Trần Đức Thảo với hiện tượng học

Tóm tắt Trần Đức Thảo với hiện tượng học: ...inh nghiệm tuy vô hạn nhưng trên thực tế lại bị giới hạn bởi những điều kiện, trường hợp cụ thể. Nhận định này của ông là nhạy bén, (3) Trần Đức Thảo (2004), Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr.36. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) ... thời gian và thực tế “sống trải”. Như vậy, hiện thực mới phù hợp với thái độ tự nhiên bằng quy giản do nhận thức đòi hỏi. Việc loại bỏ khách thể từ các tiền kiến có sẵn là sự tạo lập và tái tạo hiện thực sống trải. Trần Đức Thảo cũng nhận định sự sáng tạo của Husserl là việc tìm kiếm ph...hảo chứng minh bằng những lập luận cụ thể. Một là, nội dung của ý thức bao giờ cũng là phản ánh vật chất. Bằng việc tìm một số tập tính của thú vật và trẻ em qua sự chênh lệch giữa hành vi ngoại hiện với ý nghĩa nội tại, ông chứng minh rằng mỗi hiện tượng ý thức đều phải dựa trên một t...

pdf7 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 170 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Trần Đức Thảo với hiện tượng học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 
 44 
Trần Đức Thảo với hiện tượng học 
Bùi Thị Tỉnh * 
Tóm tắt: Trần Đức Thảo là nhà triết học đã dày công nghiên cứu hiện tượng học. 
Khi nhận ra hạn chế của hiện tượng học Husserl, ông đã tiếp thu chủ nghĩa duy vật 
biện chứng để xây dựng “hiện tượng học duy vật”. Trần Đức Thảo đã “gạn đục khơi 
trong”, kết hợp quan điểm của Husserl và quan điểm của C.Mác, mang lại “một dòng 
cảm biến đa chiều”, tích cực cho hiện tượng học. Những đóng góp của ông cho triết 
học nhân loại cần phải được đánh giá, nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện. 
Từ khóa: Trần Đức Thảo; Husserl; hiện tượng học; chủ nghĩa duy vật biện chứng. 
1. Mở đầu 
Tác phẩm Hiện tượng học và chủ nghĩa 
duy vật biện chứng (xuất bản năm 1951) 
đánh dấu sự chuyển biến của Trần Đức 
Thảo từ lập trường hiện tượng học Husserl 
sang lập trường duy vật biện chứng(1). Về 
điều này Trần Đức Thảo đã khẳng định: 
“Cuốn sách này đánh dấu sự chuyển biến 
của tôi về Hiện tượng học theo chủ nghĩa 
duy vật biện chứng”(2). Tác phẩm Hiện tượng 
học và chủ nghĩa duy vật biện chứng đã 
nhận được sự bình luận khá rộng rãi bởi 
nhiều nhà triết học trong và ngoài nước, 
song đóng góp của Trần Đức Thảo cho đến 
nay vẫn là một câu hỏi cần tiếp tục giải đáp. 
Bài viết này phân tích sự phát triển hiện 
tượng học của Trần Đức Thảo. 
Mở đầu tác phẩm Hiện tượng học và chủ 
nghĩa duy vật biện chứng, Trần Đức Thảo 
tán đồng với quan điểm của Husserl cho 
rằng “hiện tượng học là khoa học về bản 
chất”, ý nghĩa của nhận thức là làm cho 
hiểu biết trở thành chân lý. Theo Trần Đức 
Thảo, Husserl đã thành công khi chứng 
minh sự thất bại của khoa học duy lý, bởi 
không thể giải quyết được tất cả các vấn đề 
bằng các quy luật logic. Song, theo Trần 
Đức Thảo, hạn chế của Husserl là quan 
điểm duy nghiệm khi phân tích “ý niệm 
thuần túy”.(1)Phủ nhận quan điểm duy nghiệm 
của Husserl, ông khẳng định rằng, khi tôi 
xác định một vấn đề đúng thì ý thức đúng 
ấy nằm trong sự vật khách quan có giá trị 
với tất cả mọi người, và ở mọi thời gian. 
