Một số nội dung mới trong pháp luật Việt Nam về hợp đồng hợp tác kinh doanh

Tóm tắt Một số nội dung mới trong pháp luật Việt Nam về hợp đồng hợp tác kinh doanh: ...tác kinh doanh phải có ít nhất một bên là tổ chức, cá nhân nước ngoài và cá nhân công dân Việt Nam không có cơ hội kí kết hợp đồng hợp tác kinh doanh trong trường hợp đối tác của C¸c lo¹i hîp ®ång th−¬ng m¹i 34 t¹p chÝ luËt häc sè 11/2008 họ là nhà đầu tư nước ngoài (do quy định bên...báo chí, phát thanh, truyền hình. Hợp đồng hợp tác kinh doanh (và doanh nghiệp liên doanh) cũng là điều kiện đầu tư đối với các ngành nghề khác như: Khai thác, chế biến dầu khí, khoáng sản quý hiếm; vận tải hàng không, đường sắt, đường biển, vận tải hành khách công cộng; xây dựng cảng ... đầu tư BCC Khi pháp luật hiện hành về hợp đồng hợp tác kinh doanh được áp dụng chung cho cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài thì các quy định có tính chất phân biệt đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài sẽ không còn phù hợp và nhiều trường hợp rất không cần ...

pdf6 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 406 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Một số nội dung mới trong pháp luật Việt Nam về hợp đồng hợp tác kinh doanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
C¸c lo¹i hîp ®ång th−¬ng m¹i 
 32 t¹p chÝ luËt häc sè 11/2008 
TS. NguyÔn ThÞ Dung * 
1. Khái lược về hợp đồng hợp tác kinh 
doanh và pháp luật điều chỉnh quan hệ 
hợp đồng hợp tác kinh doanh 
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) là 
hình thức đầu tư được quy định trong pháp 
luật của nhiều nước, gọi tắt là hợp doanh. 
Hợp đồng hợp tác kinh doanh được kí kết 
giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh 
doanh trên cơ sở hợp đồng, theo đó các bên 
hợp doanh cùng góp vốn, cùng quản lí kinh 
doanh, cùng chịu rủi ro, cùng phân chia kết 
quả thu được nhưng không thành lập pháp 
nhân mới. Trong quá trình thực hiện hợp 
đồng, các bên vẫn giữ nguyên tư cách pháp 
lí của chính mình, nhân danh mình để thực 
hiện quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng. Với cơ 
chế đàm phán để chia sẻ lợi ích cũng như 
nghĩa vụ trong hoạt động đầu tư, đầu tư 
theo hợp đồng hợp tác kinh doanh có tính 
linh hoạt, do không có sự ràng buộc về tổ 
chức bằng một pháp nhân chung của các tổ 
chức, cá nhân có quan hệ đầu tư với nhau. 
Hợp đồng hợp tác kinh doanh có đặc trưng 
cơ bản về tính chất, về chủ thể, về nội dung 
quan hệ đầu tư. 
+ Về tính chất: Đây là quan hệ đầu tư 
được thiết lập trên cơ sở hợp đồng, các nhà 
đầu tư có chung vốn kinh doanh nhưng 
không thành lập tổ chức kinh tế mới. 
+ Về chủ thể của hợp đồng: Chủ thể của 
hợp đồng hợp tác kinh doanh là các nhà đầu 
tư, bao gồm cả nhà đầu tư trong nước và nhà 
đầu tư nước ngoài. Số lượng chủ thể tham 
gia quan hệ hợp đồng có thể bao gồm hai 
hoặc nhiều nhà đầu tư cùng có quan hệ hợp 
tác kinh doanh với nhau (song phương hoặc 
đa phương). Đây là đặc điểm phân biệt hợp 
đồng hợp tác kinh doanh với các hợp đồng 
khác trong hoạt động thương mại như hợp 
đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng cung ứng 
dịch vụ. Những hợp đồng này thường chỉ có 
sự tham gia của hai bên (ví dụ: một thương 
nhân bên mua và một thương nhân bên bán) 
+ Về nội dung quan hệ đầu tư: Bao gồm 
những thoả thuận thể hiện tính "hợp tác kinh 
doanh", bao gồm các thoả thuận bỏ vốn để 
cùng kinh doanh, cùng chịu rủi ro, cùng 
phân chia kết quả kinh doanh. Đây chính là 
đặc thù của hợp đồng hợp tác kinh doanh 
trong sự so sánh với các hợp đồng khác 
trong thương mại (ở các hợp đồng này, thời 
điểm chuyển giao rủi ro được các bên thoả 
thuận hoặc pháp luật quy định là cơ sở xác 
định rõ lợi nhuận hay rủi ro thuộc về một 
trong các bên của hợp đồng). 
