Tiểu luận Vắc – xin phòng bệnh dại

Tóm tắt Tiểu luận Vắc – xin phòng bệnh dại: ...virus dại tồn tại vài tháng ở 400C hoặc hàng năm ở 700 C e/ Quá trình xâm nhập và nhân lên Glycoprotein với các cấu trúc "gai" bề mặt đóng vai trò quan trọng trong quá trình tiếp cận và tương tác với tế bào chủ. Sau khi gắn được với bề mặt tế bào, virus xâm nhập nhờ các "bọng" được hình ... 5-10% trường hợp ) hoặc chậm hơn 3 tháng (7-20% trường hợp). Thậm chí kéo dài hơn cả năm ( 1,8% trường hợp ). Thời gian ủ bệnh ngắn nhất được tìm thấy khi vết cắn ở đầu, mặt, tay và đặc biệt là đối với trẻ em. -Thời kỳ khởi phát: Từ 2-4 ngày trước khi phát bệnh, bệnh nhân thấy đau nhức nơi vế...hòa bớt virus, làm giảm nồng độ virus . Vắcxin phòng ngừa có tác dụng bảo vệ sau 2-8 tuần Theo báo cáo của TCYTTG, trong số 112 nước có báo cáo về ủy ban giám sát bệnh dại thế giới thì có 32 nước có sản xuất vắc xin dùng cho người. a/ Các vắc xin sản xuất trên mô thần kinh Các lọai vắc ...

pdf15 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 306 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tiểu luận Vắc – xin phòng bệnh dại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 CD4 và chủ yếu là các tế bào T này có 
phản ứng chéo với các Lyssavirus khác. 
Tế bào T đặc hiệu ribonucleoprotein làm tăng khả năng tạo ra 
kháng thể trung hoà virus qua cơ chế nhận dạng kháng nguyên 
trong cấu trúc và được coi là yếu tố cơ bản trung gian trong đáp ứng 
miễn dịch bảo vệ. 
Việc phát hiện kháng thể ở người bị bệnh dại sau khi xuất hiện triệu
chứng lâm sàng hoặc chết không còn có giá trị chẩn đoán vì quá 
muộn. 
Xác định hiệu giá kháng thể được coi là dấu hiệu chỉ điểm, thường 
được sử dụng để đánh giá trạng thái miễn dịch sau khi tiêm vắc xin.
 d/ Phản ứng với các tác nhân lý hóa 
 Virus dại kém bền vững nhạy cảm với các yếu tố ngoại cảnh: bị 
tiêu diệt nhanh chóng bởi tia cực tím hoặc ánh sáng mặt trời, xà 
phòng đặc 20%, bởi sức nóng (500C /1h),bởi các dung môi 
lipid,bởi trypsin,chất tẩy, chất oxy hóa và pH quá cao hoặc quá thấp 
. Virus dại sống được hàng tuần khi lưu trữ ở 400C bất hoạt bởi 
CO2 .Trong mô não, virus dại tồn tại vài tháng ở 400C hoặc hàng 
năm ở 700 C 
e/ Quá trình xâm nhập và nhân lên 
Glycoprotein với các cấu trúc "gai" bề mặt đóng vai trò quan trọng 
trong quá trình tiếp cận và tương tác với tế bào chủ. Sau khi gắn 
được với bề mặt tế bào, virus xâm nhập nhờ các "bọng" được hình 
thành từ lớp màng tế bào chủ bao bọc lấy virus để đưa virus vào tế 
  6
bào chất (pinocytosis). Lớp màng bao của virus hợp nhất với màng 
của các bào quan dẫn đến quá trình giải phóng lõi virus trong 
nguyên sinh chất của tế bào (quá trình cởi áo virus). Sau khi được 
giải phóng, RNA của virus bắt đầu quá trình tổng hợp các mRNA 
(bước khởi đầu cho quá trình nhân lên trong tế bào chủ). 
Polymerase của virus tiến hành sao mã phần leader sequence và 
mRNA của các loại protein. Quá trình giải mã để tổng hợp các 
protein của virus được tiến hành tại các ribosome của tế bào quá 
trình lắp ráp, phức hợp N-P-L gói lấy RNA virus hình chủ (các 
glycoproteiin được hoàn thiện tại các ty thể và mạng lưới golgi nội 
bào). Tỷ lệ đoạn trình tự lãnh đạo (leader strand) và protein N là 
"công tắc" điều khiển quá trình nhân lên của virus. Khi "công tắc" 
này được bật, bộ gene của virus bắt đầu được sao mã (bước khởi 
đầu là tạo bản sao của toàn bộ các gene, các "stop-codon" và 
"nonstop-codon" được bỏ qua). 