Lập luận vấn đề logic phải mang tính chân 
thực, phải phản ánh hiện thực, nhưng Husserl 
lại giải quyết vấn đề bằng sự xung đột của 
nhận thức. Husserl đã sai lầm khi tuyệt đối 
hóa ý nghĩa của phương pháp trực giác và 
mô tả trực tiếp. Để khắc phục thiếu sót này, 
Trần Đức Thảo đưa ra quan điểm về “trực 
giác bản chất” và “hiện thực sống trải”. 
2. Quan điểm của Trần Đức Thảo về 
trực giác bản chất 
Theo Husserl, hiện tượng là thế giới thực 
(*) Tiến sĩ, Học viện Chính trị Công an Nhân dân. 
ĐT: 0912610685. Email: Tinhtu_02@yahoo.com. 
(1) Chúng tôi tạm gọi là hiện tượng học duy vật. 
(2) Trần Đức Thảo (2004), Sự hình thành con người, 
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr.141. 
CHÍNH TRỊ - KINH TẾ HỌC 
Trần Đức Thảo với hiện tượng học 
 45 
tại được phản ánh bởi chủ thể, gắn liền với 
chủ thể, tức là liên kết chủ thể với đối 
tượng hoặc liên kết chủ thể với những yếu 
tố không thể chia tách, nằm trong chủ thể 
như âm thanh, màu sắc bên ngoài sự vật. 
Đây là phát hiện độc đáo của Husserl. 
Nhưng theo Trần Đức Thảo, không thể tách 
màu sắc ra khỏi bản thân sự vật, màu sắc 
cần phải có bản thể chứa đựng và màu sắc 
hiện ra thể hiện bản chất của nó. Bản chất 
của màu sắc luôn mang tính khách quan, 
gắn kết với sự vật; dù có tưởng tượng ra 
màu sắc thì màu sắc ấy luôn phải gắn chặt 
với bản thể; “ý thức không thể là điều kiện 
cho cái có thể có”. Chúng ta không thể 
nhận thức được bản chất của sự vật bằng 
cách duy nhất là tưởng tượng. Chúng ta 
cũng không thể hiểu một sự vật cụ thể bằng 
cách tách rời nó ra khỏi hoàn cảnh; không 
thể nắm bắt sự vật cụ thể thông qua tri giác 
“riêng rẽ” về sự vật. Nhận thức của chủ thể 
là phản ánh hiện thực khách quan; do đó, sẽ 
không thể tưởng tượng ra màu sắc nếu 
không có sự tiếp nhận về nó. Theo Trần 
Đức Thảo, hạn chế của Husserl là áp đặt 
chủ quan đối với bản chất khách quan của 
sự vật. 
Vật thể (đối tượng của tri giác, cảm giác) 
bao giờ cũng nằm trong một tổng thể không 
gian - thời gian; có những “hình thức đặc 
thù” và tính chất đặc thù như một thực thể 
vật chất; có những quan hệ và quy luật nhất 
định. Bản chất trong nhận thức là một sự 
bất biến. Do đó, sự biến thể của trực giác 
trong nhận thức chân lý là tái tạo các giá trị 
vật chất trong nhận thức. Điều này hoàn 
toàn trái ngược với quan điểm của Husserl. 
Ông cho rằng, “vật” hiện ra trước mắt 
chúng ta không phải là “vật” mang bản chất 
theo đúng nghĩa. Quan niệm về trực giác 
không phải là giả thuyết siêu hình, bởi 
chúng ta chỉ có thể hiểu rõ trực giác qua 
những khía cạnh khác nhau và trong những 
tình huống nhất định của sự vật. 
Trần Đức Thảo đã so sánh quan niệm về 
“ý niệm thuần túy” và “ý niệm kinh nghiệm” 
của Huserl khi xác định mối quan hệ của 
nhận thức trực giác với “đối tượng phổ 
biến”. Trực giác theo quan điểm của Huserl 
không “tĩnh” cũng không “động”, tồn tại phụ 
thuộc vào bản thể ý thức. Theo Trần Đức 
Thảo, trực giác của những lí tưởng thường 
thể hiện một cách “linh động”, “hoạt tính”, 
“sáng tạo”. Trực giác là một loại ý thức; 
“trực giác cũng không khác gì hơn việc nhận 
thức, khi nhận thức thấu hiểu bản thể”(3). 