Hợp đồng hợp tác kinh doanh lần đầu 
tiên được quy định cụ thể trong Luật đầu tư 
* Giảng viên Khoa pháp luật kinh tế 
 Trường Đại học Luật Hà Nội 
C¸c lo¹i hîp ®ång th−¬ng m¹i 
 t¹p chÝ luËt häc sè 11/2008 33 
nước ngoài năm 1987, với tính chất là quan 
hệ hợp tác kinh doanh giữa nhà đầu tư Việt 
Nam và nhà đầu tư nước ngoài. Khi mới 
được quy định trong pháp luật đầu tư Việt 
Nam, hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ có 
thể được kí kết và thực hiện giữa hai bên chủ 
thể, bao gồm một bên nước ngoài và một bên 
Việt Nam. 
Phù hợp hơn với thực tiễn kinh doanh, 
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật 
đầu tư nước ngoài năm 1990 đã quy định hợp 
đồng hợp tác kinh doanh là hợp đồng hai bên 
hoặc nhiều bên (phía Việt Nam có thể gồm 
một hoặc nhiều bên, phía nước ngoài cũng có 
thể gồm một hoặc nhiều bên). Trên cơ sở này, 
hợp đồng hợp tác kinh doanh đã được định 
nghĩa là: Văn bản được kí kết giữa hai hoặc 
nhiều bên để cùng nhau tiến hành đầu tư 
kinh doanh ở Việt Nam trên cơ sở quy định 
trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh 
cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân 
mới. Cùng với các quan hệ hợp doanh được 
thực hiện với các nhà đầu tư nước ngoài, 
quan hệ hợp doanh giữa các nhà đầu tư trong 
nước cũng hình thành song còn thiếu các quy 
định cụ thể, ngoài các quy định điều chỉnh 
quan hệ hợp đồng kinh tế nói chung. 
Luật đầu tư năm 2005 với tính chất là 
Luật đầu tư áp dụng chung cho các nhà đầu 
tư, không phân biệt quốc tịch của họ đã giải 
quyết thiếu hụt này của hệ thống pháp luật 
về đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh. 
Điều 3 của Luật này quy định: “Hợp đồng 
hợp tác kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp 
đồng BCC) là hình thức đầu tư được kí giữa 
các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh 
phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà 
không thành lập pháp nhân”. Quy định này 
được hướng dẫn cụ thể bằng Nghị định của 
Chính phủ số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một 
số điều của Luật đầu tư. 
2. Một số nội dung mới trong pháp luật 
hiện hành về hợp đồng hợp tác kinh doanh 
2.1. Quy định về chủ thể của hợp đồng 
hợp tác kinh doanh 
Nhà đầu tư (không phân biệt quốc tịch 
của họ) có thể trở thành chủ thể của hợp 
đồng hợp tác kinh doanh, bao gồm: 
a) Doanh nghiệp thuộc các thành phần 
kinh tế thành lập theo Luật doanh nghiệp; 
b) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành 
lập theo Luật hợp tác xã; 
c) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước 
ngoài được thành lập trước khi Luật đầu tư 
năm 2005 có hiệu lực; 
d) Hộ kinh doanh, cá nhân; 
đ) Tổ chức, cá nhân nước ngoài; người 
Việt Nam định cư ở nước ngoài; người nước 
ngoài thường trú ở Việt Nam; 
e) Các tổ chức khác theo quy định của 
pháp luật Việt Nam. 
