Sự kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam

Tóm tắt Sự kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam: ... sở đảm bảo cho công cuộc cải tổ nói chung. Nhưng do cải cách chính trị không thận trọng, lại không phù hợp với cải cách kinh tế, cho nên nền kinh tế lại lao sâu hơn vào sự khủng hoảng. Nghiêm trọng hơn, cuộc cải tổ ấy lại trực tiếp dẫn đến khủng hoảng chính trị, kết thúc bằng việc đán...đều thẳng thắn chỉ ra những sai lầm và tìm cách khắc phục. Đại hội lần thứ VI của Đảng trên tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” [3, tr.12] đã thẳng thắn tự phê bình về việc đã thực hiện nhiều chủ trương, chính sách sai lầm trong cải tạo và xây dựng... theo con đường xã hội chủ nghĩa, trên nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh” [6, tr.83]; “Khẳng định lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Ð...

pdf6 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 321 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Sự kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 9
Sự kiên định và vận dụng sáng tạo 
chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam 
Nguyễn Minh Hoàn* 
Tóm tắt: Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam 30 năm qua đã đạt được những thành tựu to 
lớn. Thành quả này có được do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là việc 
Đảng ta kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt 
Nam. Thành tựu đó là sự bác bỏ đanh thép đối với luận điệu phủ nhận chủ nghĩa Mác -
Lênin. Việc tiếp tục kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực 
tiễn Việt Nam là điều kiện để nước ta nhanh chóng đi tới mục tiêu “dân giàu, nước 
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 
Từ khóa: Chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác - Lênin; kiên định; sáng tạo; Đảng Cộng 
sản Việt Nam. 
1. Mở đầu 
Việt Nam đã vượt qua được sự khủng 
hoảng của chủ nghĩa xã hội những năm cuối 
thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước; 
đạt được thành tựu to lớn suốt 30 năm tiến 
hành đổi mới. Vì sao chế độ xã hội chủ 
nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô lại sụp đổ, 
trong khi đó ở Việt Nam chế độ xã hội chủ 
nghĩa vẫn tồn tại, hơn nữa Việt Nam lại 
thoát ra khỏi khủng hoảng và đạt được 
thành tựu to lớn? Điều đó có nhiều nguyên 
nhân khách quan và chủ quan, trong đó có 
nguyên nhân là việc Đảng Cộng sản Việt 
Nam đã kiên định và vận dụng sáng tạo chủ 
nghĩa Mác - Lênin. Muốn xây dựng thành 
công chủ nghĩa xã hội thì phải kiên định 
chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời phải vận 
dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng 
tạo trong những hoàn cảnh thực tiễn cụ thể. 
Về điều này, ngay trước Cách mạng tháng 
Mười, Lênin đã nhấn mạnh: “Chúng ta 
không kỳ vọng rằng Mác hay những người 
theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt 
cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa xã 
hội. Như thế sẽ là phi lý. Chúng ta chỉ biết 
phương hướng của con đường đó và những 
lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường 
đó, còn như về cụ thể và trên thực tế con 
đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng 
triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào 
hành động” [10, tr.152,153]. Kiên định và 
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin là 
nguyên nhân cơ bản dẫn đến thành công 
trong quá trình đổi mới ở Việt Nam.*Điều 
này một lần nữa được khẳng định trong Báo 
cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng 
khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của 
Đảng (do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn 
Phú Trọng trình bày tại phiên khai mạc 
trọng thể Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
XII của Đảng): “Trước hết, phải chú trọng 
xây dựng Đảng về chính trị. Kiên định chủ 
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, 
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Học viện 
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. ĐT: 0913828018. 
Email: hoan_cbxh@yahoo.com.vn 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(103) - 2016 
 10
vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với 
thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc 
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định 
đường lối đổi mới. Nâng cao bản lĩnh chính 
trị, trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và 
của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán 
bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; 
không dao động trong bất cứ tình huống 
nào. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân 
của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu 
của cán bộ, đảng viên” [11]. Nhận định cho 
rằng sự kiên định và vận dụng sáng tạo chủ 
nghĩa Mác - Lênin là một nguyên nhân cơ 
bản của những thành tựu to lớn trong công 
cuộc đổi mới ở Việt Nam đã được đề cập 
trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học 
nhưng vẫn cần tiếp tục được khẳng định và 
làm sáng tỏ hơn nữa. 