Polymerase của virus tác động từ một ví trí đơn tại đầu 3' và bắt đầu 
cho quá trình tổng hợp mạch dương. Các mạch dương trở thành 
khuôn cho quá trình tổng hợp toàn bộ bộ gene. Trong thành "lõi" 
virus và protein M (matrix protein) hình thành lớp bao xung quanh 
lõi. Tiếp theo, Cấu trúc M-RNP kết hợp với glycoprotein tạo các 
virion hoàn chỉnh. Các virion thoát ra khỏi màng tế bào chủ (đặc 
biệt là khả năng thoát khỏi màng các tế bào thần kinh thuộc hệ thần 
kinh trung ương (central nervous system; CNS). Trong các tuyến 
nước bọt (salivary glands), các virion thoát khỏi màng tế bào vào 
các túi tuyến (acinar lumen). 
Virus nhân lên ở bào tương, các virion nẩy chồi từ màng bào tương 
tế bào ký sinh chủ. Virus dại tấn công vào các thụ thể acethylcholin 
trên bề mặt tế bào qua các gai glycoprotein. Men polymerase RNA 
của virion sao chép bộ gen sợi đơn RNA thành 5 loại RNA thông 
tin (mRNA) .Bộ gen RNA nằm trong ribonucleoprotein (RNP), 
được protein N bao quanh chứa các gen sao chép .Các mRNA mã 
  7
hóa cho 5 protein của virion: nucleocapsit (N), protein của men 
polymerase (L,P), chất đệm (M) và glycoprotein (G) .RNP của bộ 
gen làm khuôn mẫu cho RNA sợi dương bổ sung, tạo ra các RNA 
con cháu có cực tính âm .Các protein virus đóng vai trò như 
polymerase cho virus nhân lên vào sao chép . Sự dịch mã cần thiết 
cho virus nhân lên, đặc biệt là cho protein N và P, RNA mới được 
nhân lên kết hợp với men transcriptase và nucleprotein của virus để 
tạo lõi RNP trong bào tương.Các hạt virus có được màng bao bọc 
trong lúc nẩy chồi qua màng bào tương .Protein đệm của virus tạo 1 
lớp ở mặt ngoài và tạo các gai virus. 
III/ Phân loại bệnh dại 
 Có 2 dạng dịch bệnh dại : 
 Bệnh dại từ động vật nuôi như chó mèo 
 Bệnh dại tự nhiên: Là bệnh do động vật hoang dại truyền. 
Loài dơi rất nguy hiểm vì chúng có thể mang virus dại nhưng biểu hiện hoàn toàn khỏe 
mạnh, tiết virus dại vào nước bọt rồi truyền đến động vật khác và người .Bệnh dại ở loài dơi 
có thê gây những trận dịch động vật ở những vùng mới trên trái đất. 
 IV/ Đường lây truyền và triệu chứng 
 Virus dại chủ yếu lây truyền qua các vết cắn, vết liếm vào vết thương của người hoặc một số 
động vật khác của động vật mang bệnh dại .Trong một số ít trường hợp, bệnh có thể lây truyền do 
ghép giác mạc . 
Triệu chứng trên chó 
• Thể điên 
 Sau thời gian ủ bệnh chó lên cơn điên dữ dội: mắt đỏ ngầu, chảy dãi như bọt xà bông quanh 
mép, không còn cảm giác, lao vào mọi người kể cả chủ nó và các con vật khác để cắn xé. Thời 
kỳ này chó bỏ ăn hoặc nhai nuốt tất cả vật gì mà nó gặp trên đường đi. Chó sủa có tiếng khàn 
khàn hoặc rú lên từng hồi ghê rợn khác hẳn với trạng thái bình thường. Vài ngày sau đó chó 
bỏ nhà đi hoặc rúc vào bờ bụi, xó tối và chết trong trạng thái gầy rạc, kiệt sức, bại liệt vơí 
những vết thương rớm máu trên thân thể do tự cắn xé. Bệnh tiến triển trong vòng 2- 5 ngày 
chó suy kiệt rồi chết. 