Như vậy, mọi tổ chức, cá nhân là nhà 
đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước 
ngoài, thuộc sở hữu nhà nước hay sở hữu tư 
nhân đều có thể trở thành chủ thể của hợp 
đồng hợp tác kinh doanh. Đây là điểm khác 
biệt so với các quy định về hợp doanh trong 
các văn bản pháp luật về đầu tư trước đây, 
theo đó: Chủ thể của hợp đồng hợp tác kinh 
doanh phải có ít nhất một bên là tổ chức, cá 
nhân nước ngoài và cá nhân công dân Việt 
Nam không có cơ hội kí kết hợp đồng hợp 
tác kinh doanh trong trường hợp đối tác của 
C¸c lo¹i hîp ®ång th−¬ng m¹i 
 34 t¹p chÝ luËt häc sè 11/2008 
họ là nhà đầu tư nước ngoài (do quy định 
bên hợp doanh Việt Nam phải là "doanh 
nghiệp" trong Luật đầu tư nước ngoài). 
2.2. Quy định về đối tượng và phạm vi 
áp dụng pháp luật về đầu tư BCC 
Luật đầu tư năm 2005 có đối tượng áp 
dụng chung là nhà đầu tư trong nước và nhà 
đầu tư nước ngoài có hiệu lực thi hành đồng 
thời với việc Luật đầu tư nước ngoài chấm 
dứt hiệu lực. Bên cạnh các quy định áp dụng 
chung đó, vẫn tồn tại những quy định áp 
dụng riêng cho nhà đầu tư nước ngoài và đầu 
tư kinh doanh vốn nhà nước. Đó là: 1) Điều 
9 Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 
22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi 
hành một số điều của Luật đầu tư định nghĩa 
BCC là hợp đồng có một bên hợp doanh là 
một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Điều 
khoản này cũng quy định về ban điều phối 
của hợp doanh cũng như việc nhà đầu tư 
nước ngoài lập văn phòng điều hành tại Việt 
Nam; 2) Điều 53, 55 (mục IV) Nghị định số 
108/2006/NĐ-CP quy định về thủ tục đầu tư 
và nội dung hợp đồng hợp tác kinh doanh 
đối với dự án BCC có yếu tố nước ngoài; 3) 
Phụ lục C Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều 
kiện áp dụng cho đầu tư nước ngoài, ban 
hành kèm theo Nghị định số 108/2006/NĐ-
CP ngày 22/9/2006; 4) Quy định riêng về 
đầu tư kinh doanh vốn nhà nước tại Chương 
VII - Luật đầu tư năm 2005. 
Như vậy, mặc dù có sự thống nhất pháp 
luật về đầu tư nhằm đảm bảo môi trường đầu 
tư bình đẳng, không phân biệt đối xử song 
pháp luật hiện hành vẫn tồn tại một số quy 
định riêng áp dụng cho đầu tư nước ngoài và 
đầu tư kinh doanh vốn nhà nước do đặc thù 
của các hoạt động đầu tư này. Nguyên tắc 
của các quy định riêng trên là phải đảm bảo 
sự phù hợp với tính đặc thù của quan hệ đầu 
tư và không mâu thuẫn với chính sách đầu tư 
bình đẳng, không phân biệt đối xử, cũng 
không trái các cam kết quốc tế. Ví dụ: Nghị 
định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 
quy định "điều kiện đầu tư mà nhà đầu tư 
nước ngoài phải đáp ứng khi đầu tư vào dự 
án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện phải 
phù hợp với quy định của điều ước quốc tế 
mà Việt Nam là thành viên" (Phụ lục C) là 
quy định phù hợp với nguyên tắc trên. 