Đồng thời, khi bản chất hợp với dữ kiện, tức 
khi dữ kiện ấy có thực và cụ thể thì nó góp 
phần khẳng định trực giác. 
Trần Đức Thảo tán đồng với quan điểm 
của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối 
quan hệ giữa bản chất và hiện tượng. Bản 
chất và hiện tượng có mối quan hệ chặt chẽ 
với nhau, “bản chất hiện ra, hiện tượng có 
tính bản chất”. Dữ kiện hay yếu tố bất biến 
không thể có được bằng phương pháp so 
sánh. Nhận thức về một sự vật không thể 
tìm thấy ngay bản chất trong hiện tượng. 
Mọi ý niệm kinh nghiệm đều có liên quan 
tới nhận thức về ý niệm. Theo Trần Đức 
Thảo, sự khác nhau của những ý niệm kinh 
nghiệm tuy vô hạn nhưng trên thực tế lại bị 
giới hạn bởi những điều kiện, trường hợp 
cụ thể. Nhận định này của ông là nhạy bén, 
(3) Trần Đức Thảo (2004), Hiện tượng học và chủ 
nghĩa duy vật biện chứng, Nxb Đại học Quốc gia, 
Hà Nội, tr.36. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 
 46 
sâu sắc, vì ý niệm kinh nghiệm không đưa 
tới những hiểu biết mới làm thúc đẩy “sáng 
tạo”. Để chứng minh cho lập luận của mình, 
Trần Đức Thảo đã đưa ra ví dụ: nếu tôi cố 
hiểu bản chất của con thiên nga thì tôi sẽ 
thấy màu trắng của con thiên nga là một 
trong những sắc thái trực quan của nó. Vậy, 
nếu màu của con thiên nga không trắng thì 
con thiên nga có còn là con thiên nga hay 
không? Chúng ta sẽ không biết rõ về điều 
này khi chúng ta tìm được một con thiên 
nga màu đen. 
Bằng phương pháp trực giác chúng ta có 
thể tìm thấy bản chất (tuy rằng nó đơn 
thuần được tri giác bằng “ý niệm thuần túy” 
hay “ý niệm kinh nghiệm”). Chẳng hạn, khi 
ta ngắm một bức tranh, một khung cảnh 
đẹp, ta có thể cảm nhận nó bằng trực giác 
và lưu giữ hình ảnh đó trong nhận thức. 
Đồng thời, trong khoảnh khắc nào đó, 
chúng ta cũng có thể rơi vào trạng thái 
“xuất thần”, ở ngoài bản thân và trong giây 
phút đó, ta sẽ tin vào cái thực tại mà không 
thể diễn tả chính xác bằng ngôn từ. Trần 
Đức Thảo cho rằng, các quy luật của trực 
giác quy định các điều kiện của tính có thể 
của nhận thức kinh nghiệm. Chúng độc lập 
với hiện thực, không ở bên ngoài hiện thực 
mà đi trước hiện thực và mang ý nghĩa tồn 
tại cho hiện thực. Đây là bước phát triển 
mới của Trần Đức Thảo so với Husserl. Tư 
tưởng đó đã thể hiện tư duy biện chứng, 
làm tiền đề cho sự phát triển hiện tượng học 
của Trần Đức Thảo. 
3. Quan điểm của Trần Đức Thảo về 
hiện thực sống trải 
Để nhận thức được sự vật, Husserl cho 
rằng cần phải giải phóng nhận thức ra khỏi 
những nhận thức có sẵn, phải “quay trở về 
với chính mình”. Vượt bỏ quan điểm đó của 
Husserl, Trần Đức Thảo lấy xuất phát điểm 
là “trở về với sự chân thực”. Luận điểm này 
đã khắc phục tính chất duy tâm của Husserl 
khi tách ý thức ra khỏi thế giới hiện thực và 
hoạt động hiện thực của con người. 
