Nghiên cứu triết học - xã hội về môi trường sinh thái ở Việt Nam
Tóm tắt Nghiên cứu triết học - xã hội về môi trường sinh thái ở Việt Nam: ...n tại của loài người; còn chủ nghĩa cộng sản, đến lượt mình, lại là hình thức xã hội duy nhất cho sự tồn tại của trí tuệ quyển. C.Mác đã tiên đoán chủ nghĩa cộng sản là “sự giải quyết hiện thực mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên, giữa con người và con người”. Theo ông, “tất cả sự vận đ...nh. Nói một cách khái quát và chính xác hơn đó là mối quan hệ qua lại và sự tác động lẫn nhau giữa các hệ thống vật chất sống ở cấp độ cơ thể và trên cơ thể (loài, quần thể, quần xã, hệ sinh thái) với những điều kiện của môi trường sống xung quanh. Con người và xã hội loài người là nhữ...ọc trong sinh quyển (làm mất các khả năng tự tổ chức, tự điều chỉnh, tự làm sạch, tự bảo vệ, tự cân bằng của nó) - một cơ chế bảo đảm sự thống nhất, tính toàn vẹn của hệ thống con người - xã hội - tự nhiên. Việc giải quyết mâu thuẫn này sẽ đụng chạm đến tất cả các lĩnh vực của đời sống...
inh là Oikos có nghĩa là nhà ở, nơi cư trú, nơi sinh sống của các cơ thể sống (từ đơn bào, đa bào, quần thể, quần xã sinh vật, hệ sinh thái đến con người và xã hội loài người), ngày nay nó được gọi là môi trường sống, môi trường xung quanh hay MTST. Thứ hai, sinh thái học là học thuyết khoa học về nơi cư trú, chỗ ở, về những điều kiện sống hay môi trường sống của các sinh thể. Mỗi sinh vật sống đều có một nơi cư trú thích hợp. Điều này không phải ngẫu nhiên vì phụ thuộc vào sự phản ứng thích nghi của cơ thể sinh vật với những điều kiện sống xung quanh như nước, không khí, ánh sáng, khí hậu, thổ nhưỡng... Giữa cơ thể sống và những điều kiện của môi trường sống luôn có mối quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Ngày nay, tuy đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về sinh thái học, song nguồn gốc thuật ngữ của nó vẫn còn nguyên giá trị. Theo cách hiểu chung nhất và phổ biến nhất thì sinh thái học là khoa học về các mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau giữa các cơ thể sống với môi trường xung quanh. Nói một cách khái quát và chính xác hơn đó là mối quan hệ qua lại và sự tác động lẫn nhau giữa các hệ thống vật chất sống ở cấp độ cơ thể và trên cơ thể (loài, quần thể, quần xã, hệ sinh thái) với những điều kiện của môi trường sống xung quanh. Con người và xã hội loài người là những hệ thống vật chất sống, tồn tại trong tự nhiên (sinh quyển) với tư cách là những cơ thể hoàn chỉnh. Từ đó có thể đưa ra định nghĩa nữa về sinh thái học; đó là khoa học nghiên cứu mối quan hệ qua lại và sự tác động lẫn nhau giữa con người (xã hội loài người) với sinh quyển. Điều này có nghĩa là, sinh thái học tiến từ nghiên cứu mối quan hệ “cơ thể - môi trường” sang nghiên cứu mối quan hệ “con người - tự nhiên”, “xã hội - sinh quyển”; mở rộng lĩnh vực nghiên cứu ra ngoài phạm vi môn sinh vật học thuần túy; tiếp cận với những vấn đề triết học. Thứ ba, sinh thái là tập hợp toàn bộ những vấn đề có liên quan đến sự tác động qua lại giữa sinh thể với những điều kiện sống của môi trường xung quanh. Sinh thái nhân văn (hay sinh thái xã hội) bao gồm trong nó tất cả các vấn đề có liên quan đến mối quan hệ qua lại và sự tác động lẫn nhau giữa xã hội (với tư cách một hệ thống vật chất sống) và con người (với tư cách là một Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016 22 thực thể sinh học - xã hội - văn hóa) với môi trường xung quanh, trước hết là với