2.3. Quy định về quyền đầu tư theo hợp 
đồng hợp tác kinh doanh và các yếu tố tác động 
Ngay từ khi thừa nhận hình thức đầu tư 
theo hợp đồng hợp tác kinh doanh, chính 
sách, pháp luật đầu tư của Việt Nam đã ghi 
nhận quyền lựa chọn hình thức đầu tư phù 
hợp với mục đích và nguyện vọng của nhà 
đầu tư. Điều đó cho thấy về nguyên tắc, Nhà 
nước Việt Nam không hạn chế quyền lựa 
chọn hình thức đầu tư của nhà đầu tư. Tuy 
nhiên, trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, 
quan niệm cho rằng hợp doanh (và liên 
doanh) là những hình thức đầu tư có lợi hơn 
cho nước chủ nhà trong việc tiếp cận thị 
trường mới, học tập kinh nghiệm nước ngoài 
cũng như giúp Nhà nước ta dễ giám sát, 
quản lí hoạt động đầu tư nước ngoài... đã dẫn 
tới việc Nhà nước dành nhiều ưu đãi hơn cho 
BCC so với các hình thức đầu tư khác.(1) 
Nhằm tăng tỉ lệ dự án đầu tư vào các hình 
thức này, pháp luật Việt Nam cũng đã từng 
quy định hợp đồng hợp tác kinh doanh là 
C¸c lo¹i hîp ®ång th−¬ng m¹i 
 t¹p chÝ luËt häc sè 11/2008 35 
điều kiện đầu tư đối với một số ngành nghề 
(điều kiện về hình thức đầu tư) như thiết lập 
mạng viễn thông công cộng, cung cấp dịch 
vụ viễn thông, kinh doanh dịch vụ chuyển 
phát thư trong nước, chuyển phát thư quốc 
tế; hoạt động báo chí, phát thanh, truyền 
hình. Hợp đồng hợp tác kinh doanh (và 
doanh nghiệp liên doanh) cũng là điều kiện 
đầu tư đối với các ngành nghề khác như: 
Khai thác, chế biến dầu khí, khoáng sản quý 
hiếm; vận tải hàng không, đường sắt, đường 
biển, vận tải hành khách công cộng; xây 
dựng cảng biển, ga hàng không (trừ các dự 
án BOT, BTO, BT); kinh doanh dịch vụ 
hàng hải, hàng không; dịch vụ văn hoá, lữ 
hành, sản xuất thuốc nổ công nghiệp, dịch vụ 
tư vấn (trừ tư vấn kĩ thuật).(2) 
Các quy định buộc phải lựa chọn hay đặc 
biệt khuyến khích khi lựa chọn hình thức 
đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh đều 
là những tác động không phù hợp đến quyền 
đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh 
doanh của nhà đầu tư, cản trở quyền tự do 
lựa chọn hình thức đầu tư và làm hạn chế 
tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Sau khi 
Luật đầu tư năm 2005 được ban hành, các 
quy định thu hút đầu tư theo các cách thức 
trên đây đều được xoá bỏ đồng thời quyền 
đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh 
được thừa nhận chung cho nhà đầu tư trong 
nước và nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư 
được tự chủ lựa chọn lĩnh vực đầu tư, hình 
thức đầu tư, đối tác đầu tư, quy mô và thời 
gian hoạt động của dự án...(3) Tuy nhiên, 
cũng theo luật này, quyền đầu tư theo hợp 
đồng hợp tác kinh doanh vẫn có những giới 
hạn nhất định, tuỳ thuộc vào những cam kết 
quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Hạn chế 
về hình thức đầu tư, tỉ lệ góp vốn... có thể 
được ghi nhận trong các điều ước quốc tế có 
liên quan và nhà đầu tư cũng như Chính phủ 
Việt Nam phải thực thi các cam kết đó. Ví 
dụ, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa 
Kỳ quy định đối với hoạt động đầu tư kinh 
doanh dịch vụ quảng cáo tại Việt Nam: Chỉ 
thông qua liên doanh hoặc hợp doanh, với tỉ 
lệ vốn góp của nhà đầu tư Hoa Kì không quá 
49%, sau 5 năm tỉ lệ này không quá 51% và 
sau 7 năm không hạn chế về tỉ lệ, tức là có 
thể đầu tư 100% vốn. Hay trong cam kết tại 
WTO, chỉ được thành lập liên doanh hoặc 
hợp doanh với đối tác Việt Nam đã được 
cấp đăng kí kinh doanh dịch vụ quảng cáo, 
phần vốn góp của nước ngoài tối đa là 51% 
kể từ ngày gia nhập. Từ ngày 1/1/2009, các 
hạn chế này được bãi bỏ. 
2.4. Quy định về thủ tục đầu tư theo hợp 
đồng hợp tác kinh doanh 
Theo quy định trước đây, quan hệ hợp 
doanh giữa các nhà đầu tư trong nước không 
phải làm thủ tục đầu tư, do quan niệm chỉ coi 
chúng là hợp đồng mà không nhìn nhận về bản 
chất chúng còn là một loại dự án đầu tư. Khi 
nhất thể hoá pháp luật đầu tư, quy định về thủ 
tục đầu tư được áp dụng chung cho cả quan hệ 
hợp doanh trong nước và hợp doanh nước 
ngoài. Theo quy định hiện hành: 
- Mọi dự án đầu tư BCC không phải làm 
thủ tục đăng kí đầu tư khi đáp ứng ba điều 
kiện: 1) Là dự án đầu tư trong nước; 2) Vốn 
đầu tư dưới 15 tỉ đồng; 3) Không thuộc danh 
mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện. 
