Nhiệm vụ trung ương giao lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - Tập II - Nguyễn Trọng Phúc
Tóm tắt Nhiệm vụ trung ương giao lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - Tập II - Nguyễn Trọng Phúc: ... với tính chất một đảng cầm quyền, có hai nhiệm vụ chiến lược. Dự thảo Điều lệ bổ sung một số điểm mới rất quan trọng trong tiêu chuẩn đảng viên, đảng viên phải là người "có lao động, không bóc lột", "gương mẫu chấp hành kỷ luật của Nhà nước", "ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối c... 212 giống, chuồng trại chăn nuôi, làm sân phơi, xây nhà kho và thực hiện các biện pháp kỹ thuật trong trồng trọt và chăn nuôi... ngày càng trở thành phong trào rộng rãi của quần chúng. Qua cuộc vận động, các hợp tác xã nông nghiệp từng bước được củng cố. Quy mô hợp tác xã được mở rộng hơn....vào việc nâng cao chất lượng, tăng cường mối quan hệ với các tạp chí Tuyên huấn và Xây dựng Đảng. Công tác thông tin còn hướng tới việc nâng cao tính quần chúng thông qua hình thức quần chúng giáo dục quần chúng. Từ kinh nghiệm của phong trào Hai giỏi ở Quảng Bình và cuộc vận động Báo công ở...
i đáp ứng lập trường 4 điểm của Việt Nam Dân chủ cộng hoà và lập trường 5 điểm của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Phái đoàn ta kiên quyết bác bỏ những yêu sách vô lý của đế quốc Mỹ đòi Việt Nam Dân chủ cộng hoà phải chấp nhận những điều kiện của chúng đưa ra khi chúng ngừng ném bom miền Bắc, đòi Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Mỹ cùng rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Trước những quan điểm đúng đắn, thái độ kiên quyết của phái đoàn ta, trước chiều hướng phát triển chung của chiến trường và tình hình nội bộ nước Mỹ trước ngày bầu cử tổng thống, đế quốc Mỹ phải từng bước thay đổi yêu cầu từ đòi “có đi có lại” đến “cho biết điều gì sẽ xảy ra sau khi chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam” . Đến giữa tháng 10-1968, đế quốc Mỹ ngừng yêu sách về quân sự như cùng xuống thang, cùng rút quân khỏi miền Nam Việt Nam và yêu cầu phía ta chấp nhận đại diện chính quyền Sài Gòn tham gia đàm phán, coi đó là yếu tố quan trọng thuận lợi cho việc Mỹ tạm ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam. Để thúc đẩy cuộc đàm phán phát triển theo hướng đạt tới mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định, những ngày cuối tháng 10, phái đoàn ta chính thức thông báo cho phía Mỹ biết ta đồng ý cho đại diện chính quyền Sài Gòn tham gia đàm phán sau khi Mỹ chấm dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc, đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải đàm phán với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, tán thành trung lập miền Nam và thành lập Chính phủ liên hiệp. Sau bốn năm tiến hành chiến tranh đẫm máu ở miền Nam, Bắc và sau 415 năm tháng Hội nghị Pari bế tắc, ngày 1-11-1968, Giônxơn xuất hiện trên vô tuyến truyền hình liên bang, tuyên bố chấm dứt hoàn toàn việc ném bom, bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác chống Việt Nam Dân chủ cộng hoà, chấp nhận họp Hội nghị Pari để giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam, thừa nhận đại diện chính thức của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong hội nghị. Quyết định đó chứng tỏ sự thất bại không sao cưỡng lại được của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, “đánh dấu một thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam ở cả hai miền. Đó cũng là thắng lợi to lớn củat phe xã hội chủ nghĩa, của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào hoà bình, một thắng lợi của nhân dân toàn thế giới trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ” 1. Ngày 3-11-1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi cả nước tiến lên đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Lời kêu gọi có đoạn: “Đế quốc Mỹ tưởng lầm với sức tàn phá dã man của bom đạn, chúng có thể làm suy yếu miền Bắc, ngăn chặn sự ủng hộ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn và làm giảm sút sức chiến đấu của miền Nam”. Người nhấn mạnh: “Sự thật là, càng chiến đấu chống giặc Mỹ, miền Bắc càng vững mạnh về mọi mặt và luôn luôn hết lòng hết sức ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của đồng bào miền Nam anh hùng. Càng chiến đấu chống giặc Mỹ, đồng bào miền Nam càng đoàn kết chặt chẽ, sức càng mạnh, thắng càng to” 2. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Chúng ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc. Song đó mới chỉ là thắng lợi bước đầu. Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và xảo quyệt Chúng nói “hoà bình”, “thương lượng” nhưng vẫn chưa chịu từ bỏ dã tâm xâm lược của chúng”Vì vậy, nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải năng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó điChúng ta tin rằng: sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta ngày càng được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ to lớn của nhân dân các nước anh em và nhân dân toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ”. Lời kêu gọi của Người còn khẳng định: 1 Tuyên bố ngày 2-11-1968 của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. 2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb CTQG, H, 2002, tr. 406. 416 “Chúng ta kiên quyết đòi: Chính phủ Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam. Phải vĩnh viễn từ bỏ mọi hành động xâm phạm chủ quyền và an ninh của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Phải rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam. Công việc nội bộ của miền Nam phải do nhân dân miền Nam tự giải quyết theo Cương lĩnh chính trị của Mặt trận dân tôc giải phóng, nước ngoài không được can thiệp vào. Công việc thống nhất nước Việt Nam phải do nhân dân hai miền Nam, Bắc tự giải quyết, nước ngoài không được can thiệp vào. Đồng bào và chiến sĩ yêu quý, trước mắt chúng ta còn nhiều gian khổ hy sinh, nhưng sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của nhân dân ta đang tiến mạnh đến ngày thắng lợi. Tổ quốc đang kêu gọi chúng ta hăng hái tiến lên đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược!” 1. Chủ trương của Đảng tại Hội nghị bốn bên ở Pari: ép Hoa Kỳ xuống thang chiến tranh, rút dần quân khỏi miền Nam Việt Nam. Ngày 3-11-1968, đại diện Mỹ gặp đại diện Việt Nam Dân chủ cộng hoà đề nghị bắt đầu cuộc họp trù bị từ ngày 6-11-1968. Từ ngày 2-11-1968, một đoàn tiền trạm của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam do bà Nguyễn Thị Bình, Uỷ viên Đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam làm trưởng đoàn, đến Pari. Trong khi đó chính quyền Sài Gòn chần chừ và ngày 2-11-1968, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố không cử người đi dự Hội nghị Pari vì quyết định chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam là hành động đơn phương của Mỹ. Tuy vậy, dưới sức ép của dư luận, ngày 8-12, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vẫn phải cử một phái đoàn do Phạm Đăng Lâm- đại sứ Việt Nam Cộng hoà tại Pari dẫn đầu và Nguyễn Cao Kỳ, Phó Tổng thống làm cố vấn đến Pari. Ngày 