sinh quyển. Thứ tư, MTST là tổ hợp của tất cả các cơ thể sống trong sự tương tác qua lại với những điều kiện tự nhiên vốn có như ánh sáng, nước, không khí, đất đá, khí hậu. Tổ hợp đó nếu có cả con người và xã hội loài người thì được gọi là MTSTNV hay môi trường sinh thái xã hội. MTST là đối tượng nghiên cứu của sinh thái học, còn MTSTNV là đối tượng nghiên cứu của một bộ môn khoa học mới, được hình thành trên điểm giáp ranh của nhiều khoa học, đó là sinh thái học nhân văn hay sinh thái học xã hội. Thứ năm, STHNV nằm trên điểm giáp ranh giữa các khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội. Bản chất của nó nằm ngay trong lĩnh vực tác động qua lại giữa xã hội và tự nhiên, giữa con người và sinh quyển. STHNV hay STHXH là khoa học nghiên cứu mối quan hệ qua lại và sự tác động lẫn nhau giữa “con người - tự nhiên”, “xã hội - sinh quyển”, cụ thể là nghiên cứu những quy luật hoạt động của sinh quyển và sự vận dụng một cách có ý thức của con người những quy luật sinh thái học đó vào hoạt động thực tiễn, nhằm đảm bảo những điều kiện tự nhiên cần thiết cho sự tồn tại và phát triển bền vững của xã hội. Nói cách khác, STHNV là khoa học nghiên cứu những phương pháp, cách tổ chức hoạt động của con người trong lĩnh vực quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau giữa con người và tự nhiên, dựa trên cơ sở những yêu cầu khách quan của các quy luật sinh thái học, nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển hài hòa và bền vững giữa xã hội và tự nhiên. Thứ sáu, văn hóa sinh thái nhân văn (VHSTNV) bao gồm hai thành tố: văn hóa và sinh thái nhân văn. Có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa, nhưng cái cốt lõi chung của văn hóa là tri thức, chuẩn mực và giá trị. VHSTNV là tổng hợp những tri thức, những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tương tác với thiên nhiên, được lưu giữ và truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác, được đúc kết thành những hệ thống chuẩn mực xã hội bền vững (thuận theo, nương nhờ hay tận dụng thiên nhiên và ứng phó với thiên tai), nhằm tạo ra cho mình một môi trường sống phù hợp hơn, tốt hơn và đẹp hơn (chân, thiện, mỹ). Đối tượng nghiên cứu của VHSTNVcũng chính là đối tượng nghiên cứu của STHNV là MTSTNV, tức là môi trường của mối quan hệ qua lại và sự tác động lẫn nhau giữa con người và xã hội với tự nhiên, trong đó, con người với tư cách là một thực thể sinh học - xã hội - văn hóa. 5. Một số quan điểm về STHNV, STNV và MTSTNV Thứ nhất, những tiền đề hình thành STHNV là nhu cầu cấp thiết của thực tiễn bảo vệ môi trường sinh thái vì sự phát triển bền vững, khi mà các nguồn tài nguyên thiên nhiên đã bị khai thác cạn kiệt và môi trường sống đã bị ô nhiễm nặng nề; nhu cầu xem xét và định đoạt số phận của con người và xã hội trong những điều kiện phát triển mới; nhu cầu nắm bắt và vận dụng một cách hợp lý các quy luật của tự nhiên vào hoạt động thực tiễn, trước hết là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất nhằm mang lại hiệu quả kinh tế và sinh thái cao; tri thức khoa học của thời đại đã phát triển đến trình độ cao. Trong STHNV, con người trở thành đối tượng nghiên cứu trực tiếp. Sự hình thành STHNV là một trong những hướng phát triển của tri thức nhân loại đã đạt đến mức, như tiên đoán của C.Mác, khi con người đã trở thành “đối tượng trực tiếp của Phạm Thị Ngọc Trầm 23 khoa học tự nhiên”; còn “đối tượng của khoa học tự nhiên - giới tự nhiên” trở thành “đối tượng trực tiếp của khoa