Theo Husserl, mọi sự trải nghiệm của 
bản thể đều trả lời cho câu hỏi “nó hiện hữu 
hay không hiện hữu trong thế giới khách 
quan?”; từ hiện tượng tới ý thức cần phải có 
ba yếu tố: cái tôi - bản ngã (bản ngã siêu 
nghiệm); hành động tinh thần; đối vật của 
hành động tinh thần đó. Các đối vật trở 
thành đối tượng của các ý thức chỉ khi nào 
chúng biểu đạt ý nghĩa hiển nhiên và ý 
nghĩa biểu thị. Một đối tượng chỉ được hiểu 
thông qua các thao tác của trí tuệ và cho nó 
một ý nghĩa liên quan đến “ý niệm thuần 
túy”. Husserl đưa ý niệm trở thành hiện 
tượng nhận thức, đã quy giản hiện tượng về 
chủ thể, còn đối tượng nhận thức mang tính 
“ý niệm” tồn tại bên trong trực giác. Không 
đồng tình với quan điểm đó, Trần Đức Thảo 
chú trọng đến tính chân thực trong nhận 
thức và coi nhận thức phải là sản phẩm của 
mối quan hệ giữa chủ thể - khách thể. Mặc 
dù cần quy giản hiện tượng để nhận thức 
bản chất, nhưng phải căn cứ vào “hiện thực 
sống trải” mà bản chất thể hiện trong hiện 
thực. Ở đây, sự khác biệt giữa Trần Đức 
Thảo và Huserl là ở chỗ, nếu Husserl xem 
cái tôi ý thức là ý thức về một cái cụ thể 
nào đó, thì Trần Đức Thảo lại xem cái tôi ý 
thức là ý thức cụ thể về một cái cụ thể 
khách quan nào đó, và đồng thời chịu sự tác 
động ngược trở lại của cái khách quan cụ 
thể ấy. 
Đứng trên lập trường duy tâm chủ quan, 
Husserl xây dựng bản thể luận mang tính 
chủ định do ý thức tạo lập. Trần Đức Thảo 
Trần Đức Thảo với hiện tượng học 
 47 
không gạt bỏ hiện tượng trong ý nghĩa nhận 
thức của chủ thể với tư cách là sự tồn tại 
thật sự. Phương pháp nhận thức của Husserl 
là phương pháp của Descarter “tôi tư duy, 
tôi tồn tại”. Ông cho rằng, cần đặt suy nghĩ 
theo thời gian và thực tế “sống trải”. Như 
vậy, hiện thực mới phù hợp với thái độ tự 
nhiên bằng quy giản do nhận thức đòi hỏi. 
Việc loại bỏ khách thể từ các tiền kiến có 
sẵn là sự tạo lập và tái tạo hiện thực sống 
trải. Trần Đức Thảo cũng nhận định sự sáng 
tạo của Husserl là việc tìm kiếm phương 
pháp cho các vấn đề lý tính trong hành 
động thực tế sống trải của chủ thể. Husserl 
đã phát triển sự biến đổi từ suy nghĩ đặc thù 
của Descarter: chính trong tính hiện tại của 
những suy nghĩ đã trải nghiệm mới có thể 
phát hiện ra ý nghĩa vĩnh cửu của chúng. 