2. Bài học từ sai lầm trong cải tổ của 
Đảng Cộng sản Liên Xô 
Ngay sau Cách mạng tháng Mười khi bắt 
tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô 
đứng trước những thử thách vô cùng to lớn 
(nền kinh tế lạc hậu bị tàn phá nặng nề 
trong chiến tranh thế giới thứ nhất, nội 
chiến, sự chống phá của các nước đế quốc). 
Đứng trước tình hình đó, V.I.Lênin đã đề ra 
Chính sách kinh tế mới. Nhưng tiếc rằng 
đường lối đúng đắn này không được quán 
triệt thực hiện sau khi V.I.Lênin mất, mà 
thay vào đó là mô hình phát triển dựa trên 
việc tuyệt đối hóa cơ chế kế hoạch hóa tập 
trung cao, tuyệt đối hóa nguyên tắc tập thể, 
coi nhẹ vai trò chủ động và sáng kiến cá 
nhân, chối từ một cách chủ quan duy ý chí 
nền sản xuất hàng hóa, cơ chế thị trường, 
thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, triệt tiêu 
động lực lợi ích trực tiếp, triệt tiêu tính chủ 
động, sáng tạo của các đơn vị kinh tế và cá 
nhân người lao động. Do sự kéo dài của cơ 
chế tập trung quan liêu, bao cấp cho nên tốc 
độ phát triển của nền kinh tế chậm dần, sức 
sản xuất ngày càng tụt hậu, đời sống nhân 
dân ngày càng khó khăn, nền kinh tế rơi 
vào khủng hoảng trầm trọng. Trong bối 
cảnh khủng hoảng nặng nề này, Hội nghị 
toàn thể Ủy ban Trung ương Đảng Cộng 
sản Liên Xô (tháng 4 năm 1985) đã tiến 
hành công cuộc cải tổ (do M.X. 
Góocbachốp khởi xướng). Sau đó, Đại hội 
XXVII và các Hội nghị Trung ương tiếp 
theo đã tiếp tục cụ thể hóa đường lối cải tổ 
đó. Để đảm bảo sự phù hợp giữa quan hệ 
sản xuất với trình độ phát triển của lực 
lượng sản xuất, nội dung cơ bản của cải tổ 
trước hết là chuyển nền kinh tế từ phát triển 
chiều rộng sang chiều sâu, từ cơ chế kế 
hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường; 
thừa nhận sự tồn tại của quan hệ hàng hóa - 
tiền tệ... Song, do cơ chế cũ vẫn còn ảnh 
hưởng rất nặng nề, cho nên trong một thời 
gian ngắn nền kinh tế vẫn không phát triển 
nhanh hơn được; đời sống kinh tế - xã hội 
vẫn rất khó khăn. Vì vậy, với mong muốn 
đẩy nhanh tốc độ cải tổ, Hội nghị lần thứ 
19 của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng 
sản Liên Xô (họp từ ngày 26 tháng 6 đến 
ngày 1 tháng 7 năm 1988) nhấn mạnh rằng, 
cải cách thể chế chính trị là cơ sở đảm bảo 
cho công cuộc cải tổ nói chung. Nhưng do 
cải cách chính trị không thận trọng, lại 
không phù hợp với cải cách kinh tế, cho 
nên nền kinh tế lại lao sâu hơn vào sự 
khủng hoảng. Nghiêm trọng hơn, cuộc cải 
tổ ấy lại trực tiếp dẫn đến khủng hoảng 
chính trị, kết thúc bằng việc đánh mất vai 
Nguyễn Minh Hoàn 
 11
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ 
xã hội chủ nghĩa sụp đổ. 
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở 
Liên Xô không phải do bản chất của chế độ 
xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa Mác - Lênin 
sinh ra, mà là do đường lối lãnh đạo chủ 
quan duy ý chí đi ngược lại tinh thần biện 
chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, do 
không kiên định và vận dụng sáng tạo chủ 
nghĩa Mác - Lênin. Tuy cải tổ ở Liên Xô là 
đòi hỏi tất yếu, song sự cải tổ ấy đã không 
được thực hiện theo một đường lối đúng 
đắn, không tuân theo những nguyên lý của 
chủ nghĩa Mác - Lênin. 