học về con người”; tất cả sẽ trở thành một khoa học. Chính sự xích lại gần nhau giữa các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội nhân văn và khoa học kỹ thuật - công nghệ trong sinh thái học hiện đại đã dẫn đến sự hình thành STHNV hay STHXH. Thứ hai, nguồn gốc của STNV là sự lãng quên mục tiêu sinh thái trong sản xuất xã hội. Thông qua quá trình lao động sản xuất, con người tạo ra nhiều tạo phẩm văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần có giá trị, làm cho môi trường tự nhiên - người hóa đó ngày càng phát triển phong phú, đa dạng về mặt hình thức lẫn nội dung, ngày càng khác xa so với môi trường tự nhiên thuần túy. Với quan điểm lấy con người làm trung tâm của vũ trụ, của mọi sự phát triển, được hình thành trong triết học Tây Âu vào thế kỷ XVII - XVIII, con người đã tập trung mọi hoạt động của xã hội vào việc thỏa mãn các nhu cầu sống của riêng mình. Điều này được biểu hiện rõ ràng nhất ở chỗ, trong quá trình sản xuất sự ưu tiên dành cho các mục tiêu kinh tế, còn mục tiêu sinh thái hầu như đã bị con người hoàn toàn lãng quên và đó chính là khởi nguồn cho những hậu quả tiêu cực mà con người đã mang lại cho môi trường tự nhiên. Thứ ba, bản chất của STNV là sự phản ánh những mâu thuẫn xuất hiện trong quá trình tác động qua lại giữa con người và xã hội với sinh quyển (tự nhiên). Xét về mặt cấu trúc lẫn chức năng và về thực chất, con người và xã hội không có gì mâu thuẫn với tự nhiên. Mâu thuẫn chỉ xuất hiện trong quá trình con người tiến hành cải tạo, biến đổi giới tự nhiên bằng lao động sản xuất. Quá trình này bị chi phối bởi cả hai mối quan hệ: giữa con người với tự nhiên và mối quan hệ giữa con người với con người. Do vậy, bản chất của STNV không thể chỉ quy về những mâu thuẫn của quá trình trao đổi chất giữa con người (xã hội) và tự nhiên, được thể hiện cụ thể ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mà còn phải tính đến cả những mâu thuẫn giữa con người với con người và những mâu thuẫn nảy sinh bên trong sự phát triển xã hội. Có ba loại mâu thuẫn cơ bản phản ánh bản chất của STNV. Một là mâu thuẫn giữa sinh thái với xã hội. Xã hội càng phát triển, càng hiện đại, thì tự nhiên càng bị phá hoại, càng trở nên nghèo hơn. Vì lợi ích trước mắt của mình và sự tồn tại phát triển của xã hội, con người đã sử dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ như một phương tiện hữu hiệu để khai thác, bóc lột tự nhiên, bất chấp những quy luật tồn tại và phát triển của nó. Hậu quả nguy hiểm nhất của quá trình này là phá hoại cơ chế hoạt động bình thường của chu trình sinh học trong sinh quyển (làm mất các khả năng tự tổ chức, tự điều chỉnh, tự làm sạch, tự bảo vệ, tự cân bằng của nó) - một cơ chế bảo đảm sự thống nhất, tính toàn vẹn của hệ thống con người - xã hội - tự nhiên. Việc giải quyết mâu thuẫn này sẽ đụng chạm đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, luật pháp đến kinh tế, đạo đức, lối sống. Hai là mâu thuẫn giữa sự tăng cường mở rộng sản xuất (tập trung các phương tiện kỹ thuật, công nghệ cho sản xuất) với những kết quả cụ thể mà nó đạt được. Nếu không đạt được kết quả mong muốn, thì nhìn chung, không nâng cao được hiệu quả kinh tế, ngược lại, nếu hiệu quả kinh tế được nâng lên thì thường hay kèm theo những hậu quả tiêu cực, trước tiên là về mặt sinh thái, ảnh hưởng xấu đến đời sống của con người, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016 24 mặc dù xã hội đã bỏ ra những khoản đầu tư rất lớn. Việc tìm kiếm con