• Thể bại liệt 
 Đầu tiên chó thể hiện các trạng thái bất thường: ngơ ngác, bồn chồn, đi lại, ăn ít hoặc bỏ ăn. 
  8
Sau đó chó lặng lẽ chui vào một xó tối nằm im, do đó gọi là thể dại im lặng hoặc thể dại câm, 
khác hẳn với thể điên cuồng. Vài ngày sau, chó bị liệt chân, liệt hàm, không thể há mồm ra 
được nhưng nước dãi vẫn chảy quanh mép như bọt xà phòng. Sau khi phát bệnh từ 3 - 5 ngày, 
chó chết trong trạng thái bại liệt hoàn toàn. 
Chó bị mắc bệnh dại: buồn rầu, bị bại liệt một phần hoặc nửa 
người, hàm trễ, lưỡi thè, chỉ gầm gừ trong họng, không sủa 
được. 
 Thể này rất nguy hiểm vì người ta không nghĩ đến bệnh dại và mấy ngày đầu chó có thể cắn 
chủ nhà khi đến chăm sóc nó. Thể bại liệt chiếm 20 - 30% số chó bị bệnh dại. 
Triệu chứng biểu hiện bệnh trên người: 
-Thời kỳ ủ bệnh: thời kỳ này tương ứng với sự di chuyển và nhân lên của virus. Thời gian ủ bệnh dài 
hay ngắn tùy thuộc vào khoảng cách từ vị trí vết cắn đến thần kinh trung ương xa hay gần , vết cắn 
càng gần thần kinh trung ương thi thời gian ủ bệnh càng ngắn . 
Thời gian ủ bệnh trung bình là 30-90 ngày ( 80% trường hợp), có những trường hợp nhanh dưới 20 
ngày ( 5-10% trường hợp ) hoặc chậm hơn 3 tháng (7-20% trường hợp). Thậm chí kéo dài hơn cả 
năm ( 1,8% trường hợp ). Thời gian ủ bệnh ngắn nhất được tìm thấy khi vết cắn ở đầu, mặt, tay và 
đặc biệt là đối với trẻ em. 
-Thời kỳ khởi phát: Từ 2-4 ngày trước khi phát bệnh, bệnh nhân thấy đau nhức nơi vết cắn , vết cắn 
bị sưng tấy. Những dấu hiệu này lan rộng dọc theo hệ thống thần kinh và hệ thống bạch huyết .Đồng 
thời người bệnh còn có các triêu chứng : bồn chồn, thổn thức, la hét, chán nản vô cớ . 
-Thời kỳ toàn phát: Có 3 thể lâm sàng: 
  9
Thể co thắt: 
-Đây là thể thường gặp nhất. Đặc điểm của thể này là co cứng, co thắt, co giật, run các cơ kể cả cơ 
mặt. Co thắt hô hấp và co thắt thanh quản khiến bệnh nhân khó thở là biểu hiện tổn thương hành tủy 
và là triệu chứng đặc trưng của bệnh. 
-Sợ nước: bệnh nhân thường rất khát nhưng khi uống nước họ bị co thắt lồng ngực, bị run câm cập. 
Trạng thái này qua mau nhưng để lại ân tượng kéo dài cho bệnh nhân, vì vậy họ không muốn uống 
nước mặc dù rất khát. Từ đó dẫn đến chỉ cần nhìn thấy 1 ly nước hoặc nghe tiếng nước chảy cũng sợ. 
-Sợ ánh sáng: được mô tả tương tự như biểu hiện sợ nước. 
 Tính cách bệnh nhân không bình thường. Bệnh nhân bị phấn khích quá độ khi bị kích thích. Không 
phát hiện thấy dấu hiệu mất tri thức. 
-Những cơn co thắt đầu tiên còn xa nhau, càng ngày càng dày hơn và người bệnh thường tử vong 
sau 3- 4 ngày do ngất hoặc ngạt trong một cơn co thắt sợ nước hoặc sau một cơn hôn mê. 