Hiện tượng học trở nên vô nghĩa nếu bản 
chất của hiện thực sống trải trở thành bản 
chất của nhận thức. “Ý thức có ở trong bản 
thân nó một bản thể riêng của nó, không bị 
động chạm trong bản chất riêng của nó bởi 
loại trừ hiện tượng học”(4). “Ý thức chỉ có 
thể tự mình làm sáng tỏ bởi một tri giác nội 
tại, trong đó khi phản chiếu về chính nó thì 
nó tạo nên sự thống nhất trực tiếp với chính 
nó”(5), tức là cái tôi sống trải là hiện thực đã 
có trong ý thức và nó tương quan với ý thức 
tác động ngược lại hiện thực. Trần Đức 
Thảo đã chỉ ra mối quan hệ của hiện thực 
sống trải và ý thức, bởi ý thức không chỉ 
phản ánh thế giới khách quan mà còn tạo ra 
thế giới ấy. Theo Husserl, sự phản chiếu 
của “bóng hình” trong tri giác cảm tính sự 
vật là ý thức sống trải trong chủ thể và thúc 
đẩy bởi “ý nghĩ tổng giác” tạo nên mối liên 
hệ với khách thể. Tuy nhiên, Trần Đức 
Thảo phân biệt “tồn tại là cái sống trải với 
tồn tại là sự vật”, bởi “bóng hình” là cái đã 
sống trải. Nhưng cái đã sống trải chỉ có thể 
như là cái đã sống trải chứ không phải như 
là cái thuộc về không gian(6). Ông khẳng 
định, khái niệm “bóng hình” mà Husserl sử 
dụng trong hiện tượng học sẽ luôn luôn siêu 
nghiệm nếu ý thức hướng vào nó. Tuy cái 
đã sống trải không hiện ra bằng các bóng 
hình, bởi đơn thuần nó chỉ là một yếu tố 
thực tế nội tại của ý thức, nhưng thực tế tri 
giác luôn biến đổi, tạo lập cái mới. Như 
vậy, cái đã sống trải không phải là tuyệt đối 
trong tri giác nội tại, nó chỉ đúng khi mà 
bản thân thể nghiệm đã sống trải. Trần Đức 
Thảo phủ định quan điểm của Husserl cho 
rằng “không có tồn tại hiện thực”, bởi sự 
“tồn tại của ý thức, bị biến đổi do sự xóa 
sạch thế giới của các sự vật”(7). 
4. Hiện tượng học duy vật của Trần 
Đức Thảo 
Trần Đức Thảo cho rằng hiện tượng học 
Husserl không giúp ông trong nghiên cứu 
khoa học. Ông viết: “Các phân tích hiện 
tượng học cụ thể chỉ có thể thấy hết được ý 
nghĩa của chúng và được phát triển đầy đủ 
trong phạm vi của chủ nghĩa duy vật biện 
chứng. Tất nhiên là trong những điều kiện 
ấy, chúng ta buộc phải vứt bỏ không những 
tính tổng thể của học thuyết Husserl mà 
ngay cả phương pháp của nó trong chừng 
mực nó bị xơ cứng biến thành các công 
thức trừu tượng. Vả lại, khái niệm về “siêu 
nghiệm” là thừa ngay từ đầu vì nó duy trì 
một sự đồng nhất chặt chẽ về nội dung giữa 
“ý thức thuần túy” và ý thức tự nhiên. Dù 
thế nào chăng nữa, lý thuyết chỉ có ý nghĩa 
thông qua thực tiễn, và chính những đòi hỏi 
(4), (5) Sđd, tr.76. 
(6) Sđd, tr.77. 
(7) Sđd, tr.79. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 
 48 
thực tiễn của công việc mô tả bắt buộc ta 
phải lật nhào lý thuyết của chủ nghĩa duy 
tâm siêu nghiệm”(8). Trần Đức Thảo cũng 
khẳng định rằng: “Nếu Husserl vẫn còn ở 
lại với truyền thống của chủ nghĩa duy lý 
duy tâm, đánh dấu sự nở rộ muộn mằn của 
giai cấp tư sản Đức và những điểm tiến bộ 
chớm hé nở của nó, thì sự phát triển của 
ông cũng chỉ chứng tỏ không hơn gì một sự 
khắc khoải thắc mắc ngày càng tăng về nền 
tảng hiện thực của những ý nghĩa được 
nhằm vào trong ý thức”(9). Như vậy, Trần 
Đức Thảo đã kết nối hiện tượng học 
Husserl với chủ nghĩa duy vật biện chứng 
của C.Mác, qua đó khẳng định giá trị của 
triết học Mác. Sự đúng đắn của triết học 
Mác được Trần Đức Thảo chứng minh bằng 
những lập luận cụ thể. Một là, nội dung của 
ý thức bao giờ cũng là phản ánh vật chất. 