3. Bài học từ sai lầm trong xây dựng 
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ 
trước đổi mới 
Đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội mà 
Đảng Cộng sản Việt Nam áp dụng trong 
thời kỳ trước đổi mới cũng có sai lầm và 
điều đó cũng đã dẫn đến khủng hoảng kinh 
tế xã hội cuối những năm 70 đầu những 
năm 80 của thế kỷ trước. Ngay ở chặng 
đường đầu tiên xây dựng chủ nghĩa xã hội, 
Đảng chủ trương xóa bỏ chế độ sở hữu tư 
nhân về tư liệu sản xuất với niềm tin rằng 
điều đó sẽ mở đường cho sự phát triển của 
lực lượng sản xuất. Mặc dù nước ta đã đạt 
được một số thành tựu bước đầu trong quá 
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm 
vi cả nước, cơ bản xóa bỏ được chế độ tư 
hữu, thiết lập được chế độ công hữu, nhưng 
trên thực tế, chúng ta vẫn phải đương đầu 
với rất nhiều khó khăn gay gắt về phát triển 
kinh tế và cải thiện đời sống của nhân dân. 
Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến 
những khó khăn trên đã được vạch ra ngay 
từ văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc 
lần thứ V của Đảng. Văn kiện Đại hội V 
khẳng định rằng chúng ta chưa thấy hết 
được những khó khăn phức tạp của con 
đường đi lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ 
một nền sản xuất nhỏ phân tán và lạc hậu, 
cũng như chưa thấy hết hậu quả của cuộc 
chiến tranh lâu dài; đã chủ quan nóng vội 
đưa ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô, 
quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát 
triển sản xuất; trong khi đó lại bảo thủ trì 
trệ trong việc tìm biện pháp phát huy những 
thuận lợi và khả năng về lao động, tài 
nguyên, ngành nghề và cơ sở vật chất kỹ 
thuật đã có [2, t.2, tr.13 - 15]. 
Những giải pháp khắc phục những thiếu 
sót do Đại hội V đưa ra đã bước đầu ngăn 
chặn được đà giảm sút của sản xuất nông 
nghiệp và công nghiệp trong những năm 
1981 - 1985. Tuy nhiên, về mặt quan hệ sản 
xuất, mặc dù bước đầu đã thừa nhận sự tồn 
tại của nhiều thành phần kinh tế, nhưng do 
vẫn tiếp tục nhấn mạnh đến việc củng cố và 
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ 
nghĩa trong cả nước, vẫn muốn xoá bỏ ngay 
các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, 
thực hiện xây dựng nền kinh tế với hai 
thành phần kinh tế cơ bản (thành phần kinh 
tế quốc doanh và kinh tế tập thể) nên nhiều 
nguồn lực phát triển lại bị triệt tiêu, không 
có cơ hội được cùng tham gia một cách 
bình đẳng vào hoạt động của nền sản xuất 
xã hội, sức sản xuất xã hội đã không được 
giải phóng, sức ỳ của nền sản xuất càng gia 
tăng, xã hội càng rơi vào tình trạng trì trệ 
kéo dài và dẫn đến khủng hoảng kinh tế xã 
hội vào cuối những năm 70, đầu những năm 
80 của thế kỷ XX. Sai lầm trong xây dựng 
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ trước 
đổi mới có nguyên nhân ở chỗ không vận 
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(103) - 2016 
 12
4. Đường lối đúng đắn xây dựng chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới 
Mỗi khi vấp phải sai lầm, Đảng ta đều 
thẳng thắn chỉ ra những sai lầm và tìm cách 
khắc phục. Đại hội lần thứ VI của Đảng 
trên tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh 
giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” [3, tr.12] đã 
thẳng thắn tự phê bình về việc đã thực hiện 
nhiều chủ trương, chính sách sai lầm trong 
cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại 
hội đã vạch rõ những hạn chế và sai lầm 
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội 
cả về chế độ sở hữu, chế độ phân phối và cơ 
chế quản lý, đồng thời đề ra đường lối đổi 
mới. Để khắc phục những sai lầm mắc phải, 
Đại hội VI đã quyết định chuyển nền kinh 
tế từ mô hình kế hoạch hoá tập trung quan 
liêu, bao cấp, dựa trên chế độ công hữu về 
tư liệu sản xuất dưới hai hình thức chủ yếu 
là quốc doanh và tập thể sang nền kinh tế 
hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo 
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà 
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Đảng chỉ rõ: “Lực lượng sản xuất bị kìm 
hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ 
sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản 
xuất phát triển không đồng bộ có những yếu 
tố đi quá xa so với trình độ phát triển của 
lực lượng sản xuất” [3, tr.57]. Đây là một 
luận điểm thể hiện sự vận dụng sáng tạo 
chủ nghĩa Mác - Lênin. 