Thể liệt: 
-Thể này hiếm hơn, kém điển hình hơn, không có dấu hiệu phấn khích quá độ. Bệnh xuất hiện rất 
nhanh sau giai đoạn co thắt, run. Liệt có thể tiên phát và bắt đầu ở 1 chi hoặc 2 chi dưới rồi lan lên 
trên ( hội chứng Landry ) hoặc xuống dưới. Người bệnh thường bị tử vong do ngạt nước hoặc ngất 
vào ngày thứ 4. Diễn tiến bệnh thường không quá 4 -10 ngày. 
Thể cuồng: 
Bệnh nhân bị kích thích quá độ, có những phản ứng dữ tợn, trở nên hung bạo.Vì vậy bệnh nhân 
thường có những hành vi không bình thường như chống lại y, bác sĩ và những người quanh mình. Thể 
trạng suy sụp nhanh, hôn mê, ngất và chết. 
V/ Xử lý vết thương 
Khi bị chó, mèo dại hoặc nghi dại cắn, phải rửa thật kỹ vết thương bằng nước xà phòng đặc, 
nước muối, dội nước nhiều lần để sát khuẩn và làm giảm đến mức tối thiểu lượng virus còn 
lại ở vết thương. Sau đó, phải bôi chất sát khuẩn như cồn, cồn iốt đậm đặc. 
Không nên làm dập nát vết thương để tránh tình trạng virus xâm nhập nhanh hơn. Sau khi rửa 
vết thương, phải đến các điểm tiêm phòng dại để thầy thuốc chuyên khoa khám và có biện 
pháp điều trị dự phòng cụ thể cho từng trường hợp. 
 Rửa thật kỹ vết thương bằng nước sạch hoặc xà phòng đặc 20% 
 Bôi chất sát khuẩn :cồn .iod đậm đặc 
 Không khâu vết thương 
  10
 Gây tê tại chỗ cạnh vết thương (chủ yếu bằng procain) để ngăn cản sự tiến triển của 
virus. 
 VI/ Phòng chống 
+ Đối với những người có nguy cơ nhiễm virus cao như bác sỹ thú y, nhân viên phòng thí 
nghiệm, công nhân chăn nuôi, những nhà nghiên cứu động vật hoang dã v.v. , việc tạo miễn 
dịch chủ động bằng cách tiêm vaccine rất quan trọng. Miễn dich thiết lập sau 3 liều tiêm. 
Kháng thể được xác định ở gần như 100% trường hợp được tiêm. Tiêm nhắc lại đều đặn 1-3 
năm một lần cho những người tiếp tục làm việc với các đối tượng có nguy cơ. 
Việc xử lý các vết thương cùng cần được chú ý (kế cả đối với những người đã được tiêm 
vaccine) 
+ Khi bị gia súc (đặc biệt là chó mèo trong vùng có dịch) cắn, cần phải theo dõi những con 
vật đó ít nhất 10 ngày. Nếu có các biểu hiện nghi bị nhiễm virus dại, cần phải giết con vật và 
kiểm tra trong phòng thí nghiệm. 
+ Điều trị vết thương: Loại bỏ các tổ chức dập nát, rửa vết thương bằng các dung dịch sát 
trùng, và không nên khâu kín vết thương. Thực nghiệm cho thấy có thể hạn chế nhiễm virus 
nếu vết thương được xử lý tốt. 
+ Tạo miễn dịch bị động: Human rabies immunoglobulin tiêm trong da xung quanh vết 
thương có thể tạo khả năng phòng virus trong một thời gian ngắn. Việc tạo miễn dịch chủ 
động kết hợp với phương pháp này có hiệu quả cao hơn việc nếu chỉ dùng đơn thuần tạo 
miễn dịch chủ động. Equine rabies immunoglobulin (dùng các tế bào của ngựa) được sản 
xuất ở nhiều nước và rẻ hơn Human rabies immunoglobulin (dung các tế bào của người). 
+ Tạo miễn dịch chủ động: 5 liều vaccine thường được đưa vào cơ thể bằng cách tiêm vào 
vùng cơ delta (vaccine từ nuôi cấy virus trên các tế bào lưỡng bội của người được ưa thích 
hơn) 
+ Tiêm vaccine phòng bệnh cho chó, mèo cũng như việc theo dõi phát hiện sớm các biểu 
hiện của bệnh rất quan trọng trong phòng bệnh dại. Hạn chế nuôi chó. Chó nuôi phải xích, 
nhốt, chó ra đường phải rọ mõm. 
o Tiêm phòng dại cho 100% chó, mèo nuôi. 