C¸c lo¹i hîp ®ång th−¬ng m¹i 
 36 t¹p chÝ luËt häc sè 11/2008 
- Mọi dự án đầu tư BCC phải làm thủ tục 
đăng kí đầu tư (cơ quan nhà nước quản lí 
đầu tư cấp tỉnh) khi đáp ứng hai điều kiện: 1) 
Quy mô dự án từ 15 tỉ - dưới 300 tỉ đồng 
(đối với đầu tư trong nước) và dưới 300 tỉ 
đồng (đối với dự án đầu tư nước ngoài); 2) 
Không thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư có 
điều kiện. 
- Mọi dự án đầu tư BCC phải thực hiện 
thủ tục thẩm tra đầu tư khi dự án có quy 
mô vốn đầu tư từ 300 tỉ đồng Việt Nam trở 
lên và không thuộc Danh mục dự án đầu tư 
có điều kiện và khi dự án thuộc danh mục dự 
án đầu tư có điều kiện. 
3. Một số vướng mắc trong điều chỉnh 
pháp luật đối với quan hệ hợp đồng hợp 
tác kinh doanh 
3.1. Về quy định riêng đối với đầu tư 
nước ngoài về đầu tư BCC 
Khi pháp luật hiện hành về hợp đồng 
hợp tác kinh doanh được áp dụng chung cho 
cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước 
ngoài thì các quy định có tính chất phân biệt 
đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư 
nước ngoài sẽ không còn phù hợp và nhiều 
trường hợp rất không cần thiết. Một trong 
các quy định thuộc diện này là Điều 9 Nghị 
định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một 
số điều của Luật đầu tư với nội dung: "Hợp 
đồng hợp tác kinh doanh là hợp đồng do một 
hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài kí kết với 
một hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước (sau 
đây gọi tắt là các bên hợp doanh) để tiến 
hành đầu tư, kinh doanh; trong đó có quy 
định về quyền lợi, trách nhiệm và phân chia 
kết quả kinh doanh cho mỗi bên hợp 
doanh mà không thành lập pháp nhân". 
Do tính thống nhất của pháp luật đầu tư 
hiện hành, việc định nghĩa về hợp đồng hợp 
tác kinh doanh với chủ thể là "một hoặc 
nhiều nhà đầu tư nước ngoài kí kết với một 
hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước" bộc lộ rõ 
sự phiến diện của quy định này, do đó nên có 
sự sửa đổi kịp thời theo hướng không coi 
đây là quy định riêng cho đầu tư nước ngoài 
mà mở rộng phạm vi chủ thể kí kết hợp đồng 
BCC là tất cả các nhà đầu tư. 
3.2. Điều chỉnh pháp luật đối với các 
quan hệ BCC trong nước 
Điều 9 Nghị định số 108/2006/NĐ-CP 
ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng 
dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư quy 
định: "Hợp đồng hợp tác kinh doanh được kí 
giữa các nhà đầu tư trong nước để tiến hành 
đầu tư, kinh doanh thực hiện theo quy định 
của pháp luật về hợp đồng kinh tế và pháp 
luật có liên quan". 
Thực tế, pháp luật về hợp đồng kinh tế 
đã không còn tồn tại kể từ khi Bộ luật dân sự 
(2005) và Luật thương mại (2005) có hiệu 
lực.(4) Xuất phát từ tính chất của quan hệ đầu 
tư, việc áp dụng các quy định của Luật đầu 
tư và các quy định khác có liên quan như 
Luật thương mại, Bộ luật dân sự cho các 
quan hệ hợp doanh trong nước là tất yếu mà 
không cần bóc tách thành quy định riêng 
như trên, nhất là quy định đó lại không thể 
áp dụng được. Bên cạnh đó, các quy định về 
hợp đồng hợp tác kinh doanh trong Luật 
đầu tư (sau khi sửa đổi theo đề xuất tại phần 
4.1) sẽ được áp dụng luôn cho cả quan hệ 
C¸c lo¹i hîp ®ång th−¬ng m¹i 
 t¹p chÝ luËt häc sè 11/2008 37 
đầu tư trong nước. 
