nam vĩ tuyến 38. Vĩ 
tuyến này đã trở thành đường chia cắt bán đảo Triều Tiên 
thành hai miền Bắc, Nam. 
Syngman Rhee (Lý Thừa Vãn) được bầu làm Tổng thống đầu 
tiên của Đại Hàn Dân Quốc vào năm 1948. Đồng thời, ở phía 
bắc vĩ tuyến 38, CHDCND Triều Tiên được thành lập dưới sự 
lãnh đạo của Kim Il-sung (Kim Nhật Thành). 
Ngày 25-06-1950, miền Bắc tiến hành một cuộc xâm lược 
quy mô lớn vào miền Nam dẫn đến cuộc chiến tranh kéo dài 
ba năm với sự tham gia của Mỹ, Trung Quốc và một số lực 
lượng quân sự nước ngoài khác. Toàn bộ bán đảo bị tàn phá 
do những cuộc xung đột. Cuối cùng, một hiệp định ngừng 
bắn đã được kí kết tháng 7-1953. 
Cuộc chiến tranh đã làm gần 3 triệu người chết và bị 
thương, hàng triệu người khác mất nhà cửa hoặc bị ly tán 
gia đình. Sự rối loạn nghiêm trọng về xã hội vẫn tiếp diễn 
dưới chính quyền Tổng thống Syngman Rhee. 
Nền dân chủ của Hàn Quốc chưa chín muồi vào thời điểm 
bấy giờ, và đất nước đã phải trải qua những khó khăn to lớn 
về chính trị và kinh tế. Cuộc nổi dậy do sinh viên cầm đầu 
tháng 4-1960 buộc Tổng thống Rhee phải từ chức. Chang 
Myon thuộc đảng dân chủ lập nên một chính phủ vào tháng 
8-1960 và một nền cộng hòa thứ hai được thành lập. 
Tuy nhiên, một cuộc đảo chính do Đại tướngPark Chung-hee 
(Pắc Chung Hy) cầm đầu ngày 16-05-1961 đã lật đổ chính 
phủ mới. Hội đồng Tái thiết Quốc gia Tối cao do TướngPark 
đứng đầu đã tiếp quản các chức năng lập pháp, hành pháp 
và tư pháp của Chính phủ. 
Park trở thành Tổng thống trong cuộc bầu cử năm 1963. 
Chính quyền của Tổng thống Park theo đuổi công cuộc công 
nghiệp hóa nhanh chóng và đạt được sự tăng trưởng kinh tế 
cao trong những thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ trước, thường 
được gọi là "Kỳ tích trên sông Hàn", nhưng sự cai trị của ông 
cũng kéo theo hạn chế nghiêm ngặt những quyền chính trị 
và tự do của nhân dân. 
Vụ ám sát TổngthốngPark vào tháng 10-1979 đã dẫn đến 
thời kỳ quá độ dưới ách quân luật. Choi Kyu-hah, được 
phong làm Tổng thống lâm thời, đã từ chức tháng 8-1980, và 
Chun Doo-hwan, người cầm đầu một nhóm sĩ quan đầy thế 
lực, đã được Hội nghị Quốc gia về Thống nhất-một tập thể 
cử tri - bầu làm Tổng thống. 
Các phong trào thân dân chủ lên cao trong suốt thập niên 
1980 và chế độ bầu cử Tổng thống bằng đầu phiếu phổ 
thông trực tiếp đã được khôi phục trong Hiến pháp được 
sửa đổi năm 1987. 
Roh Tae-woo, nguyên là một tướng quân đội, đã được bầu 
làm Tổng thống theo Hiến pháp mới, song những tiến bộ về 
dân chủ đạt được trong suốt thời kỳ cầm quyền của ông đã 
chuẩn bị cho cuộc bầu cử tổng thống dân sự lần đầu tiên 
trong vòng 32 năm. 
Kim Young-sam, một nhà hoạt động thân dân chủ lâu năm, 
do đảng cầm quyền đề cử đã được bầu làm Tổng thống năm 
1992. 
Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1997, lãnh tụ Kim Dae-
jung của phe đối lập chiếm đa số - đảng Quốc hội vì một Nền 
Chính trị Mới (NCNP) - đã đắc cử. Chính quyền của ông, với 
tên gọi "Chính quyền của nhân dân" đã được thành lập 
thông qua sự chuyển giao quyền lực một cách hòa bình lần 
đầu tiên trong lịch sử Hàn Quốc từ đảng cầm quyền sang 
đảng đối lập. 
Chính quyền của Tổng thống Roh Moo-hyun, hay "Chính phủ 
có sự tham dự của Nhân dân", ra mắt ngày 25-02-2003. 
Chính quyền của Tổng thống Roh, chính quyền thứ 16 trong 
lịch sử nước cộng hòa, đã đề ra ba mục tiêu trước mắt là 
"Dân chủ với nhân dân", "Xã hội phát triển cân bằng", và "Kỷ 
nguyên hòa bình và thịnh vượng ở Đông Bắc Á". 
Chính quyền Roh Moo-hyun sinh ra từ sức mạnh của nhân 
dân. Các cuộc quyên góp tự nguyện và chiến dịch vận động 
bầu cử do những người dân vận động đã đem lại chiến 
thắng cho Tổng thống Roh Moo-hyun trong cuộc bầu cử 
tổng thống. 
Chính quyền Roh được xây dựng trên nền tảng sức mạnh 
của dân chúng tham gia. Vì vậy, sự tham gia của quần chúng 
sẽ có một vai trò then chốt trong hoạt động tương lai của 
chính phủ, như nó đã từng có vai trò quyết định khi mới ra 
đời. 

File đính kèm:

  • pdflich_su_thong_nhat_dat_nuoc_han_quoc.pdf