10-12-1968, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam quyết định cử đoàn đại biểu chính thức của Mặt trận do ông Trần Bửu Kiếm, Uỷ viên đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận làm trưởng đoàn, bà 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Sđd, tr. 407- 408 417 Nguyễn Thị Bình và ông Trần Hoài Nam làm phó trưởng đoàn sang tham dự Hội nghị Pari. Tiến trình đến đây tưởng đã ổn, nhưng lại nảy sinh vấn đề về hình dáng bàn họp và chỗ ngồi của các đoàn. Về vấn đề tên gọi hội nghị là bốn bên hay hai phía, hai bên đã thoả thuận mỗi bên gọi theo cách của mình. Về bàn họp, hai bên đưa ra hàng chục cách xếp, trước sau vẫn là theo hai phíá hay bốn đoàn. Chỉ có thế thôi mà vấn đề kéo dài suốt 2 tháng cuối năm 1968 mặc dầu nhà đương cục Pháp và đại diện Liên Xô phải can thiệp để quan điểm của các bên xích lại gần nhau. Cuối cùng, các đoàn nhận kiểu bàn tròn liền, không có giải phân cách, hai bàn thư ký tách khỏi bàn họp: không có cờ, không có biển. Về thứ tự phát biểu, Đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hoà chủ động nhường cho Hoa Kỳ phát biểu trước nhưng nói thêm rằng điều đó không có nghĩa là chấp nhận quan điểm hai phía. Về ngày họp, hai bên đã đồng ý bắt đầu ngày 18-1-1969, nhưng đoàn chính thức của Sài Gòn đến chậm.. Đây là thủ đoạn của Nguyễn Văn Thiệu cố tình kéo dài việc cử đoàn chính thức đến Pari để Giônxơn rời Nhà Trắng mà vẫn không được biết hội nghị khai mạc. Ngày 14-1, trong lúc chưa bàn xong vấn đề bàn họp, theo gợi ý của phía Mỹ, Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ gặp Harriman. Harriman thông báo trưởng đoàn Mỹ là Cabot Lodge – người bạn cũ của Tổng thống Nixon; ông Walsh – một luật gia có tên tuổi làm phó trưởng đoàn. Harriman nêu ý kiến thăm dò, ông ta cho rằng làm sao xuống thang chiến sự, tôn trọng khu phi quân sự, cùng rút quân khỏi miền Nam Việt Nam; về chính trị, người Việt Nam phải ngồi nói chuyện với nhau để tìm ra giải pháp. Đồng chí Lê Đức Thọ cho rằng khó khăn là do tập đoàn Thiệu-Kỳ- Hương không muốn giải quyết vấn đề, do đó ngồi vào với nhau cũng khó giải quyết. Việc cử Nguyễn Cao Kỳ làm cố vấn cho đoàn Sài Gòn là điều không hay. Tình hình có thể phát triển theo ba khả năng: Khả năng thứ nhất là đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hoà và đoàn Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam nghiêm chỉnh và có thiện chí, chính quyền mới ở Mỹ và đoàn đại biểu mới của Mỹ ở Pari cũng nghiêm chỉnh và có thiện 418 chí thì có thể tiến lên giải quyết vấn đề. Khả năng thứ hai là Mỹ dùng thế mạnh để ép Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Mặt trận dân tộc giải phóng và không coi trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam thì khó có thể giải quyết vấn đề, cuộc đàm phán sẽ kéo dài. Khả năng thứ ba là Mỹ không muốn giải quyết mà muốn tiếp tục đánh thì Việt Nam cũng sẵn sàng chiến đấu. Harriman nói có thể gạt khả năng thứ ba, còn Nixon và Cabot Lodge sẽ nhìn vấn đề theo khả năng thứ nhất và thứ hai. Lúc 10 giờ 30, ngày 25-1-1969, Hội nghị đàm phán bốn bên về vấn đề Việt Nam long trọng khai mạc. Trong phiên họp đầu tiên, Trần Bửu Kiếm- Trưởng đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam phát biểu đầu tiên, vạch rõ nguồn gốc của tình hình miền Nam Việt Nam, lên án Mỹ xâm lược, vạch tội chhính quyền Sài Gòn, nêu cao chính nghĩa của Mặt trận và khẳng định lại các nội dung nêu trong Tuyên bố năm điểm của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 3- 11 -1968. Suốt mấy tháng, hội nghị không tiến triển. Để phá vỡ bế tắc và mở cuộc tấn công mới, trong phiên họp ngày 8-5-1969, Trần Bửu Kiếm đưa ra một đề nghị hoà bình, gọi là Giải pháp toàn bộ mười điểm về vấn đề miền Nam Việt Nam: 1. Tôn trọng các quyền dân tộc của nhân dân Việt Nam . 