Bằng việc tìm một số tập tính của thú vật và 
trẻ em qua sự chênh lệch giữa hành vi ngoại 
hiện với ý nghĩa nội tại, ông chứng minh 
rằng mỗi hiện tượng ý thức đều phải dựa 
trên một trạng thái vật chất nào đó. Hai là, 
mỗi hệ tư tưởng của nhân loại đều mang 
một nội dung cụ thể và chính xác. Trần Đức 
Thảo đã xác định tính biện chứng của sự 
vận động của xã hội loài người là phù hợp 
với những quan hệ sản xuất đương thời. Sự 
tiến hóa của tư tưởng nhân loại là sự tiến 
hóa mang tính lịch sử theo chiều sâu, gắn 
liền với lịch sử hình thành, phát sinh, phát 
triển và diệt vong của các hình thức sở hữu 
về tư liệu sản xuất. 
Không chỉ nêu lên hạn chế của hiện 
tượng học Husserl, Trần Đức Thảo còn cho 
rằng, nguyên nhân của những hạn chế đó là 
chủ nghĩa duy tâm siêu nghiệm. Điều này 
về sau đã được Paul Ricoeur đúc rút một 
cách vắn gọn trong tác phẩm Về Hiện tượng 
học như sau: “Hiện tượng học hiện ra như 
gương mặt cuối cùng của chủ nghĩa duy 
tâm đang tưởng nhớ đến thực tế; Hiện 
tượng học chạy sau cái bóng của thực tế 
trong ý thức; chỉ chủ nghĩa Mác mới nắm 
được thực tế thực sự của vật chất con 
người; nhưng Hiện tượng học không đơn 
giản tự bị loại trừ, như toàn bộ chủ nghĩa 
duy tâm trong chủ nghĩa Mác, nó còn hiện 
thực hoá ở đó ý nghĩa của các phân tích cụ 
thể của cái sở nghiệm do Husserl tiến hành, 
với một sự chăm chút và một sự kiên nhẫn 
đáng ngưỡng mộ, dù triết học duy tâm 
chính là khởi điểm của Hiện tượng học tìm 
thấy chân lý của chúng trong một triết học 
của lao động"(10). Lời nhận định vừa có tính 
chất phê phán, vừa ca ngợi hiện tượng học 
Husserl, song trên hết là lời khen tặng cho 
đồng nghiệp của mình, một người đã “lao 
động triết học miệt mài” trên con đường tìm 
ra chân lý. 
5. Kết luận 
Trên cơ sở so sánh hiện tượng học 
Husserl và phép biện chứng duy vật, khi 
phân tích hành vi của động vật và phép biện 
chứng của xã hội loài người, Trần Đức 
Thảo kết luận: “Phép biện chứng duy vật 
diễn đạt sự vận động của các giá trị con 
người sinh ra từ lao động xã hội của con 
người... Trong việc xây dựng chủ nghĩa xã 
hội và chuyển lên xây dựng chủ nghĩa cộng 
sản, cuối cùng thì sự hòa giải thế giới được 
thực hiện, sự hòa giải ấy là mơ ước của tư 
tưởng tư sản trong phép biện chứng duy 
tâm về các hình thức bóc lột nay được giai 
(8) Sđd, tr.17. 
(9) Sđd, tr.23. 
(10) Paul Ricoeur (1952), Sur la phenomenology, 
Esprit, p.827, Bản dịch của Cao Việt Dũng. 
Trần Đức Thảo với hiện tượng học 
 49 
cấp vô sản đặt trên mảnh đất thực sự của nó 
bằng sự tổ chức lao động xã hội, trong đó 
thủ tiêu mọi cấu trúc giai cấp và mọi lý do 
của sự đặc quyền. Là sự thực hiện hình thức 
con người của nhân loại, chủ nghĩa Mác 
hoàn thành các khát vọng lý tưởng của quá 
khứ. Nhưng bản thân nó không chỉ được đặt 
ra trên mặt ý niệm: nó là sự vận động thực 
tế của toàn xã hội, trong đó các cơ cấu 
truyền thống được giai cấp vô sản hấp thụ 
bởi tính vật chất của đời sống hiện thực của 
chúng”(11). 