3.3. Về tư cách pháp lí của nhà đầu tư 
hay điều kiện về chủ thể của hợp đồng hợp 
tác kinh doanh 
Trong quan hệ hợp doanh, nhà đầu tư sẽ 
đóng vai trò là chủ thể của hợp đồng hợp tác 
kinh doanh. Chủ thể đó có bắt buộc phải có 
đăng kí kinh doanh hay không và quan hệ 
hợp doanh có bị giới hạn bởi nội dung đăng 
kí kinh doanh của các chủ thể hay không? 
Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam 
cho phép giải quyết vấn đề này như sau: 
+ Pháp luật hiện hành xác định “Nhà đầu 
tư” bao gồm “ hộ kinh doanh và cá nhân”(5) 
như vậy, về nguyên tắc, cá nhân (có đăng kí 
kinh doanh hoặc chưa có đăng kí kinh 
doanh) có thể trở thành chủ thể của các quan 
hệ đầu tư do Luật đầu tư điều chỉnh; 
+ Đối với nhà đầu tư nước ngoài, mọi dự 
án đầu tư đều thuộc diện phải làm thủ tục 
đăng kí đầu tư hoặc thẩm tra cấp giấy chứng 
nhận đầu tư và giấy chứng nhận đầu tư đồng 
thời là giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. 
Do vậy, nếu cá nhân là người nước ngoài khi 
vào Việt Nam để tiến hành hoạt động đầu tư 
mà chưa phải là cá nhân kinh doanh thì cơ 
quan có thẩm quyền của Việt Nam sẽ cấp 
giấy chứng nhận đầu tư cho họ cùng với dự 
án đầu tư theo hình thức hợp đồng. Xuất 
phát từ điều này, khi là chủ thể của hợp đồng 
hợp tác kinh doanh, nhà đầu tư nước ngoài 
sẽ được coi là chủ thể có đăng kí kinh doanh. 
+ Đối với nhà đầu tư trong nước, những 
dự án đầu tư (kể cả hợp doanh) có quy mô 
nhỏ dưới 15 tỉ đồng và không thuộc danh 
mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì không 
thuộc diện phải làm thủ tục đăng kí đầu tư. 
Đối với những dự án thuộc diện phải làm thủ 
tục đầu tư, yêu cầu về hồ sơ và các nội dung 
cần thẩm tra trong quy định hiện hành không 
đặt ra vấn đề điều kiện về đăng kí kinh 
doanh của chủ thể. Văn bản xác nhận tư cách 
pháp lí của nhà đầu tư là cá nhân trong 
trường hợp này là hộ chiếu hoặc chứng minh 
thư nhân dân. 
Như vậy, có thể khẳng định chủ thể của 
hợp đồng hợp tác kinh doanh không bắt 
buộc phải là tổ chức, cá nhân kinh doanh. 
Tuy nhiên, điều này bộc lộ sự mâu thuẫn 
với quy định của pháp luật về doanh 
nghiệp, theo đó, người thực hiện hành vi 
kinh doanh thì phải đăng kí kinh doanh và 
có nghĩa vụ hoạt động kinh doanh theo 
đúng ngành nghề đã đăng kí. Nếu áp dụng 
quy định này thì chủ thể của hợp đồng hợp 
tác kinh doanh không những phải có đăng 
kí kinh doanh mà hoạt động hợp doanh của 
họ còn phải phù hợp với nội dung đăng kí 
kinh doanh. "Hợp tác kinh doanh" phải là 
quan hệ giữa các nhà kinh doanh. Điều này 
một mặt nói lên sự thiếu thống nhất với 
pháp luật doanh nghiệp đồng thời cũng nói 
lên sự thiếu chặt chẽ của pháp luật đầu tư 
trong khi điều chỉnh quan hệ đầu tư theo 
hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh./. 
(1).Xem: Luật đầu tư nước ngoài năm 1987. 
(2).Xem: Nghị định của Chính phủ số 27/2003/NĐ-CP 
ngày 19/3/2003 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị 
định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 quy định chi 
tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 
(3).Xem: Điều 13 Luật đầu tư năm 2005. 
(4).Xem: Nghị quyết của Quốc hội số 45/2005/QH11. 
(5).Xem: Khoản 4 Điều 3 Luật đầu tư năm 2005. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_noi_dung_moi_trong_phap_luat_viet_nam_ve_hop_dong_hop.pdf