2. Rút hết quân Mỹ, nhân viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và các nước phe Mỹ, huỷ bỏ các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam. 3. Vấn đề các lực lượng vũ trang ở miền Nam Việt Nam do các bên Việt Nam cùng giải quyết. 4. Nhân dân miền Nam Việt Nam giải quyết công việc nội bộ của mình không, không có sự can thiệp của nước ngoài, bầu ra quốc hội lập hiến, xây dựng hiến pháp, thành lập chính phủ liên hiệp. 5. Thành lập chính phủ liên hiệp lâm thời trên nguyên tắc bình đẳng, 419 dân chủ và tôn trọng lẫn nhau nhằm thực hiện một miền Nam Việt Nam hoà bình, độc lập, dân chủ, trung lập. 6. Miền Nam Việt Nam thực hiện chính sách ngoại giao hoà bình, trung lập, thực hiện chính sách láng giềng tốt với Campuchia và Lào, lập quan hệ với tất cả các nước. 7. Thực hiện từng bước thống nhất nước Việt Nam bằng phương pháp hoà bình trên cơ sở bàn bạc giữa hai miền; trong khi chờ đợi thực hiện hoà bình thống nhất nước Việt Nam, lập lại quan hệ bình thường về mọi mặt giữa hai miền. 8. Hai miền Nam - Bắc, trong khi chờ thống nhất, cam kết không tham gia liên minh quân sự nào, kông cho phép nước ngoài có căn cứ quân sự, quân đội và nhân viên quân sự trên đất mình. 9. Giải quyết những hậu quả của chiến tranh: vấn đề tù binh, vấn đề thiệt hại về chiến tranh ở Việt Nam. 10. Thoả thuận về sự giám sát quốc tế đối với việc rút vũ khí và dụng cụ chiến tranh. Trên cơ sở những nguyên tắc và nội dung trên đây, các bên sẽ đi đến ký kết các hiệp định để chấm dứt chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, góp phần lập lại hoà bình ở Việt Nam1. * * * Thắng lợi của nhân dân ta làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đại hội lần thứ IV của Đảng nhận định, thắng lợi này đã làm “đảo lộn thế chiến lược của địch, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào đàm phán với ta tại Hội nghị Pari”2. Thực tế lịch sử ghi nhận, kể từ thất bại Mậu Thân (1968), Mỹ buộc phải 1 . Hồ sơ lưu trữ của Bộ Ngoại giao. 2 . Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV: Sách đã dẫn, tr. 17-18 420 chấp nhận xu thế không thể đảo ngược: rút quân Mỹ về nước. Dù Nichxơn và Pho có tìm mưu kiếm kế kéo dài chiến tranh thêm bảy năm nữa (1969-1975) mới chịu thua hoàn toàn, nhưng nếu không có thắng lợi của những năm 1965- 1968 thì không thể có thắng lợi của thời kỳ sau buộc Nichxơn phải ký kết hiệp định rút hết quân Mỹ về nước, cam kết chấm dứt mọi dính líu quân sự, tạo tiền đề cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam. Làm nên thắng lợi đó, nhân dân ta phải trải qua bốn năm thử thách ác liệt, hy sinh không nhỏ, cố gắng phi thường, vượt lên mọi khó khăn. Đáp ứng nhu cầu lịch sử nóng bỏng của đất nước, Đảng ta đã trả lời được câu hỏi “có đánh thắng được quân Mỹ không?”. Thực tế đã chứng minh, chúng ta nhất định đánh thắng được quân đội xâm lược Mỹ và đã tìm ra cách thắng chúng. 