  11
o Diệt hết chó chạy rông, chó vô chủ. Tại nơi có chó, mèo dại phải diệt hết đàn chó, mèo 
đã tiếp xúc với con vật bị dại. 
o Nghiêm cấm bán chó, mèo nơi đang có dịch dại sang nơi khác để hạn chế lây lan dịch. 
o Người bị chó, mèo dại, nghi dại cắn hoặc tiếp xúc phải đi tiêm phòng dại càng sớm 
càng tốt 
o Bất cứ ai bị nhiễm virus dại cũng cần đi tiêm vacxin và huyết thanh kháng dại để điều 
trị dự phòng. 
VII/ phương pháp phòng bệnh dại 
. 1/ Các lọai vắc xin phòng bệnh dại sản xuất trên thế giới: 
Cơ chế phòng bệnh dại bằng vắc xin 
 Virus dại nhân lên trong cơ gần nơi chích cho đến khi có đủ nồng độ nhiễm vào 
hệ thần kinh trung ương. Kháng thể thụ động có tác dụng trung hòa bớt virus, làm giảm 
nồng độ virus . Vắcxin phòng ngừa có tác dụng bảo vệ sau 2-8 tuần 
 Theo báo cáo của TCYTTG, trong số 112 nước có báo cáo về ủy ban giám sát 
bệnh dại thế giới thì có 32 nước có sản xuất vắc xin dùng cho người. 
 a/ Các vắc xin sản xuất trên mô thần kinh 
 Các lọai vắc xin này được sản xuất, sử dụng trong thời gian dài cũng cho những 
hiệu quả bảo vệ nhất định. Đã có nhiều nghiên cứu cải tiến, nhưng khi sử dụng các 
vắc xin lọai này thường gây những tai biến thần kinh như viêm não và viêm thần 
kinh dị ứng do một số điểm yếu của vắc xin: có chứ myelin của mô não, còn chứa 
một lượng virút chưa bị bất họat hòan tòan và khi điều trị phải tiêm nhiều mũi. Trên 
thế giới đã sản xuất một số lọai vắc xin phòng dại trên mô thần kinh. 
 - Vắc xin của Pasteur(1885): là lọai vắc xin dại đầu tiên trên thế giới, sản 
xuất từ chủng virút dại cố định trên não thỏ; bất họat bằng cách làm kho ở 21 – 
220C trong 1 – 5 ngày, bảo quản trong glycerine ở 40C. Vắc xin bất họat này đã 
được sử dụng tại trung tâm phòng chống dại của Viện Pasteur Paris từ 1885 – 1952.
 - Vắc xin Hogyes(1887) : cải tiến từ vắc xin của Pasteur bằng cách pha 
lõang dần hỗn dịch não thỏ. 
 - Vắc xin Pascarius ( 1895): sản xuất từ não thỏ, bất họat ở nhiệt độ thay 
  12
đổi từ 30 - 800C trong khỏang thời gian 10 phút. 
 - Vắc xin Fermi ( 1905) : sản xuất từ não cừu non bằng chủng virút Pasteur
( VP), vắc xin chứa 5% hỗn dịch não, bảo quản bằng 1% phenol bất họat trong 24 
giờ ở nhiệt độ 220C. Tuy là một vắc xin bất họat nhưng vẫn còn chứa một lượng 
virút sống nên TCYTTG đã khuyến cáo không sử dụng lọai vắc xin này nhưng cho 
đến nay vẫn còn được sử dụng ở một số nước miền nam Châu Phi. 
 - Vắc xin Babes ( 1912) : Virút dại được bất họat ở 580C trong khỏang thời 
gian 30 phút. 
 - Vắc xin Hempt ( 1925 – 1938 ): sản xuất từ não thỏ, bất họat bằng e – ter, 
được sử dụng ở Đức, sau đó bị lọai bỏ vì còn chứa virút dại sống. 
 - Vắc xin Semple ( 1911): sản xuất từ não dê hoặc cừu bằng chủng VP giữ trên 
não thỏ. Vắc xin chứa 5% hỗn dịch não, bất họat bằng phenol 1,5% ở nhiệt độ 
370C. Vắc xin được sử dụng ở Mỹ từ năm 1958, gây được hiệu quả bảo vệ khá 
cao,tuy nhiên gây ra nhiều tai biến viêm não tủy, viêm thần kinh dị ứng sau tiêm do 
có chứa nhiều myelin – protein lạ trong thành phần. 
b/ Vắc xin sản xuất từ mô thần kinh của động vật sơ sinh 
Với mục đích ngăn ngừa những tai biến thần kinh ngòai mong muốn, một số nhà 
khoa học đã nghiên cứu phát triển sản xuất các vắc xin dại từ mô não thần kinh của 
động vật sơ sinh vì mô não của chúng được xem là không có chứa myelin. 