đường để giải quyết mâu thuẫn này cũng chính là quá trình tìm kiếm các cách thức kết hợp mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái trong nền sản xuất xã hội. Ba là mâu thuẫn giữa kinh tế với sinh thái, mâu thuẫn này xuất hiện trong quá trình con người tìm cách sửa chữa những sai lầm trong hoạt động kinh tế của mình trước đây, đã từng gây nên những hậu quả tiêu cực cho tự nhiên. Việc sử dụng những biện pháp sinh thái, trước mắt thường làm giảm hiệu quả kinh tế của sản xuất, nhưng trên bình diện rộng và lâu dài là vô cùng cần thiết. Bởi vì, trước hết, con người là một sinh thể, nên không thể sống thiếu được các điều kiện tự nhiên tối cần thiết như nước sạch, không khí trong lành, ánh sáng Mặt Trời, sau đó mới tính đến nhu cầu của một thực thể xã hội - văn hóa như các tiện nghi, các điều kiện sinh hoạt văn hóa tinh thần... Việc điều hòa mâu thuẫn này là vô cùng cần thiết để con người có thể tiếp tục tồn tại và xã hội mới có thể phát triển bền vững. Trong quá trình hoạt động sống, con người luôn đối mặt với những mâu thuẫn đó và thường xuyên giải quyết chúng để tồn tại và phát triển xã hội. 6. Một số vấn đề cơ bản của MTSTNV ở Việt Nam Một là, STNV trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Đây là những vấn đề nảy sinh trực tiếp từ trong quá trình sản xuất xã hội, nhất là tình trạng khan hiếm và cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên (TNTN) và nạn ô nhiễm nặng nề môi trường sống đã lên đến mức báo động, đặc biệt là cạn kiệt rừng, đất đai, nước ngọt và sạch, tài nguyên khoáng sản, đa dạng sinh học; nạn ô nhiễm (ô nhiễm môi trường nước là nguy hiểm và nghiêm trọng nhất, ô nhiễm không khí và chất thải rắn từ quá trình chế biến tài nguyên khoáng sản, từ sản xuất và tiêu dùng). Hai là, STNV trong mối quan hệ giữa con người với con người (ô nhiễm môi trường xã hội, các tệ nạn xã hội; vệ sinh an toàn lương thực, thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm; đói nghèo và xóa đói giảm nghèo). Đây là một trong những vấn đề STNV cấp bách ở Việt Nam. Đói nghèo cùng với sự kém hiểu biết và sự thiếu công bằng và bình đẳng trong việc hưởng thụ các nguồn TNTN của dân cư ở các vùng giàu TNTN (thường là ở vùng rừng núi, vùng sâu, vùng xa,...) là nguyên nhân trực tiếp của việc khai thác và sử dụng bừa bãi, lãng phí các nguồn TNTN (rừng, các loại khoáng sản), để mưu sinh vì cuộc sống của họ gắn bó chặt chẽ và phụ thuộc trực tiếp vào thiên nhiên. Do đó, nghèo đói và việc xóa đói giảm nghèo không chỉ là vấn đề xã hội, mà thực chất cũng là một vấn đề STNV cấp thiết, cần được quan tâm giải quyết. Ba là, STNV trong lĩnh vực hoạt động văn hóa tinh thần hay vấn đề VHSTNV. Đó là ý thức sinh thái, đạo đức sinh thái, lối sống văn hóa sinh thái. Một trong những vấn đề VHSTNV gay cấn và bức xúc nhất ở nước ta hiện nay là sự nhận thức về môi trường và bảo vệ môi trường (MTST và MTSTNV) của người dân, thậm chí cả những người quản lý xã hội ở các cấp đều còn thấp. Nói chính xác hơn là ý thức sinh thái và lối tư duy sinh thái của người Việt Nam cho đến nay chủ yếu vẫn còn ở trình độ thấp, trình độ của người sản xuất nhỏ, canh tác cây lúa nước (tiểu nông) đang phổ biến trong toàn xã hội. Đây là thực trạng và đồng thời cũng là nguyên nhân quan trọng đưa đến những hậu quả tiêu cực cho MTST ở Việt Nam hiện nay. Ý thức sinh thái (YTST) được hiểu là Phạm Thị Ngọc Trầm 25 những quan điểm, quan niệm của con về MTST (về cấu trúc, chức năng, các thành phần cấu thành, các quy luật