1. Quyết tâm đánh thắng đế quốc Mỹ của Đảng đã biến thành quyết tâm của nhân dân cả nước, đã trở thành hiện thực lịch sử, dựa trên cơ sở biết phát hiện và phân tích mâu thuẫn của Mỹ. Chỗ mạnh của Mỹ là lực lượng chiến tranh khổng lồ hơn 600.000 quân Mỹ và chư hầu cộng với hơn 1.000.000 quân nguỵ, với cơ sở vật chất và phương tiện chiến tranh chưa từng có trong lịch sử chiến tranh xâm lược của Mỹ. Chỗ mạnh ấy gây ra nhiều khó khăn cho nhân dân ta, làm cho cuộc kháng chiến thêm gian khổ và kéo dài. Nhưng do tiến hành một cuộc chiến tranh phi nghĩa, Mỹ đã vấp phải nhiều mâu thuẫn, làm cho chúng không phát huy được sức mạnh. Trước hết, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn xâm lược và bè lũ tay sai; mâu thuẫn giữa mong muốn tập trung binh lực để đối phó với chủ lực đối phương và thực tế phải phân tán binh lực để đối phó với chiến tranh nhân dân; mâu thuẫn giữa việc Mỹ dựa vào quân đội nguỵ và muốn nó trở thành một lực lượng tác chiến quan trọng với thực trạng nó đang rệu rã vì thất trận trong “chiến tranh đặc biệt”; mâu thuẫn giữa chiến lược thực dân mới với việc phải dùng lại con bài thực dân cũ là quân đội viễn chinh Mỹ; mâu thuẫn giữa chiến lược, chiến thuật và toàn bộ bài bản chiến tranh quy ước của Mỹ với thực tế chiến trường Việt Nam; mâu thuẫn giữa Mỹ và chính quyền nguỵ; mâu thuẫn giữa tiến hành chiến tranh giành quyền bá chủ thế giới và chính sách mị dân “vừa bơ vừa súng” của chính quyền Giôxơn; mâu thuẫn giữa ý đồ lợi dụng bất đồng 421 Xô-Trung, hòng gây sức ép và cô lập Việt Nam với Mặt trận thống nhất quốc tế ủng hộ Việt Nam ngày càng mở rộng. Muốn lợi dụng triệt để những mâu thuẫn ấy, Đảng lãnh đạo phải bám sát thực tiễn, phát hiện kịp thời các mâu thuẫn, tìm ra quy luật chiến tranh, quy luật đánh Mỹ và thắng Mỹ, từ đó mới có đường lối, chủ trương đúng đắn, tổ chức thực hiện sắc bén, tạo ra lực lượng mạnh và có quyết tâm cao. 2. Cách đánh Mỹ và thắng Mỹ của ta là sự phát triển lên trình độ cao những kinh nghiệm của chiến tranh nhân dân chống Pháp cùng những kinh nghiệm mới của những năm đầu đánh Mỹ. Đó là kinh nghiệm bố trí thế trận chủ động tiến công, ba thứ quân phát triển đều khắp, triển khai hợp lý trên các chiến trường, kể cả nơi xung yếu; không cho địch đánh theo sở trường của chúng, buộc địch đánh theo cách ta lựa chọn, bí mật, bất ngờ đánh vào chỗ yếu, chỗ hiểm của địch; đánh giao thông, đánh ở các vành đai diệt Mỹ, đánh hậu cần, lực lượng dự trữ và sở chỉ huy ; lấy cái mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân phối hợp quân sự, chính trị, binh vận, ngoại giao... làm cho quân Mỹ - nguỵ đông mà không mạnh, mạnh mà thành yếu, bị những đòn tiến công liên tiếp đi đến phải lui quân. Cuộc đấu tranh ngoại giao với Mỹ được mở ra theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 13 của Trung ương Đảng là một đòn tiến công lợi hại, hỗ trợ cho đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận, mở đường cho Mỹ xuống thang chiến tranh, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới và loài người tiến bộ. 3. Chiến đấu chống tên đế quốc đầu sỏ của chủ nghĩa đế quốc thế giới, quy luật tất yếu là phải chiến đấu lâu dài gian khổ. Nhưng để đi đến thắng lợi cuối cùng, phải biết tạo ra thắng lợi từng bước, phù hợp với lực lượng so sánh cụ thể cho phép, chuẩn bị điều kiện cho bước phát triển tiếp theo. Kinh nghiệm lớn của thời kỳ 1965-1968 chỉ rõ, kiềm chế địch và buộc địch phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt ném bom miền Bắc, chịu “phi Mỹ hoá chiến tranh”, là mục tiêu thích hợp với lực lượng so sánh ta - địch. Mục tiêu giải phóng hoàn toàn miền Nam hoặc đại bộ phận miền Nam chưa có khả năng hiện thực lúc ấy. Buộc địch xuống thang chiến tranh là kinh nghiệm lớn trong cuộc đọ 422 sức với cuộc chiến tranh leo thang của đế quốc Mỹ. Để giành được mục tiêu đó, nhân dân cả nước ta phải đánh thắng chiến lược “tìm diệt” của Mỹ ở miền Nam, đánh thắng chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và đánh vào tận sào huyệt của Mỹ - nguỵ. 4. Mục tiêu của Mỹ trong “Chiến tranh cục bộ” là vừa “bẻ gãy xương sống Việt Cộng” nghĩa là tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam, vừa đánh phá hậu phương miền Bắc, làm cho miền Bắc không đủ sức tăng viện miền Nam và đẩy miền Bắc “trở về thời kỳ đồ đá”. Do đó, muốn đánh thắng “Chiến tranh cục bộ”, thì việc đánh thắng chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, giữa vững hậu phương lớn, bảo đảm tăng cường lực lượng về mọi mặt cho miền Nam bất kể tình huống nào là yêu cầu quan trọng song song với việc đánh thắng quân Mỹ trên chiến trường miền Nam. Chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ là một cuộc chiến tranh mới, ta chưa có kinh nghiệm. Nhân dân và quân đội ta, do Đảng lãnh đạo, đã sáng tạo ra cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại, đánh máy bay và tàu chiến địch bằng cả ba thứ quân, ở mọi tâng cao, tầng vừa, tầng thấp, bằng sự phối hợp các binh chủng, quân chủng và bằng lực lượng toàn dân. Để đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại, mọi hoạt động của miền Bắc phải chuyển hẳn sang thời chiến, lực lượng sản xuất và chiến đấu phải bố trí lại, việc sơ tán nhân dân, xí nghiệp, trường học, bệnh viện phải được tổ chức tốt, giao thông vận tải phải được bảo đảm thông suốt “địch phá, ta sửa, ta đi”, “địch phá, ta cứ đi”. Với sức tàn phá của gần 8 triệu tấn bom của Mỹ, miền Bắc vẫn vừa sản xuất, vừa chiến đấu, ý chí quyết chiến quyết thắng không hề lay chuyển, ngược lại, ý chí, quyết tâm đó ngày càng cao hơn, tăng viện cho miền Nam không hề giảm sút mà còn bảo đảm cho tiền tuyến đánh thắng hai cuộc phản công mùa khô của Mỹ và thực hiện cuộc tổng tiến công 1968. 5. Thắng lợi chống “Chiến tranh cục bộ” còn là thắng lợi của các mặt trận thống nhất chống Mỹ: Mặt trận thống nhất ở trong nước, Mặt trận thống Nhất ba nước Đông Dương, mặt trận thống nhất trên thế giới ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. Từ khi đế quốc Mỹ đưa quân trực tiếp xâm lược miền Nam, mặt trận 423 thống nhất chống Mỹ của toàn thể dân tộc đã bao gồm không chỉ các giai cấp, các đảng phải, cá nhân yêu nước tập hợp trong Mặt trận dân tộc giải phóng ở miền Nam và Mặt trận Tổ quốc ở miền Bắc, mà còn bao gồm tất cả những lực lượng, cá nhân không nằm trong Mặt trận kể cả số người trong chính quyền nguỵ và trong quân đội nguỵ, tham gia cao trào chống Mỹ, cứu nước bằng mọi hành động thiết thực. Trên nền tảng mặt trận thống nhất chống Mỹ của toàn thể dân tộc ta, Đảng chủ trương mở rộng và củng cố Mặt trận thống nhất nhân dân ba nước Đông Dương và Mặt trận thống nhất thế giới ủng hộ nhân dân ta chống Mỹ. Phong trào ủng hộ Việt Nam, lên án mạnh mẽ hành động xâm lược của đế quốc Mỹ dấy lên không những ở ba nước Đông Dương, ở trên thế giới mà ở ngay trong nước Mỹ. Trên thực tế, đây là loại hình mặt trận thống nhất quốc tế rộng lớn, với các hình thức, màu sắc và hành động khác nhau, nhưng tất cả đều đứng về phía nhân dân Việt Nam, phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ. “Mặt trận này tuy chưa xây dựng về hình thức, nhưng thực tế đã hình thành bằng hành động và tinh thần... Nhân dân Mỹ đánh từ trong ra, nhân dân ta đánh từ ngoài vào. Hai bên giáp công mạnh mẽ, thì đế quốc Mỹ nhất định sẽ thua, nhân dân Việt - Mỹ nhất định sẽ thắng”1. Ba tầng Mặt trận thống nhất chống Mỹ là nhân tố thắng lợi trong “Chiến tranh cục bộ” đồng thời là nhân tố thắng lợi trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ. 1 . Hồ Chí Minh:Sách đã dẫn, t.10, tr.194-197.
File đính kèm:
- nhiem_vu_trung_uong_giao_lich_su_dang_cong_san_viet_nam_tap.pdf