Năm 1955 ở Chi Lê,Fuenzalida và Palacois đã phát triển một kỹ thuật sản xuất vắc 
xin dại dùng chủng CVS trên não chuột ổ 3 – 5 ngày tuổi vào thời điểm gây nhiễm 
virút. Lúc đầu vắc xin này được dùng cho thú y, đến năm 1960 được cải tiến và thử 
nghiệm cho người. Cho đến nay, vắc xin này vẫn đang được sử dụng tại các nước 
Châu Mỹ La Tinh, Châu Á, Châu Phi với số lượng khỏang 3 – 5 triệu liều/năm. 
 - Vắc xin dại từ não chuột cống sơ sinh được phát triển ở Liên Xô cũ vào năm 
1960 và sử dụng rộng rãi chó đến cuối những năm 70. Vào những năm 80 đã được 
thay thế bằng vắc xin nuôi cấy tế bào thận chuột đất vàng tiên phát. 
 - Vắc xin dại sàn xuất từ não thỏ dứt sữa được sản xuất tại Viện Quốc gia y 
tế cộng đồng ở Hà Lan vào năm 1964. Họat tính miễn dịch của vắc xin này được 
  13
thấy là thích hợp và xuất hiện sau 14 – 15 ngày tiêm liên tục, nhưng vắc xin này 
chưa bao giờ được sử dụng rộng rãi cho người. 
c/ Các văc xin không chứa mô thần kinh 
 - Vắc xin phôi vịt ( 1956) được điều chế bằng cách cấy virút dại cố định 
trên phôi vịt 7 ngày tuổi. Sau 14 ngày thu họach và pha thành hỗn dịch 10% và bất 
họat bằng β – propiolacton. Vắc xin được sử dụng ở Mỹ cho tới khi có vắc xin tế 
bào, vắc xin này không gây viêm não dị ứng nhưng dễ gây dị ứng cho những người 
có cơ địa dị ứng với protein trứng. 
 - Vắc xin phôi gà tiên phát tinh chế (1985) : Vắc xin này có công hiệu cao, 
được tinh chế và cô đặc bằng ly tâm lạnh, bất họat bằng β – propiolacton. Hiện nay 
được sản xuất tại Viện huyết thanh Berna( Thụy Sĩ), Chiron Behring ( Đức ) và 
được sử dụng rộng rãi ở Châu Âu vì tính sinh miễn dịch và tính an tòan tương 
đương như các vắc xin nuôi cấy tế bào. 
 d/ Vắc xin nuôi cấy tế bào 
 Các vắc xin sản xuất trên nuôi cấy tế bào hiện nay đang rất phổ biến vì có 
tính an tòan và tính sinh miễn dịch cao. Theo thống kê của TCYTTG, các vắc xin 
sản xuất trên nuôi cấy tế bào dùng cho người bao gồm: 
o Vắc xin trên tế bào lưỡng bội người ( 1963) ( HDV) được sản xuất bằng 
chủng PM, thích nghi trên tế bào lưỡng bội người WI – 38. Vắc xin được sản xuất 
tại Mỹ, Pháp và Đức. Ở Mỹ, người ta bất họat virút bằng Tri – n – butylphosphat. 
Vắc xin không được sử dụng vì tính sinh miễn dịch rất thấp. Tại Pháp và Đức, vắc 
xin được bất họat bằng β – propiolacton, tinh chế bằng sacharoza gradient và ly tâm 
lạnh nên tính sinh miễn dịch cao hơn. Hiện đang được sử dụng khá rộng rãi ở các 
nước phát triển. 
o Vắc xin nuôi cấy trên tế bào lưỡng bội của bào thai khỉ ( RDRV). Sản xuất từ
chủng virút CVS – 11 trên nuôi cấy tế bào lưỡng bội phổi phôi khỉ, bất họat bằng β 
– propiolacton, hấp thụ với phosphat nhôm ở 40C. Vắc xin được sản xuất tại Mỹ 
với số lượng rất hạn chế. 
o Vắc xin trên tế bào thận chuột đất vàng tiên phát: 
  14
 Ở Canada : Dùng chủng CVS – 11, được sản xuất cho tời năm 1981 
 Ở Liên Xô cũ: Dùng chủng Vnucovo – 32, vắc xin được bất họat bằng tia cực tím, 
hiện vẫn đang được sản xuất và sử dụng rộng rãi tại CHLB Nga. 