tồn tại và phát triển của nó...); về các quy luật của mối quan hệ, và sự tương tác qua lại giữa con người và xã hội với tự nhiên; về tình cảm, thái độ và trách nhiệm của con người trong việc nghiên cứu, giải quyết các vấn đề sinh thái và môi trường, nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững của xã hội. Ba mục tiêu này của YTST gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại và quy định lẫn nhau. YTST cũng có đầy đủ các khía cạnh (các hình thái) như ý thức xã hội, nhưng chỉ ứng dụng cụ thể trong lĩnh vực mối quan hệ giữa con người và xã hội với tự nhiên, đó là các khía cạnh chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, văn hóa. Con người là một thực thể sinh học - xã hội - văn hóa, tồn tại và hoạt động trong MTVHSTNV. Sống trong môi trường này con người đồng thời phải chịu sự ràng buộc, quy định của ba mối quan hệ chính: giữa con người với tự nhiên; giữa con người với xã hội giữa người với người. Đạo đức sinh thái (ĐĐST) giữ vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn, điều chỉnh các mối quan hệ đó của con người. Đạo đức sinh thái bao gồm một hệ thống các quan điểm, tư tưởng, tình cảm, các nguyên tắc, những chuẩn mực... quy định điều chỉnh hành vi của con người trong quá trình tác động, biến đổi, cải tạo tự nhiên, nhằm phục vụ cho đời sống của con người, cho sự tồn tại và phát triển không ngừng của xã hội, trong những điều kiện của môi trường VHSTNV nhất định. ĐĐST cũng như đạo đức xã hội nói chung gồm có ba thành tố chủ yếu: ý thức ĐĐST (lý tưởng, quan niệm, tư tưởng, tình cảm... của con người); quan hệ ĐĐST (quan hệ lợi ích trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên); thực tiễn ĐĐST (được thể hiện ở hành vi ĐĐST). Lối sống VHST được thể hiện ở tình yêu thiên nhiên, cách ứng xử có văn hóa của con người với thiên nhiên, linh hoạt và phù hợp (thuận theo, thích nghi, tận dụng thiên nhiên và ứng phó kịp thời với thiên tai...), nhất là trong điều kiện BĐKH hiện nay. Bốn là, hệ giá trị VHSTNV truyền thống Việt Nam. Đó là: triết lý sống hòa hợp và yêu thiên nhiên, một triết lý đã luôn đồng hành cùng với nền văn minh lúa nước; phương pháp tư duy tổng hợp và biện chứng dựa trên cơ sở những tri thức kinh nghiệm; tinh thần yêu nước và ý thức cộng đồng dân tộc cao; tinh thần nhân văn cao cả, lối sống trọng tình cảm, khoan dung; yêu lao động, biết quý trọng sức lao động và những thành quả của lao động, lối sống cần cù, giản dị, thanh đạm, tiết kiệm. Năm là, chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam. Là một thành viên của mái nhà chung Trái Đất, để tồn tại và phát triển, Việt Nam không thể không tham gia vào Chiến lược phát triển bền vững do Liên Hợp Quốc đề ra, với ba mục tiêu: về kinh tế, phải tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng an toàn; về xã hội - nhân văn, phải không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người; thực hiện dân chủ, công bằng và bình đẳng xã hội; bảo đảm các chỉ số phát triển con người (HDI) với các số đo về hệ số bình đẳng thu nhập, các tiêu chí về giáo dục, dịch vụ y tế, tuổi thọ, về hoạt động văn hóa; về sinh thái - môi trường, phải bảo vệ và không ngừng cải thiện chất lượng môi trường sống; khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm các chức năng của môi trường sinh thái... Ba mục tiêu này đã được đưa ra trong Chương trình nghị sự thế kỷ XXI tại Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về Môi trường và Phát triển ở Rio de Jannero (Brazin, 