Xuất phát từ luận điểm quan trọng đó, 
Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về 
nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa phù hợp 
hơn trong hoàn cảnh mới. Đại hội khẳng 
định: “Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là 
nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt 
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, với 
những hình thức và những bước đi thích 
hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với 
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, 
luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển 
của lực lượng sản xuất” [3, tr.58]. 
Đảng ta không chỉ đơn thuần tập trung 
đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, hay ngược 
lại chỉ cải tổ chính trị như Liên Xô và các 
nước Đông Âu. Đảng ta nhấn mạnh việc 
phải “kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới 
kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới 
kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước 
đổi mới chính trị” [4, tr.71]. Đây là bài học 
vô cùng quý giá đã được chứng minh trong 
suốt 30 năm đổi mới vừa qua. 
Đồng thời với việc nhấn mạnh phải kiên 
định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - 
Lênin trong quá trình xây dựng chủ nghĩa 
xã hội, Đảng ta còn nhấn mạnh việc phải 
tuân thủ đúng theo những nguyên lý lý luận 
ấy trong việc khắc phục những hệ quả từ 
những nhận thức sai lầm về chủ nghĩa xã 
hội. Vì vậy, trước biến cố sụp đổ của một 
loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu 
và Liên Xô những năm đầu thập kỷ 90 thế 
kỷ XX, Đảng ta đã đưa ra những nhận định 
hết sức đúng đắn và kịp thời trên lập trường 
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Cương lĩnh xây 
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ 
nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh) đã tổng kết 
và nêu rõ: “Chủ nghĩa xã hội đang đứng trước 
nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới 
đang phải trải qua những bước quanh co; song, 
loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến bước tới 
chủ nghĩa xã hội, vì điều đó là quy luật của 
tiến hóa lịch sử” [5, tr.8]. 
Để vượt qua được thử thách trong mọi 
hoàn cảnh để tiếp tục đưa sự nghiệp xây 
dựng chủ nghĩa đến thắng lợi cuối cùng, 
Cương lĩnh cũng đồng thời khẳng định: 
Nguyễn Minh Hoàn 
 13
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư 
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, 
kim chỉ nam cho hành động” [5, tr.21]. Cho 
đến hiện nay, đứng trước thử thách của quá 
trình bước vào hội nhập quốc tế, các kỳ Đại 
hội sau luôn nhấn mạnh đến việc phải kiên 
trì chủ nghĩa Mác - Lênin: “Trong quá trình 
đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân 
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng Chủ 
nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí 
Minh” [6, tr.81]; “Ðảng và nhân dân ta 
quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam 
theo con đường xã hội chủ nghĩa, trên nền 
tảng Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng 
Hồ Chí Minh” [6, tr.83]; “Khẳng định lấy 
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí 
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam 
cho hành động là bước phát triển quan 
trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của 
Ðảng ta” [6, tr.84]; “Đổi mới không phải từ 
bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho 
chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn 
hơn, và được xây dựng có hiệu quả hơn. 
Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức 
đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa 
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm 
nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam 
cho hành động cách mạng” [7, tr.70]. 