 Ở Trung Quốc : Dùng chủng Beijing, bất họat bằng Formalin, hấp phụ bằng 
hyfroxit nhôm, vắc xin được sử dụng rộng rãi ở dạng đông khô hoặc lỏng cô đặc từ 
năm 1981 cho đến nay. 
o Vắc xin trên tế bào thận chó tiên phát : Dùng chủng PM gây nhiễm trên tế 
bào thận chó, vắc xin được bất họat bằng β – propiolacton, thêm tá chất nhôm 
phosphat, vắc xin được cô đặc và tinh chế, sản xuất tại Hà Lan với số lượng rất hạn 
chế. 
o Vắc xin trên tế bào phôi gà tiên phát (KONDO ):Được sản xuất và sử dụng 
tại Nhật Bản từ 1965, dùng chủng Flury HEP thích nghi trên CEC, vắc xin bất họat 
bằng β – propiolacton, cô đặc bằng siêu lọc và tinh chế một phần bằng siêu ly tâm. 
Vắc xin này có tính an tòan và tính sinh miễn dịch khá cao. 
o Vắc xin trên tế bào thường trực Vero ( Verorab ): được sản xuất tại Viện 
Pasteur Merieux ( Pháp ) từ năm 1984. Vắc xin được sản xuất từ chủng PM thích 
nghi trên dòng tế bào thường trực Vero đời truyền 137, vắc xin được bất họat, cô 
đặc, tinh chế, đông kho và có tính an tòan, sinh miễn dịch cao. 
 2/ phòng bệnh bằng kháng thể 
 Các loại kháng thể dại 
 Globudin miễn dịch kháng dại của người: Là một gamma globulin có tính miễn 
dịch cao, điều chế từ huyết tương người với ethanlol lạnh. Globulin này ít gây phản 
ứng phụ hơn huyết thanh ngựa kháng dại. 
 Huyết thanh ngựa kháng dại: Là huyết thanh được cô đặc từ ngựa có đáp ứng 
miễn dịch tốt với virus dại. Đến nay huyết thanh ngựa kháng dại vẫn được dùng ở 
những nơi không có glubulin miễn dịch kháng dại của người. 
VIII/ KẾT LUẬN 
 Tất cả các vắc xin dùng cho người đều chứa virus dại bất hoạt. Vắcxin chế từ 
  15
nuôi cấy tế bào có ưu thế hơn vắcxin chế từ mô thần kinh vì ít gây phản ứng phụ . 
 Ngoài vaccin phòng bệnh dại, globulin miễn dịch với bệnh dại và Huyết thanh 
ngựa kháng dại cũng được sử dụng để phòng ngừa cho những người bị chó, mèo 
cắn khi lên cơn dại 
 Vacxin phòng dại có thể gây một số phản ứng nhẹ tại chỗ tiêm như ngứa, tấy 
đỏ... nhưng vài ngày sau sẽ hết. Những người có cơ địa dị ứng, bệnh mãn tính hay 
nghiện rượu có thể bị sốt nhẹ, nhức đầu, buồn nôn, chóng mặt (thường xảy ra sau 
mũi tiêm thứ 3 trở đi). 
 Tuy nhiên, tỷ lệ người có những phản ứng phụ nói trên rất thấp, khoảng 1-2 
phần vạn. Khi có các triệu chứng nêu trên, bệnh nhân phải báo cho bác sĩ ở phòng 
tiêm để có biện pháp xử lý kịp thời. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
- VẮC XIN VÀ CHẾ PHẨM MIỄN DỊCH TRONG PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH 
- MIỄN DỊCH HỌC CƠ SỞ 
-  
-  
- www.impe-qn.org.vn/impe-qn/vn/upload/info/ima... 
-  

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_vac_xin_phong_benh_dai.pdf
Ebook liên quan