1992) và đã được Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016 26 Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về phát triển bền vững năm 2002 tại Nam Phi coi là ba trụ cột của phát triển bền vững. Căn cứ vào tình hình cụ thể của nước ta. Việt Nam cũng đã xây dựng Chương trình nghị sự thế kỷ XXI và đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào năm 2004. Sáu là, biến đổi khí hậu toàn cầu. Theo Công ước khung của Liên Hợp Quốc về BĐKH thì BĐKH là những ảnh hưởng có hại của sự thay đổi khí hậu, là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây nên những hậu quả tiêu cực đáng kể đến thành phần, chất lượng, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên và đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội, đến sức khỏe và hạnh phúc của con người. Báo cáo lần thứ tư của Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH năm 2007 đã đánh giá cho thấy hơn 90% tác nhân gây ra BĐKH ngày nay là do hoạt động của con người; 3/4 lượng CO2 phát thải vào khí quyển là do con người đã sử dụng quá nhiều nhiên liệu hóa thạch, phần còn lại là do chặt phá rừng bừa bãi, do cháy rừng... Trên thực tế, con người đã nhìn thấy tính chất nguy hiểm, cấp bách của vấn đề BĐKH, điều này đã được thể hiện rõ qua nhiều Văn kiện của Liên Hợp Quốc về Môi trường và Phát triển, đặc biệt là Nghị định thư Kyoto và các Bản Tuyên bố của các Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về BĐKH (COP. 12,13,14...19, và 20 ở lại Lima (Pê ru) năm 2014). Việt Nam đã tích cực tham gia các Hội nghị này. Là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH toàn cầu, Việt Nam luôn ưu tiên đẩy mạnh các hoạt động đối phó và thích ứng với BĐKH, như đặt ra mục giảm cường độ phát thải khí nhà kính từ 8 - 10% so với 2010, giảm lượng tiêu hao năng lượng tính trên GDP từ 1 - 1,5%/năm... nâng cao nhận thức cho con người về môi trường và bảo vệ môi trường, về BĐKH, tiến tới xây dựng nền kinh tế xanh. 7. Kết luận Trên đây là những nội dung và kết quả nghiên cứu chính ở Việt Nam trong hơn 45 năm qua về môi trường từ góc độ triết học - xã hội. Những kết quả nghiên cứu này cùng với những kết quả nghiên cứu từ các góc độ khác đã góp phần nâng cao nhận thức của con người Việt Nam về môi trường sinh thái. Tài liệu tham khảo [1] Trần Lê Bảo (Chủ biên), Nguyễn Xuân Kính, Vũ Minh Tâm, Phạm Thị Ngọc Trầm (2001), Văn hóa sinh thái nhân văn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. [2] Nguyễn Viết Chức (2002), Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên thiên, Nxb Văn hóa - Thông Tin, Hà Nội. [3] V.I.Lênin (1979), Toàn tập, t.15, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. [4] C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, t.20, 23, 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [5] Hà Huy Thành (2001), Một số vấn đề Xã hội và Nhân Văn trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [6] Phạm Thị Ngọc Trầm (1997), Môi trường sinh thái: vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [7] Phạm Thị Ngọc Trầm (2003), Khoa học Công nghệ với sự nhận thức, biến đổi Thế giới và Con người, Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. [8] Phạm Thị Ngọc Trầm (Chủ biên) (2006), Quản lý Nhà nước đối với Tài nguyên và Môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội nhân văn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phạm Thị Ngọc Trầm 27
File đính kèm:
- nghien_cuu_triet_hoc_xa_hoi_ve_moi_truong_sinh_thai_o_viet_n.pdf