Có thể nói, nhờ việc nghiên cứu sâu sắc 
hiện tượng học Husserl và nắm chắc bản 
chất học thuyết Mác, Trần Đức Thảo đã 
phân tích sự khác biệt giữa hiện tượng học 
Husserl và chủ nghĩa duy vật biện chứng. 
Ông khẳng định vai trò của phương pháp 
biện chứng trong việc xem xét mối tương 
giao giữa chủ thể và khách thể. 
Trần Đức Thảo đã có công lớn trong 
việc khởi dựng một phương pháp mới từ 
việc phê phán hiện tượng học Husserl, 
nhưng ông cũng không thể tránh khỏi hạn 
chế bởi yếu tố thời đại. Trần Đức Thảo 
thẳng thắn thừa nhận: “Trên thực tế tôi mới 
chỉ đạt tới ngưỡng cửa chủ nghĩa Mác... 
Trong những phân tích ở phần hai cuốn 
sách của tôi, phương pháp được coi là 
mácxít đã lạc vào những điểm nhấn thất 
thường của thứ Hiện tượng học Husserl và 
hiện tượng học Hegel”(12). 
Theo chúng tôi, đóng góp của Trần Đức 
Thảo không chỉ là vấn đề học thuật hay trên 
bình diện triết học, mà còn như ông nói là: 
“Cần phải gắn cuộc sống với triết học, thực 
hiện một hành động thực tế giải đáp những 
kết luận về mặt lý luận trong cuốn sách của 
mình”(13). Hành động của ông từ bỏ Paris, 
từ bỏ hiện tượng học Husserl để đến với 
chủ nghĩa Mác và về nước tham gia kháng 
chiến chứng tỏ lập trường ấy.(11) 
Tài liệu tham khảo 
1. Bùi Đăng Duy (2007), “Hiện tượng học 
Đức: Edmund Husserl, Martin Heidegger và 
các nhà Hiện tượng học Việt Nam đầu tiên”, Kỷ 
yếu Hội thảo Những vấn đề triết học Phương 
Tây, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 
2. Trần Văn Đoàn (2013), “Trần Đức Thảo 
và hiện tượng học ở Việt Nam”, Kỷ yếu hội 
thảo Khoa học Quốc tế, Trường Đại học Sư 
phạm Hà Nội. 
3. Michel Espagne (2013), “Hiện tượng học, 
chủ nghĩa Mác và sự chuyển dịch văn hóa qua 
Trần Đức Thảo”, Kỷ yếu hội thảo Khoa học 
Quốc tế, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
4. Ngô Hương Giang (2013), “Hiện tượng 
học và Hiện tượng học của Trần Đức Thảo”, 
Tạp chí Triết học, số 9 (268). 
5. Đỗ Minh Hợp (1996), “Về phương pháp 
hiện tượng học của Huxéc”, Tạp chí Triết học, 
số 5. 
6. Phạm Trọng Luật (2004), “Triết lý của Trần 
Đức Thảo đã đi đến đâu?” “Hợp lưu” số 79. 
7. Jérôme Melancon (2013), “Nguồn gốc và 
sự phát sinh của ý thức thuần túy: nội dung thực 
chất của hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật 
biện chứng của Trần Đức Thảo”, Kỷ yếu hội 
thảo Khoa học Quốc tế, Trường Đại học Sư 
phạm Hà Nội. 
8. Nguyễn Trọng Nghĩa (2011), Hiện tượng 
học của Edmund Husserl và sự hiện diện của 
nó ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
(11) Trần Đức Thảo (2004), Hiện tượng học và chủ 
nghĩa duy vật biện chứng, Nxb Đại học Quốc gia, 
Hà Nội, tr.374. 
(12), (13) Trần Đức Thảo (2004), Sự hình thành con 
người, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr.141. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 
 50 

File đính kèm:

  • pdftran_duc_thao_voi_hien_tuong_hoc.pdf