Kể từ thời điểm đổi mới đến nay, trong 
bối cảnh quốc tế có nhiều biến động sâu 
sắc, nhờ kiên định và vận dụng sáng tạo chủ 
nghĩa Mác - Lênin nên nước ta tiếp tục 
giành được nhiều thắng lợi mới. Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X khẳng 
định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư 
tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân 
tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng và phát 
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư 
tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của 
Đảng. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ 
sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn 
những vấn đề do cuộc sống đặt ra”; “Nâng 
cao trình độ trí tuệ chất lượng nghiên cứu 
lý luận của Đảng; tiếp tục làm sáng tỏ 
những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con 
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước 
ta; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn 
đường lối, chính sách của Đảng trong 
thời kỳ mới” [7, tr.131]. 
Việc nước ta đạt được những thành tựu 
to lớn trong công cuộc đổi mới là cơ sở 
thực tiễn để khẳng định tính khoa học và 
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nếu 
không nhận thức đúng cũng như không vận 
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong 
điều kiện lịch sử cụ thể, thì việc khủng 
hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội là 
một tất yếu. Nói cách khác, tình trạng 
khủng hoảng và sụp đổi chủ nghĩa xã hội 
như đã diễn ra ở một số nước có nguyên 
nhân ở sự không kiên định và không vận 
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Sở dĩ 
sự nghiệp đổi mới ở nước ta từ Đại hội VI 
đạt được thành quả to lớn trước hết là do 
Đảng ta kiên định và vận dụng sáng tạo chủ 
nghĩa Mác - Lênin. 
5. Kết luận 
Tổng kết thực tiễn đổi mới, Đại hội VIII 
của Đảng đã nhấn mạnh: “Kết hợp chặt chẽ 
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới 
chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, 
đồng thời từng bước đổi mới chính trị” [4, 
tr.71]. Tiếp đến Đại hội IX một lần nữa 
khẳng định: “Tiếp tục đổi mới sâu rộng, 
đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ máy nhà 
nước” [6, tr.165]. Để khẳng định cho định 
hướng đúng đắn được chứng minh từ thực 
tiễn 30 năm của công cuộc đổi mới, Đại hội 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(103) - 2016 
 14
X của Đảng càng làm sâu sắc hơn những 
nội dung cốt lõi của đổi mới khi nhấn 
mạnh: “Đổi mới tất cả các mặt của đời sống 
xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, 
có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự 
gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm 
vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng 
Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - 
nền tảng tinh thần xã hội” [7, tr.70,71]. Sâu 
sắc hơn nữa, Đại hội XI từ toàn bộ những 
thành tựu của đổi mới đạt được chỉ rõ: “Đổi 
mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh 
tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn 
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng 
xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh 
đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp 
quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ 
trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng 
cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi 
mới toàn diện và phát huy sức mạnh tổng 
hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng 
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, 
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” 
[6, tr.99]. Như vậy, trong sự nghiệp xây 
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, 
Đảng ta đang kiên trì và vận dụng sáng tạo 
chủ nghĩa Mác - Lênin, nhờ đó cách mạng 
Việt Nam đã và đang đạt được những thành 
tựu to lớn. Thành tựu đó là cơ sở Việt Nam 
thực hiện được mục tiêu “dân giàu, nước 
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong 
giai đoạn tiếp theo, là sự bác bỏ đanh thép đối 
với luận điệu phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1960), Văn 
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
III, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn 
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
V, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn 
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn 
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), 
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong 
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 
Nxb Sự thật, Hà Nội. 
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn 
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn 
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[8] V.I.Lênin (1976), Toàn tập, t.34, Nxb 
Tiến bộ Mat-xcơ-va. 
[9] Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc 
Việt, Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên) 
(2008), Quá trình đổi mới tư duy lý luận 
của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[10] Lê Hữu Tầng (Chủ biên) (2014), Một 
số vấn đề lý luận mới về chủ nghĩa xã 
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã 
hội ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa 
học xã hội, Hà Nội. 
[11] 
dang/toan-van-bao-cao-cua-ban-chap-
hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-ve-cac-
van-kien-dai-hoi-xii-cua-dang-
367706.html 

File đính kèm:

  • pdfsu_kien_dinh_va_van_dung_sang_tao_chu_nghia_mac_lenin_o_viet.pdf
Ebook liên quan